Biện pháp bắt người đang bị truy nã trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Luận văn đã kiến nghị phải xây dựng một điều luật riêng về truy nã trong đó hàm chứa tất

cả các yếu tố như: tính chất của biện pháp ngăn chặn bắt, chủ thể áp dụng, đối tượng bị áp dụng,

căn cứ cũng như mục đích áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt.

- Luận văn đã kiến nghị về truy nã bị can là người chưa thành niên cũng phải được xác định

là thủ tục đặc biệt; các trường hợp ra quyết định truy nã, thời gian và thẩm quyền cần quy định rõ

và cụ thể hơn.

- Luận văn đã kiến nghị bổ sung diện đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy

nã; bổ sung thẩm quyền của Giám thị trại giam ra quyết định truy nã; về áp dụng biện pháp ngăn

chặn truy nã đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên

pdf19 trang | Chia sẻ: lanphuong92 | Lượt xem: 657 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biện pháp bắt người đang bị truy nã trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng báo cho mọi công dân biết nhưng trong tổ chức công tác truy nã phải sử dụng các hoạt động nghiệp vụ bí mật; - Chỉ tiến hành sau khi đã xác định hành vi phạm tội và những yếu tố cơ bản về đặc điểm, nhân thân đối tượng; - Là công việc nguy hiểm, phức tạp đòi hỏi tính tổ chức kỷ luật cao; - Khi phát hiện chính xác đối tượng có quyết định, lệnh truy nã mọi công dân đều có quyền bắt giữ. 1.2. Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định về biện pháp bắt người đang bị truy nã 1.2.1. Trong thời kỳ phong kiến - Luận văn đã cho thấy lịch sử phát triển của chế định bắt người đang bị truy nã gắn liền với từng thời kỳ, giai đoạn của đất nước và tiến trình cải cách tư pháp. Ngay từ thời kỳ phong kiến, việc bắt giữ người phạm tội đang lẩn trốn đã trở thành một tập quán của đời sống cộng đồng. - Luận văn đã viện dẫn những quy định của pháp luật trong thời kỳ phong kiến điều chỉnh về chế định truy nã thể hiện rõ nét nhất trong Bộ Quốc triều hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức). Mặc dù còn những nhược điểm nhất định do đặc điểm lịch sử nhưng những giá trị của pháp luật trong thời kỳ này đã có ảnh hưởng, đặt nền móng, tiền đề cho việc hình thành và phát triển pháp luật về truy nã tội phạm trong các giai đoạn, thời kỳ về sau này. 1.2.2. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 - Trong thời kỳ này, luận văn đã cho thấy ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước thì một số cơ quan tư pháp được ra đời thể hiện trong Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức Tòa án và ngạch Thẩm phán; Sắc lệnh 23/SL ngày 21/02/1946 thành lập "Việt Nam Công an vụ"; Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/7/1946 về tổ chức bộ máy Tư pháp Công an; Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp. - Luận văn phân tích những văn bản về các quyền tự do dân chủ có điều chỉnh về vấn đề truy nã như Sắc lệnh số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 về đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân; Sắc lệnh 002/SLT ngày 18/6/1957 quy định những trường hợp phạm pháp quả tang, khẩn cấp và những trường hợp khám người phạm pháp quả tang; Sắc luật số 02/SL-76 ngày 15/3/1976 của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định về việc bắt giam giữ... 1.2.3. Quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 - Luận văn chỉ ra rằng việc Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 được ban hành là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, là kết quả tổng kết kinh nghiệm của hơn 40 năm hoạt động tư pháp. - Luận văn đã phân tích và viện dẫn những quy định về biện pháp bắt người đang bị truy nã thể hiện trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 như Điều 64 về bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; Điều 65 về những việc cần làm ngay sau khi nhận người bị bắt; Điều 94 quy định thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan điều tra trong việc ra quyết định truy nã bị can; Điều 115 quy định về việc khám chỗ ở, địa điểm khi cần phát hiện người đang bị truy nã; Điều 135; Điều 136; Điều 141, Điều 142, 143b, Điều 162... - Ngoài ra, luận văn còn chỉ ra những tồn tại trong các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 qua việc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã. 1.3. Biện pháp bắt người đang bị truy nã ở một số nước Trong hệ thống pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của các nước trên thế giới đều có chế định và chế tài đối với hành vi phạm tội bỏ trốn cũng như trách nhiệm của cơ quan chức năng trong việc tìm kiếm, bắt giữ những đối tượng phạm tội đang trốn tránh pháp luật. Tuy nhiên ở các nước, việc quy định về truy nã người phạm tội lẩn trốn có nội dung đề cập khác nhau. Nhằm đối chiếu, so sánh, tham khảo, luận văn đã trích dẫn, phân tích các quy định trong pháp luật của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Liên bang Nga, Cộng hòa dân chủ Đức và nước Anh. Chương 2 Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự NĂM 2003 về biện pháp bắt người đang bị truy nã Và Thực Tiễn áp dụng 2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bắt người đang bị truy nã Tại mục này, luận văn đã nghiên cứu, phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bắt người đang bị truy nã thể hiện tại các các Điều 34, Điều 36, Điều 48, Điều 49, Điều 50, Điều 80, Điều 82, Điều 83, Điều 86, Điều 88, Điều 112, Điều 140, Điều 160, Điều 161, Điều 166, Điều 169, Điều 187, Điều 194, Điều 256, Điều 260, Điều 303. Trong quá trình viện dẫn, luận văn đã nêu những quy định mới, sửa đổi về biện pháp bắt người đang bị truy nã, khắc phục được những hạn chế, bất cập trong các quy định về bắt người đang bị truy nã của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ trong công cuộc đấu tranh ngăn ngừa, phòng chống tội phạm nói chung và người đang bị truy nã nói riêng trong giai đoạn hiện nay. 2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã 2.2.1. Tình hình tội phạm - Luận văn đã nêu khái quát tình hình trong nước và quốc tế có ảnh hưởng tới diễn biến tình hình tội phạm trong đó phải kể đến sự chống đối của các thế lực thù địch, phản động; tác động của mặt trái kinh tế thị trường và những vấn đề tiêu cực nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước làm cho tình hình tội phạm diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng... Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, các loại tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm sử dụng công nghệ cao có chiều hướng gia tăng. Tội phạm kinh tế, tham nhũng và vi phạm pháp luật về môi trường diễn ra phức tạp. Tội phạm ma túy diễn ra quyết liệt, đối tượng buôn bán, vận chuyển ma túy thường gắn liền với sử dụng vũ khí quân dụng chống trả quyết liệt khi bị phát hiện, bắt giữ. - Luận văn đã thống kê số liệu về các vụ án hình sự đã bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố, truy tố, thụ lý điều tra từ khi có Pháp lệnh điều tra hình sự năm 2004 cũng như qua các lần sửa đổi, bổ sung năm 2006 và năm 2009. 2.2.2. Tình hình tội phạm bỏ trốn - Luận văn đã tập trung thống kê số đối tượng truy nã chưa bắt được tính đến năm 2010 trong đó có phân tích số đối tượng bỏ trốn của từng hệ lực lượng trong cơ quan điều tra là hệ trật tự xã hội, hệ ma túy, hệ kinh tế và trại giam cũng như số đối tượng mà cơ quan điều tra trong Công an nhân dân đã ra quyết định truy nã tính từ ngày 30/9/2004 đến ngày 31/5/2010. - Ngoài ra, luận văn đã thống kê số đối tượng do cơ quan điều tra trong nước ra quyết định truy nã đối với số đối tượng phạm tội ở nước ngoài trốn vào Việt Nam qua kênh Interpol và Aseanpol. 2.2.3. Kết quả bắt người đang bị truy nã Trước tình hình nêu trên, luận văn đã phân tích những kết quả đã đạt được trong việc bắt người phạm tội bỏ trốn. Trong đó phải kể đến: - Sự sắp xếp, bổ sung về tổ chức bộ máy của cơ quan điều tra; - Số lượng người bị truy nã giảm qua các năm; - Kết quả bắt, vận động đầu thú, thanh loại đối tượng truy nã của các lực lượng; - Kết quả xử lý đối tượng truy nã sau khi đã bị bắt và đầu thú; - Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra với Viện kiểm sát và Tòa án các cấp có nhiều chuyển biến tích cực; - Phong trào quần chúng tham gia phát hiện, bắt giữ đối tượng truy nã và vận động tội phạm ra đầu thú; - Hợp tác quốc tế trong việc truy bắt người đang bị truy nã. 2.3. Những tồn tại, hạn chế trong quá trình áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã và nguyên nhân 2.3.1. Những tồn tại, hạn chế trong quá trình áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã 2.3.1.1. Tồn tại trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Luận văn đã phân tích các tồn tại trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự đó là: - Việc quy định chung việc bắt người đang bị truy nã với bắt người phạm tội quả tang là không phù hợp; Điều 82 thiếu các quy định về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người bị bắt, các vấn đề cần phải giải quyết sau khi tiếp nhận người bị bắt. Những nội dung này lại được quy định trong Điều 83. - Chưa thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ quyết định truy nã hay lệnh truy nã trong Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự. - Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành chỉ quy định về truy nã bị can nhưng không có điều luật nào quy định việc truy nã bị cáo. - Bộ luật tố tụng hình sự hiện chỉ quy định đối tượng truy nã gồm bị can và bị cáo còn các đối tượng khác chưa xác định cụ thể sẽ truy nã như thế nào. - Bất cập khi quy định những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, không cản trở cho công tác điều tra, xét xử thì áp dụng biện pháp khác trong khi nhóm đối tượng này bỏ trốn chiếm phần lớn sau khi có kết luận điều tra hoặc nhận cáo trạng truy tố hay nhận quyết định thi hành án. Hoặc bất cập trong quy định về trình tự tống đạt quyết định khởi tố bị can. - Bộ luật tố tụng hình sự quy định nếu bị cáo không bị tạm giam nhưng bị phạt tù thì họ chỉ bị bắt tạm giam để chấp hành hình phạt tù khi bản án đã có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử có thể ra quyết định bắt tạm giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội là không hợp lý và không phù hợp với thực tế. - Về việc ra quyết định đình nã, thông báo đình nã, Bộ luật tố tụng hình sự mới chỉ quy định thẩm quyền ra quyết định truy nã chứ chưa quy định ra quyết định đình nã, thông báo đình nã. Những vấn đề này lâu nay vẫn thực hiện theo các văn bản hướng dẫn chuyên ngành của Bộ Công an. - Bộ luật tố tụng hình sự quy định về trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại mà bỏ trốn và trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù trốn khỏi trại giam, thì cơ quan Công an ra quyết định truy nã. Quy định này không đáp ứng được yêu cầu truy nã người chấp hành án bỏ trốn và cũng không sát thực tế đối với công tác thi hành án hình sự. - Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác truy nã chưa đồng bộ, chậm được sửa đổi, bổ sung. - Việc Bộ luật tố tụng hình sự quy định 2 căn cứ truy nã bị can là bị can trốn tránh và không biết bị can đang ở đâu. Hai căn cứ này rất khó phân biệt và tạo ra những cách hiểu khác nhau. - Người tham gia bắt người đang bị truy nã có thể phải sử dụng vũ lực hoặc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự cho người bị bắt ở mức độ cần thiết đủ để bắt họ không bị coi là vi phạm pháp luật và người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đó nhưng hiện tại pháp luật chưa điều chỉnh vấn đề này. - Tồn tại trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã là người chưa thành niên. 2.3.1.2. Tồn tại trong thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã Luận văn đã phân tích những tồn tại trong thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã như: - Trong công tác quản lý còn có nhiều sơ hở để người phạm tội bỏ trốn; - Việc bắt người bị truy nã không đúng thủ tục, sai thẩm quyền; - Sự tham gia của quần chúng nhân dân vào bắt người bị truy nã còn hạn chế; - Việc áp dụng chính sách hình sự đối với người bị truy nã ra đầu thú còn chưa thống nhất; - Thông tin trên quyết định truy nã còn chưa đáp ứng yêu cầu phát hiện, truy bắt người bị truy nã; - Cơ quan điều tra chưa làm tốt công tác xác minh, điều tra kỹ trước khi ra quyết định truy nã; - Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn cho tại ngoại của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử chưa chặt chẽ, kịp thời, chưa đúng đối tượng 2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên 2.3.2.1. Nguyên nhân do ý thức chủ quan của chủ thể áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã Luận văn đã phân tích những nguyên nhân xuất phát từ ý thức chủ quan của chủ thể áp dụng đó là nhận thức về công tác truy nã có nơi, có lúc còn chưa cao; công tác quản lý, giam giữ còn chưa chặt chẽ làm cho đối tượng lợi dụng bỏ trốn; trình độ của cán bộ làm công tác bắt người bị truy nã chưa đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ; công tác kiểm tra, giám sát pháp luật trong lĩnh vực bắt chưa được Viện kiểm sát các địa phương tiến hành thường xuyên và đều khắp. 2.3.2.2. Những nguyên nhân khách quan Luận văn đã phân tích các nguyên nhân khách quan đó là: hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến công tác truy nã thiếu đồng bộ; chính sách đối với người truy nã ra đầu thú chưa rõ ràng cụ thể; do tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường; Bộ luật tố tụng hình sự vẫn còn những tồn tại trong các quy định về biện pháp ngăn chặn bắt người bị truy nã; việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn cho tại ngoại đối với bị can, bị cáo của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử chưa chặt chẽ, kịp thời và chưa đúng đối tượng dẫn đến tình trạng đối tượng lợi dụng bỏ trốn phải ra quyết định truy nã; kinh phí chi cho công tác xây dựng pháp luật và đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, trau dồi đạo đức của các chức danh tư pháp trong lĩnh vực bắt người đang bị truy nã chưa được đầu tư thích đáng... Chương 3 một số KIẾN NGHỊ VÀ Giải pháp NHẰM nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự việt nam 3.1. Nhu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự hiện hành về bắt người đang bị truy nã và nâng cao hiệu quả áp dụng 3.1.1. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và công cuộc cải cách tư pháp Luận văn đã phân tích nhu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về biện pháp bắt người đang bị truy nã xuất phát từ nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và công cuộc cải cách tư pháp. Luận văn đã trích dẫn, phân tích một số chủ trương, đường lối, chính sách trong các văn kiện của Đảng liên quan tới việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan tiến hành tố tụng. 3.1.2. Nhu cầu bảo vệ quyền con người Luận văn đã phân tích việc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã là một vấn đề nhạy cảm vì vậy pháp luật tố tụng hình sự cần quy định một cách chặt chẽ về căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục... nhằm đề cao trách nhiệm của người có thẩm quyền, bảo đảm bắt đúng người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, loại trừ những hành vi vi phạm trong quá trình thực thi nhiệm vụ. 3.1.3. Đòi hỏi nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, tình hình tội phạm phức tạp bỏ trốn Trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm có xu hướng gia tăng và có chiều hướng phức tạp, tính chất tội phạm ngày càng tinh vi đã kéo theo số đối tượng phạm tội trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật ngày càng phức tạp hơn. Trước tình hình đó, luận văn đã phân tích yêu cầu của hoạt động bắt người đang bị truy nã trong giai đoạn hiện nay là rất nặng nề, đòi hỏi vai trò nòng cốt của lực lượng Công an nhân dân, sự tham gia của các cơ quan, đoàn thể và quần chúng nhân dân trong việc phối hợp, truy bắt người có hành vi phạm tội bỏ trốn. 3.2. Một số kiến nghị góp phần tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật 3.2.1. Những kiến nghị hoàn thiện các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 20003 về biện pháp bắt người đang bị truy nã - Luận văn đã đưa ra kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật tố tụng hình sự như: Điều 34 về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra; Điều 83 về những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt; điểm a, khoản 2 Điều 88 về sử dụng thuật ngữ quyết định truy nã hay lệnh truy nã; Điều 161 quy định về truy nã; điểm b, khoản 2 Điều 169 về đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; khoản 1 Điều 187 về sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa; Điều 228 về bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án; Điều 263 về quản lý người được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. - Luận văn đã kiến nghị phải xây dựng một điều luật riêng về truy nã trong đó hàm chứa tất cả các yếu tố như: tính chất của biện pháp ngăn chặn bắt, chủ thể áp dụng, đối tượng bị áp dụng, căn cứ cũng như mục đích áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt. - Luận văn đã kiến nghị về truy nã bị can là người chưa thành niên cũng phải được xác định là thủ tục đặc biệt; các trường hợp ra quyết định truy nã, thời gian và thẩm quyền cần quy định rõ và cụ thể hơn. - Luận văn đã kiến nghị bổ sung diện đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã; bổ sung thẩm quyền của Giám thị trại giam ra quyết định truy nã; về áp dụng biện pháp ngăn chặn truy nã đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên. 3.2.2. Những kiến nghị hoàn thiện các quy định trong Bộ luật hình sự Luận văn đã đưa ra kiến nghị nhằm pháp điển hóa việc gây thiệt hại để bắt người bị truy nã trong Bộ luật hình sự về những trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi. 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về bắt người đang bị truy nã 3.3.1. Tăng cường công tác giải thích pháp luật của cơ quan chức năng Xuất phát từ tồn tại trong Thông tư số 05/TTLN đó là chỉ có một khái niệm "tự thú" cho tất cả những trường hợp tự thú hoặc đầu thú, tuy nhiên, mức độ có khác nhau và nói chung họ đều được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng không có hướng dẫn cụ thể trong trường hợp nào áp dụng khoản 1, trường hợp nào áp dụng khoản 2 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985. Do đó, luận văn cho rằng phải có giải thích pháp luật của cơ quan có thẩm quyền đối với những nội dung trong Thông tư số 05/TTLN về tự thú để tạo thuận lợi trong việc áp dụng thống nhất pháp luật. 3.3.2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức của chủ thể áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã Đối với giải pháp này, luận văn thấy việc tiêu chuẩn hóa đội ngũ các chức danh Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán để nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã là hết sức cần thiết. Ngoài ra, đối với từng cơ quan cụ thể, luận văn đã đề xuất một số giải pháp sau: - Đối với Cơ quan điều tra: Cần kiện toàn tổ chức lực lượng làm công tác truy nã; Thủ trưởng các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu, bố trí đúng người, đúng việc, các công việc được giao phải phù hợp với khả năng, trình độ của cán bộ; cơ quan điều tra cần tập trung nâng cao chất lượng trong các khâu, hoạt động điều tra theo luật tố tụng hình sự nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc bắt nhầm người; không đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định; cần nâng cao hơn nữa trình độ, năng lực của đội ngũ, mạng lưới Công an cơ sở giúp cho việc bắt người đang bị truy nã có hiệu quả... - Đối với Viện kiểm sát: Cần tăng cường công tác kiểm sát trong các giai đoạn tố tụng; tổ chức tập huấn nghiệp vụ của ngành để thống nhất thực hiện pháp luật; Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải có giải đáp hướng dẫn pháp luật dễ hiểu và thống nhất trong ngành... - Đối với Tòa án: Cần tăng cường nhận thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân; phải có lộ trình từng bước đảm bảo có đủ về số lượng, bảo đảm về phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, trình độ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là đội ngũ Thẩm phán... 3.3.3. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc chủ động ngăn chặn tình trạng người phạm tội lẩn trốn, hạn chế đầu vào Luận văn đã phân tích trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thực hiện các quy định của pháp luật nhằm hạn chế đầu vào của đối tượng truy nã như: cơ quan điều tra cần tăng cường trách nhiệm khi thụ lý điều tra các vụ án, đảm bảo thời hạn và kết quả điều tra; làm hết trách nhiệm trước khi ra quyết định truy nã; các cơ quan tiến hành tố tụng cần nâng cao hiệu quả các biện pháp điều tra tố tụng, phối kết hợp với các cơ quan chức năng như chính quyền địa phương, gia đình, cơ quan nơi làm việc của đối tượng... giám sát chặt chẽ các đối tượng được tại ngoại, tạm hoãn thi hành án để hạn chế số đối tượng bỏ trốn phải ra quyết định truy nã; kết hợp chặt chẽ giữa công tác điều tra với hoạt động truy nã tội phạm; quản lý được toàn bộ các khâu ra quyết định truy nã, đình nã; làm tốt công tác phòng ngừa, nâng cao chất lượng cũng như kết quả điều tra khám phá án, hạn chế đối tượng bỏ trốn phải ra quyết định truy nã; tổ chức tốt công tác điều tra tại hiện trường, bắt giữ kịp thời tội phạm, không để chúng có điều kiện chạy trốn. 3.3.4. Xử lý nghiêm minh, kịp thời các trường hợp vi phạm trong quá trình áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã Việc hoàn thiện chế độ trách nhiệm của người tiến hành tố tụng cũng là giải pháp cần thiết để bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân trong xét xử vụ án hình sự nói chung, trong áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người bị truy nã nói riêng. Do đó, luận văn cho rằng, trước hết cần hoàn thiện các quy định về trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân trong hoạt động tư pháp; hoàn thiện chế độ kỷ luật đối với hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân trong tố tụng hình sự; nâng cao trách nhiệm của người tiến hành tố tụng nếu họ có những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ với các hình thức như trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự... 3.3.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp, trao đổi giữa các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan, tổ chức hữu quan Luận văn đã phân tích cần tăng cường mối quan hệ phối hợp, trao đổi giữa các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan, tổ chức hữu quan như: - Sự cần thiết phải tăng cường sự phối kết hợp, trao đổi giữa cơ quan điều tra với Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân; giữa Điều tra viên với trinh sát; giữa cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc ủy ban nhân dân; giữa cơ quan, tổ chức nơi làm việc trước đây của đối tượng truy nã với cơ quan chức năng... - Chỉ đạo, quán triệt các Thẩm phán trong đơn vị sau khi kết thúc việc xét xử vụ án hình sự phải khẩn trương hoàn thiện bản án, quyết định để tiến hành giao bản án; rà soát, thống kê các trường hợp cụ thể những người bị kết án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng Tòa án chưa ra quyết định thi hành án để ra ngay quyết định thi hành án đối với họ. - Rà soát, thống kê cụ thể các trường hợp người bị kết án phạt tù được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt nhưng đã hết thời hạn được hoãn hoặc được tạm đình chỉ. - Phối hợp chặt chẽ với cơ quan Công an cùng cấp tiến hành rà soát các trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại, đã có quyết định thi hành án nhưng đã bỏ trốn để yêu cầu cơ quan Công an ra quyết định (lệnh) truy nã bắt họ đi chấp hành hình phạt tù. - Trong quá trình điều tra, Điều tra viên cần phải xây dựng kế hoạch, chiến thuật điều tra khi tiến hành điều tra các vụ án để vừa bắt triệt để các đối tượng phạm tội vừa không để các đối tượng trốn, nâng cao tỷ lệ điều tra khám phá án và ra quyết định truy nã phải theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. 3.3.6. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động bắt người đang bị truy nã Trong tình hình hiện nay khi mà các đối tượng phạm tội bỏ trốn có vũ khí, hung khí, phương tiện liên lạc hiện đại. Nếu lực lượng chuyên trách tham gia việc bắt người đang bị truy nã không nắm được những động thái cũng như tính chất lưu manh của đối tượng sẽ khó khăn rất nhiều trong quá trình truy bắt. Chính vì vậy, luận văn đã phân tích việc đầu tư, trang bị cơ sở vật chất phục vụ hoạt động bắt người truy nã theo hướng: - Đầu tư, bổ sung, hiện đại hóa đồng bộ các trang thiết bị phục vụ hoạt động bắt người đang bị truy nã sẽ hỗ trợ rất nhiều cho việc bắt nhanh, gọn tạo thuận lợi cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm. - Cần tăng cường kinh phí cho lực lượng trực tiếp tiến hành hoạt động truy nã đảm bảo ngày càng tốt hơn những điều kiện phục vụ truy nã. - Đầu tư, nâng cấp, cải tạo nhà tạm giữ, trại tạm giam, bảo đảm cơ sở vật chất cho việc tạm giữ, tạm giam đúng quy định của pháp luật... 3.3.7. Tăng cường công tác tuyên truyền, phát động phong trào quần chúng nhân dân tham gia phát hiện và bắt giữ người đang bị truy nã Luận văn đã phân tích sự tham gia của quần chúng nhân dân có vị trí, vai trò rất to lớn trong cuộc đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm nói chung và bắt người đang bị truy nã nói riêng bằng việc đưa ra các giải pháp nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả đó: - Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của quần chúng nhân dân khi phát hiện và bắt giữ người bị truy nã. - Tập trung tuyên truyền về pháp luật và chính sách hình sự của Nhà nước, thủ đoạn hoạt động và lẩn trốn của tội phạm, những sơ hở, thiếu sót mà bọn tội phạm thường chú ý lợi dụng để hoạt động và ẩn náu. - Kết hợp chặt chẽ các hình thức tuyên truyền kể cả trực tiếp, gián tiếp như sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức, hội nghị quần chúng, t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf00050002058_4264_2009396.pdf
Tài liệu liên quan