Các biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam

Lời mở đầu 1

Phần I: Tổng quan về lý thuyết 3

 1. Vai trò của xuất khẩu 3

 2. Các biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu 4

 2.1 Các biện pháp lớn để tạo nguồn hàng

 và cải biến cơ cấu xuất khẩu 4

 - Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực 4

 - Gia công xuất khẩu 6

 - Đầu tư cho xuất khẩu 6

 - Lập các khu chế xuất 7

 2.2 Nhóm các biện pháp tài chính, tín dụng nhằm

 khuyến khích sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu 8

 - Nhà nước đảm bảo tín dụng xuất khẩu 8

 - Nhà nước thực hiện cấp tín dụng xuất khẩu 8

 - Trợ cấp xuất khẩu 9

 - Chính sách tỷ giá hối đoái 9

 - Miễn thuế, giảm thuế và hoàn lại thuế 10

 2.3 Các biện pháp thể chế, tổ chức 10

 2.4 Các biện pháp tạo thị trường 10

Phần II: Thực trạng và giải pháp 12

 1.Thực trạng 12

 1.1 Thực trạng chung xuất khẩu hàng hoá 12

 1.2 Các nhóm hàng chủ lực 13

 a. Nhóm nguyên nhiên liệu 13

 b. Nhóm nông, lâm, thuỷ sản 13

 c. Sản phẩm chế biến và chế tạo 14

 d. Sản phẩm hàm lượng công nghệ và chất xám cao 15

 

doc32 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uất khẩu là ý chí và sự khéo léo của Chính phủ trong việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái chính thức, thuế quan và trợ cấp để duy trì tỷ giá thực tế kích thích cho việc xuất khẩu về lâu dài và ngăn ngừa tỷ giá ở mức nhập khẩu vọt lên cao so xuất khẩu. Việc tỷ giá hối đoái của đồng đô-la Mỹ ngày càng tăng nhẹ so đồng Việt Nam (tuy ảnh hưởng phần nào tới lạm phát ở nước ta) cũng ảnh hưởng không nhỏ đến xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ và nay xu hướng đó vẫn tiếp tục, mang tính có lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. v Miễn thuế, giảm thuế và hoàn lại thuế - Hàng xuất khẩu được miễn thuế: Hàng xuất khẩu trả nợ nước ngoài của Chính phủ. - Hàng xuất khẩu, nhập khẩu được xét miễn thuế để khuyến khích xuất khẩu: Hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để gia công cho nước ngoài và xuất khẩu theo các hợp đồng gia công cho nước ngoài; hàng xuất khẩu của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và của bên nước ngoài hợp tác kinh doanh. - Hàng được xét hoàn thuế: Hàng đã kê khai và nộp thuế nhưng thực tế không xuất khẩu nữa hoặc xuất khẩu ít hơn; hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu được hoàn thuế tương ứng với tỷ lệ xuất khẩu thành phẩm và hàng nhập khẩu để tái xuất, tạm xuất tái nhập để tham dự hội chợ triển lãm. 2.3 Các biện pháp thể chế, tổ chức Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu bằng việc áp dụng các biện pháp thâm nhập thị trường và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ hàng hoá ở nước ngoài: Lập các Viện nghiên cứu cung cấp thông tin cho các nhà xuất khẩu Lập các cơ quan Nhà nước ở nước ngoài để nghiên cứu tại chỗ tình hình thị trường hàng hoá, thương nhân và Chính phủ nước sở tại. Đứng ra ký kết các hiệp định thương mại, hiệp định hợp tác kỹ thuật, vay nợ, viện trợ,…trên cơ sở đó để thúc đẩy xuất khẩu. 2.4 Các biện pháp tạo thị trường Nghị quyết 12 của Bộ Chính trị ngày 03/ 01/ 1996 về "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng XHCN" đã nêu 3 quan điểm chỉ đạo: Một là, phát huy tính tích cực của các thành phần kinh tế trong lưu thông hàng hoá, xây dựng thương nghiệp quốc doanh và HTX mua bán nhằm giữ vững vai trò chủ đạo của thương nghiệp quốc doanh trong những lĩnh vực và địa bàn trọng điểm. Hai là, mở rộng thị trường ngoài nước gắn với việc phát triển ổn định thị trường trong nước, lấy thị trường trong nước làm cơ sở, đặt hiệu quả kinh doanh thương nghiệp trong hiệu quả kinh tế - xã hội của toàn bộ nền kinh tế. Ba là, việc quản lý nhà nước phải thể hiện trong toàn bộ sự vận động lưu thông hàng hoá. Các cơ quan quản lý nhà nước phải chủ động tác động đến mọi hoạt động của các doanh nghiệp. Nguyên tắc chung để chỉ đạo là: khuyến khích, phát huy mạnh mẽ các mặt tích cực, đồng thời có biện pháp hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định quan điểm của Đảng là "Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện kinh tế của nước ta … và xác định “đẩy mạnh xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường”. Để thị trường hàng hoá - dịch vụ Việt Nam phát triển, cần thực hiện tốt một số giải pháp như sau. Hạn chế việc bảo hộ thị trường trong nước bằng các biện pháp hành chính khuyến khích sản xuất và xuất khẩu hàng hoá chất lượng cao, thông qua chế biến, sản phẩm hàng hoá mang thương hiệu Việt nam. Thực hiện các biện pháp mạnh trong việc chống gian lận thương mại và các hoạt động kinh doanh phi pháp như lừa đảo, làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế,... Khuyến khích các doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu, hỗ trợ các doanh nghiệp về thuế đất, thuế giá trị gia tăng, xúc tiến thương mại, thành lập quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, mở rộng các nghiệp vụ bảo hiểm xuất khẩu. Luật hoá các thủ tục kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp và thị trường. Việc kiểm tra, thanh tra được tiến hành khi có dấu hiệu sai phạm, tránh tuỳ tiện, gây phiền hà cho doanh nghiệp. Nâng cao trình độ và phẩm chất của cán bộ thanh, kiểm tra và quản lý thị trường cả về chuyên môn, chính trị, luật pháp và lương tâm nghề nghiệp. Đồng thời có chế độ đãi ngộ thoả đáng để họ yên tâm làm việc và tránh tiêu cực. Gắn chế độ đãi ngộ cao với những biện pháp kỷ luật nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm pháp luật. Xúc tiến thương mại, thông tin và tiếp thị: Tạo điều kiện để tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tham tán thương mại, tăng cường đại diện tham tán thương mại tại các khu vực thị trường trọng điểm nhằm góp phần giúp các doanh nghiệp trong nước xâm nhập thị trường nước ngoài. Khẩn trương hướng dẫn việc tổ chức các cơ quan xúc tiến thương mại, các trung tâm giới thiệu, quảng cáo hàng hóa ở địa phương và kể cả ở nước ngoài. Phần iI: Thực trạng và giải pháp 1.Thực trạng 1.1 Thực trạng chung xuất khẩu hàng hoá Kết quả xuất khẩu trong những năm qua đã từng bước phát triển cả về quy mô, tốc độ, thị trường và thành phần tham gia xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2004 đạt78,4 tỷ USD, tốc độ tăng xuất khẩu bình quân 4 năm đạt 16,7%. Đạt được quy mô xuất khẩu này là nhờ phần lớn sự tăng trưởng của tất cả các mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong năm 2004 vừa qua so năm 2003 (Kim ngạch xuất khẩu năm 2004 đạt 26,5 tỷ, tăng 31,4%, là mức tăng cao nhất trong 8 năm trở lại đây). Xuất khẩu năm 2004 tăng lên mạnh mẽ là kết quả của việc tăng sản lượng xuất khẩu và tăng giá trị hàng hoá xuất khẩu, trong đó có thể kể đến dầu thô (tăng 48,3%), than đá (tăng 46,8%), gạo (tăng 30,7%), sản phẩm gỗ (tăng 86%), dây điện và cáp điện (tăng 46,4%),… Ngoài 4 mặt hàng truyền thống có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (thuỷ sản,dầu thô, hàng dệt và may mặc,giày dép các loại), năm 2004 đã xuất hiện thêm 2 nhóm hàng tham gia vào câu lạc bộ 1tỷ là điện tử-linh kiện máy tính và sản phẩm gỗ. Lượng xuất khẩu tăng mạnh ở hầu hết các mặt hàng (tăng 19% so năm 2003 tương đương 3,911 triệu USD) cho thấy sức sản xuất ngày càng được mở rộng, năng lực tiếp cận thị trường của hàng hoá xuất khẩu nước ta ngày càng cao. Mặt khác, giá xuất khẩu tăng đã góp thêm 1,916 triệu USD vào tổng kim ngạch. Điều này một phần nhờ giá thị trường thế giới tăng, mặt khác nhờ chất lượng hàng hoá xuất khẩu được nâng lên. Một điểm mạnh nữa trong xuất khẩu năm 2004 là thị trường xuất khẩu được mở rộng. Đến nay, hàng hoá xuất khẩu nước ta đã vươn tới hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ. Các thị trường xuất khẩu trọng điểm đều đạt được mức tăng trưởng cao như EU (tăng gần 34%), Nhật Bản (tăng 20%), Hoa Kỳ (tăng 27%),…Đây là những thị trường khó tính, đòi hỏi hàng hóa xuất khẩu phải đáp ứng được yêu cầu cao về chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh thực phẩm. Bên cạnh việc tập trung khai thác tối đa các thị trường trọng điểm, năm qua ta tiếp tục đẩy mạnh việc đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, hàng trăm chủng loại hàng hoá xuất khẩu đã vào được các thị trường mới, giảm dần xuất khẩu qua các thị trường trung gian (xuất khẩu vào châu á và ASEAN là các thị trường trung gian lớn chiếm tỷ trọng từ 60,5% và 17% năm 2001 xuống còn 47,7% và 13,9% năm 2004). Những thành tựu trên sẽ không đạt được nếu thiếu sự chủ động, tích cực của các doanh nhân, những người tham gia xuất khẩu. Năm 2004 khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục đóng góp tích cực vào mức tăng trưởng xuất khẩu với 2.157 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu (bằng 1/5 tổng số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu) nhưng đóng góp 33,2% vào tổng kim ngạch xuất khẩu, có xu hướng tăng dần qua các năm, dần trở thành động lực quan trọng trong tăng trưởng xuất khẩu của nước ta. Các thành phần khác tham gia xuất khẩu như khối doanh nghiệp Nhà nước, các công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã, ... cũng đã đạt được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao so năm 2003 và so kế hoạch đặt ra. 1.2. Các nhóm hàng chủ lực a. Nhóm nguyên nhiên liệu Hiện nay nhóm này với hai mặt hàng chính là dầu thô và than đá, đang chiếm hơn 20% kim ngạch xuất khẩu nước ta. Sau khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động, lượng dầu thô xuất khẩu đã và đang giảm dần. Dự kiến năm 2005, lượng dầu thô xuất khẩu chỉ còn khoảng gần 12 triệu tấn; tuy nhiên thực tế qua năm 2003 và 2004, con số này đang tăng lên. Tới năm 2010, có hai phương án tuỳ vào lượng khai thác - Nếu khai thác 14-16 triệu tấn thì sẽ sử dụng trong nước khoảng 12 triệu tấn, xuất khẩu 2-4 triệu tấn. - Nếu khai thác 20 triệu tấn thì có khả năng xuất khẩu khoảng 8 triệu tấn. Dù theo phương án nào, ta cũng đang phấn đấu giảm kim ngạch dầu thô đáng kể cho đến năm 2010. Thị trường xuất khẩu chính vẫn là Ô-xtrây-lia, Sing-ga-po, Nhật Bản, Trung Quốc và có thể thêm Hoa Kỳ. Về than đá, dự kiến nhu cầu nội địa sẽ tăng đáng kể nên xuất khẩu cũng sẽ chỉ dao động ở mức 6-7 triệu tấn/năm trong 10 năm tới. Nhìn chung, giá xuất khẩu than khó có khả năng tăng đột biến do nguồn cung trên thị trường thế giới tương đối dồi dào và nhu cầu đang có xu hướng giảm. Nhiệm vụ trong các năm tới là cố gắng duy trì những thị trường đã có như Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Âu,...và tăng cường thâm nhập vào thị trường Thái Lan, Hàn Quốc,... b. Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản Hiện nay, những mặt hàng chủ lực trong nhóm hàng này là gạo, cà phê, cao su, chè, rau quả, thuỷ sản, hạt tiêu và nhân điều. Do sản xuất nông nghiệp phải chịu những hạn chế mang tính cơ cấu (như diện tích có hạn, khả năng khai thác và đánh bắt có hạn...) và thời tiết nên theo dự thảo Chiến lược chung, tốc độ tăng trưởng của nhóm này có thể chỉ ở mức 4%/năm trong toàn kỳ 2001-2010. Bên cạnh đó, nhu cầu của thị trường thế giới cũng có hạn, giá lại không ổn định. Vì vậy, dù kim ngạch tuyệt đối vẫn tăng nhưng tỷ trọng của nhóm dự kiến sẽ giảm còn 17,2% vào năm 2010. Hướng phát triển chủ đạo của nhóm hàng này trong 10 năm tới là chuyển dịch cơ cấu toàn lĩnh vực, trong mỗi ngành, thậm chí trong từng loại sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng. Hạt nhân tăng trưởng của nhóm sẽ vẫn là thuỷ sản bởi tiềm năng khai thác và nuôi trồng còn nhiều, nhu cầu thị trường thế giới tăng khá ổn định, thuế suất không cao. Năm 1985, xuất khẩu thuỷ sản thế giới mới là 17,2 tỷ USD, đến năm 1995 đã đạt 52 tỷ USD, tức là tăng bình quân mỗi năm trên 13%. Dự kiến đến năm 2010, thuỷ sản nước ta sẽ chiếm 40% tổng kim ngạch của nhóm nông lâm hải sản. Thị trường chính sẽ là Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc,... Về gạo, do nhu cầu thế giới tương đối ổn định, khoảng trên 20 triệu tấn/năm, nhiều nước nhập khẩu nay chú trọng an ninh lương thực, thâm canh tăng năng suất cây trồng, gia tăng bảo hộ, giảm nhập khẩu.Trong hoàn cảnh đó, dự kiến trong suốt thời kỳ 2001-2010, ta sẽ chỉ xuất khẩu được khoảng 4-4,5 triệu tấn/năm, thu về mỗi năm khoảng trên 1 tỷ USD, hiện ta đang tập trung khai thác các thị trường mới như Trung Đông, Châu Phi, Nam Mỹ và ổn định các thị trường đã có như In-đô-nê-xi-a, Phi-lip-pin,...thông qua các hợp đồng, nghiên cứu khả năng phối hợp với Thái Lan để điều tiết nguồn cung, ổn định giá cả thị trường, tăng hiệu quả xuất khẩu gạo. Các đối thủ cạnh tranh đang lên là Mỹ và ấn Độ, và thực tế xuất khẩu gạo của Thái Lan trong những tháng đầu năm 2005 đã giảm đi. c. Sản phẩm chế biến và chế tạo Hiện nay, nhóm này đã có tới 4 mặt hàng đạt trên 4 tỷ USD/năm và đóng góp chung vào hơn 30% kim ngạch xuất khẩu của nhóm này trong các nhóm hàng xuất khẩu. Mục tiêu phấn đấu vào năm 2010 là đạt 20-21 tỷ USD, tăng hơn 5 lần so năm đặt ra kế hoạch, năm 2000 và chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu. Những mặt hàng chủ lực trong nhóm cho tới năm 2010 vẫn là 2 mặt hàng dệt may và giày dép, là những lĩnh vực có thể thu hút nhiều lao động. Kim ngạch mỗi mặt hàng phải đạt khoảng 7-7,5 tỷ USD. Như vậy, dệt may sẽ phải tăng bình quân 14%/ năm, giày dép tăng bình quân 15-16%/ năm. Ta đã ký được hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ thì mục tiêu tăng trưởng này là khả thi. Tuy nhiên, ta vẫn đang tiếp tục mở thêm thị trường Trung Đông và Đông Âu. Ta cần lưu ý với khả năng cạnh tranh rất lớn của Trung Quốc sau khi nước này trở thành thành viên của WTO, được hưởng những ưu đãi, các mặt hàng dệt may, giày dép của quốc gia này vốn đã mạnh sẽ gây những khó khăn không nhỏ cho hàng hoá của nước ta. Để khắc phục khó khăn, đẩy mạnh xuất khẩu, hướng phát triển cơ bản của hai ngành dệt may và giày dép trong 10 năm tới là gia tăng nỗ lực thâm nhập các thị trường mới, đặc biệt là thị trường Mỹ, Trung Đông và Châu Đại Dương; ổn định và tăng thị phần trên các thị trường quen thuộc Mỹ,EU, Nhật Bản. Sản phẩm gỗ, với thế mạnh về nhân công và tay nghề, đây là ngành có tiềm năng phát triển mạnh ở nước ta. Ngành có một thuận lợi là nhu cầu thế giới tăng khá ổn định (bình quân mỗi năm tăng khoảng 7-8%). Hiện ngành đã đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu gỗ được phục hồi nhờ nhiều vào chuyển hướng một phần sang sử dụng nguyên liệu nhập, ta có đầu tư thoả đáng hơn vào khâu trồng rừng và đơn giản hoá trong thủ tục xuất khẩu gỗ, nhất là sản phẩm gỗ rừng tự nhiên. d. Sản phẩm hàm lượng công nghệ và chất xám cao Đây là ngành hàng mới xuất hiện nhưng đã mang lại kim ngạch xuất khẩu khá lớn, khoảng 700 triệu USD năm 2000 và tới nay đã đạt hơn 1tỷ USD. Hạt nhân chính là hàng điện tử và tin học với kim ngạch xuất khẩu trong năm 2004 là 1.075 tỷ USD. Ta hoàn toàn có khả năng phát triển hơn nữa những mặt hàng này, trước mắt là gia công rồi tiến tới nội hoá dần. Vấn đề cốt lõi là có cơ chế chính sách khuyến khích, phát triển nguồn lực. Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đặt ra cho ngành đến năm 2010 là 6-7 tỷ USD, trong đó linh kiện điện tử và linh kiện máy tính vẫn là những mặt hàng chủ lực. 1.3 Những hạn chế chính trong hoạt động xuất khẩu Trước hết, cơ cấu kim ngạch xuất khẩu còn phụ thuộc lớn vào một số ít mặt hàng xuất khẩu. Tính riêng 6 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên là dầu thô, dệt may, giày dép, thuỷ sản, điện tử và linh kiện máy tính, sản phẩm gỗ đã chiếm 66% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Kim ngạch xuất khẩu phụ thuộc vào một số ít nhóm hàng hoá như trên trong điều kiện xuất khẩu nước ta chưa tạo được ảnh hưởng đến thị trường thế giới các mặt hàng này sẽ dẫn đến tổn thương cho xuất khẩu cả nước khi thị trường thế giới có những biến động, dễ dẫn đến nguy cơ bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá; quan trọng hơn là chưa khai thác hết tiềm năng xuất khẩu của các vùng sản xuất trong nước, đặc biệt là sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sản phẩm của các làng nghề truyền thống. Thứ hai, trong khi một số mặt hàng xuất khẩu có mức tăng trưởng nhanh, tới 86% (gỗ) thì một số mặt hàng khác được đánh giá là có nhiều tiềm năng, tạo ra nhiều việc làm và đem lại hiệu quả xã hội cao, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế xã hội kinh tế lại có tốc độ tăng trưởng thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng xuất khẩu chung của cả nước như rau quả (tăng 10% so 2003), thủ công mỹ nghệ (tăng 16% so 2003), nhất là trong những năm qua Chính phủ và các Ban, Ngành đã dành nhiều sự quan tâm, đầu tư đáng kể, được bà con nông dân trông đợi nhiều nhưng đến nay xuất khẩu hai mặt hàng này hầu như chưa có sự chuyển biến mạnh. Thứ ba, chưa thiết lập được hệ thống các ngành công nghiệp bổ trợ phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Kết quả là xuất khẩu tiếp tục phụ thuộc lớn vào nguyên vật liệu nhập khẩu, giá trị nhập khẩu nguyên, phụ liệu cho 2 nhóm sản phẩm dệt may, gia dày vẫn chiếm 67% tổng kim ngạch nhập khẩu (Nhập 4,7 tỷ/ xuất 7 tỷ USD); các mặt hàng khác cũng tương tự, nhập khẩu gỗ và nguyên liệu chiếm trên 50%. Sự lệ thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu sẽ là nguyên nhân khiến xuất khẩu nước ta phải chịu ảnh hưởng tiêu cực từ những biến động của nguồn cung, từ giá vật tư, hàng hoá trên thị trường thế giới. Thứ tư, chất lượng hàng hoá xuất khẩu còn thấp dẫn đến giá tính cho đơn vị sản phẩm không cao; giá xuất khẩu gạo của ta luôn thấp hơn giá xuất khẩu gạo của Thái Lan; cà phê, hạt tiêu cũng trong tình trạng tương tự (các nước mua về sàng lọc, phân loại có thể bán cao hơn đến 50 USD/ tấn). Thứ năm, tỉ lệ sản phẩm chế tạo và chế biến thấp, kim ngạch xuất khẩu các loại nông sản và khoáng sản của nứơc ta lại có tỷ trọng khá cao, chiếm tới 34% tổng kim ngạch xuất khẩu, chiếm tới 8/19 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất. Xuất khẩu nông sản ở ta còn chủ yếu dưới dạng thô, chiếm tỷ trọng cao trong xuất khẩu, trong đó có cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp và nông thôn diễn ra với tốc độ chậm, diện tích đất nông nghiệp của nước ta lại có xu hướng giảm dần do quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá. Ngoại trừ dầu thô có thể tiếp tục tăng giá, còn các loại nông sản không thể tiếp tục tăng giá trong một thời gian dài do tính chu kỳ trên thị trường thế giới và sự co dãn của cung là tương đối nhanh (điều chỉnh diện tích canh tác và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong thâm canh để tăng năng suất) đối với các loại nông sản trong khi cầu lại tương đối ổn định. Thứ sáu, trong khi chúng ta đang nhập siêu lớn Trung Quốc, ASEAN, ấn Độ, Hàn Quốc thì cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vào các nước ASEAN và Trung Quốc có chủng loại đơn điệu, chủ yếu là dầu thô 3,16 tỷ USD (chiếm 48%) và gạo 337 triệu USD (chiếm 5%) trong gần 6 tỷ vào 2 thị trường này. Điều đáng nói ở đây là các thị trường có mức nhập siêu lớn này đều là đối tác lớn của Việt Nam trong các khu vực mậu dịch tự do theo các Hiệp định khu vực đã hoặc sẽ được ký kết. Nếu không cải thiện cán cân thương mại sẽ là hết sức bất lợi cho nền kinh tế nước ta. Thứ bảy, công tác thông tin, dự báo thị trường nhất là dự báo trung hạn và dài hạn bước đầu đã được quan tâm song hiệu quả chưa cao nên có những thời điểm xuất khẩu nhiều mặt hàng vẫn bị thua thiệt về giá so với các đối thủ cạnh tranh. Ví dụ hàng xuất khẩu gạo ở những tháng đầu năm 2004, do chưa nắm bắt được thông tin về xu hướng tăng giá trên thị trường thế giới nên hầu hết các đơn hàng xuất khẩu được ký vào thời điểm với giá thấp. 1.4 Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế a. Nguyên nhân của những thành tựu Trước hết phải kể đến đó là doanh nghiệp. Doanh nghiệp đóng vai trò quan trò quan trọng nhất vào thành tích xuất khẩu của nước ta trong những năm qua. Các doanh nghiệp đã chủ động tiếp cận thị trường, nắm bắt thị hiếu và nhu cầu thị trường, chủ động tham gia và thực hiện các chiến dịch xúc tiến xuất khẩu, đẩy mạnh đầu tư, đổi mới công nghệ,... tạo ra một lượng hàng hoá xuất khẩu tăng gần 20% so năm 2003. Tiếp đó là hàng loạt chính sách hỗ trợ xuất khẩu như tài chính (bỏ VAT đối với hàng hoá và gia công xuất khẩu), tín dụng ưu đãi hỗ trợ xuất khẩu (quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu), các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, chương trình thương hiệu, chính sách thưởng vượt kim ngạch và thưởng thành tích xuất khẩu,... Trên phương diện ngoại giao, Chính phủ đã tạo lập được mối quan hệ tốt đẹp với bên ngoài giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu. Thêm nữa, công tác điều hành xuất khẩu của Bộ Thương mại và các Bộ, Ngành liên quan ngày càng kịp thời, thực chất và hiệu quả hơn. Năm 2004, Bộ Thương mại đã rà xét, phân loại và tập trung chỉ đạo quyết liệt đối với một số mặt hàng có nhiều tiềm năng để tạo ra những bước đột phá trong xuất khẩu như tổ chức nhiều hội nghị chuyên đề cho từng ngành hàng cụ thể như sản phẩm gỗ, cà phê, gạo,... mang lại kết quả thiết thực, đồng thời tiếp tục chỉ đạo, điều hành hiệu quả xuất khẩu những mặt hàng có kim ngạch lớn, giải quyết nhiều lao động và các vấn đề xã hội như dệt may, giày dép. Sự phối hợp giữa Bộ Thương mại và các Hiệp hội ngành hàng, các Hiệp hội với doanh nghiệp ngày càng chặt chẽ và hiệu quả. Các hiệp hội đã sát cánh với cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp tìm thị trường xuất khẩu, trong công tác xúc tiến thương mại, tổ chức xuất khẩu và đối phó với các rào cản thương mại, phi thương mại, đã giúp doanh nghiệp đạt được kết quả cao trong xuất khẩu. b. Nguyên nhân của những hạn chế Xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ, sản xuất hàng xuất khẩu và xuất khẩu của nước ta có quy mô nhỏ. Đặc điểm này là nguyên nhân cơ bản làm cho năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, hàng hoá xuất khẩu còn thấp, ý thức liên kết tự nguyện giữa các doanh nghiệp chưa cao.Nhiều mặt hàng xuất khẩu tuy có lợi thế so sánh như rau, quả, thực phẩm,... nhưng do doanh nghiệp chưa thực sự cố gắng đảm bảo tuân thủ yêu cầu của nhà nhập khẩu nên chưa vượt qua được các rào cản về vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường,...; nhiều mặt hàng xuất khẩu có ý nghĩa kinh tế xã hội cao như thủ công mỹ nghệ, đồ chơi,...nhưng do doanh nghiệp chưa có ý thức chú trọng đến khâu thiết kế mẫu mã, tính đặc thù, riêng có của địa phương nên chưa thực sự phát huy được lợi thế và kim ngạch xuất khẩu còn thấp. Các dịch vụ công và những yếu tố thuận lợi hoá cho thương mại còn nhiều hạn chế đã làm tăng chi phí xuất khẩu, làm giảm năng lực cạnh tranh: thủ tục hải quan mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn gây khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu; chi phí vận chuyển cao hơn nhiều so hầu hết các nước trong khu vực; những khó khăn trong việc tiếp cận đất đai, tín dụng, chính sách thuế, thủ tục hành chính rườm rà,... là nguyên nhân chính làm nhiều nhà đầu tư ngoài nước và trong nước “nản lòng”, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của nền kinh tế và hoạt động xuất khẩu. Kết cấu hạ tầng phục vụ thương mại nói chung và xuất khẩu nói riêng còn thiếu: hệ thống kho tàng, bến bãi phục vụ việc mua gom, tàng trữ hàng xuất khẩu chưa đủ và đáp ứng được yêu cầu; việc triển khai nghiên cứu sàn giao dịch hàng hoá đối với nông sản, chợ nguyên, phụ liệu dệt may,... hầu như chưa có tiến triển mặc dù đã được đặt ra. Công tác xúc tiến thương mại dù đã được chú trọng, tuy đã có chương trình trọng điểm quốc gia và chương trình thương hiệu nhưng trình độ và tính chuyên nghiệp và hạn chế, việc triển khai các chương trình còn chậm, thủ tục phức tạp, chưa đến được với doanh nghiệp và các đối tượng thực sự cần hỗ trợ, hoạt động xúc tiến thương mại vẫn còn đơn điệu, thiếu chiều sâu. Công tác dự báo trung hạn và dài hạn còn chưa tốt nên khi thị trường thế giới có biến động lớn, các doanh nghiệp xuất khẩu phải chịu thiệt thòi,... Việc quản lý tăng trưởng xuất khẩu chưa được các Bộ, Ngành đặt ra và thực hiện tốt dẫn đến một số mặt hàng xuất khẩu tăng trưởng cao đối với một số thị trường đã dẫn đến bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. 2. Giải pháp 2.1. Giải pháp cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có quy mô xuất khẩu lớn (Có đến 19 mặt hàng được coi là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, trong phạm vi đề tài này chỉ xin được đề cập đến các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất trong những năm qua) a. Dệt may Xuất khẩu dệt may năm 2005 phấn đấu tăng 16% so với năm 2004, đạt kim ngạch khoảng 5,1 tỷ USD.Thách thức của ngành dệt may nước ta là tiếp tục bị áp hạn ngạch vào thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ trong năm 2005 trong khi các đối thủ cạnh tranh lớn khác không bị áp hạn ngạch. Để đạt được mục tiêu đặt ra trong năm 2005 và trong những năm tiếp theo, đòi hỏi xuất khẩu hàng dệt may cần triển khai các định hướng cần thiết sau: Khai thác triệt để cơ hội từ thị trường EU nhằm tạo ra sự tăng trưởng cao bù đắp hạn chế trên các thị trường khác; khai thác các phân đoạn thị trường phù hợp với lợi thế cạnh tranh và lợi thế so sánh của ngành dệt may Việt Nam, từ đó lựa chọn những đơn hàng có giá trị xuất khẩu cao để tăng kim ngạch xuất khẩu cao, mặt khác tận dụng tối đa hạn ngạch được phân bổ; tiếp tục mở rộng sản xuất nâng cao lượng hàng xuất khẩu vào các thị trường phi hạn ngạch hoặc những cat. không bị hạn ngạch. Muốn như vậy, ta cần thực hiện: Thứ nhất, sớm tổ chức và đưa vào vận hành hiệu quả “cụm liên kết chuỗi” để nâng cao năng lực sản xuất đáp ứng được các đơn hàng lớn trong bối cảnh các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may nước ta còn nhỏ, lẻ. Thứ hai, tạo thuận lợi tối đa trong việc tìm kiếm nguyên, phụ liệu, phục vụ sản xuất bằng việc sớm tổ chức và đưa vào hoạt động các chợ nguyên, phụ liệu, đồng thời nghiên cứu cho phép và khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài nhập khẩu nguyên phụ liệu để cung cấp cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may trong nước. Thứ ba, trong thời gian càng sớm, phải tổ chức hội nghị liên ngành với sự tham gia của các doanh nghiệp dệt may để tiến hành đánh giá tổng thể tác động của việc loại bỏ hạn ngạch dệt may trong WTO đối với ngành dệt may nước ta, từ đó tìm ra những cơ hội, thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam trong bối cảnh mới, chủ động đề ra những đối sách phù hợp nhằm vượt qua thách thức trong tình hình mới. Bên cạnh đó, hệ thống Tham tán thương mại, sứ quán ở nước ngoài cần tích cực tìm kiếm thông tin thị trường và khai thác tối đa các cơ hội thị trường nhằm cung cấp cho các nhà xuất khẩu dệt may trong nước. Các hoạt động xúc tiến thương mại tiếp tục hỗ trợ ngành dệt may trong tổng thể chung của chiến dịch xúc tiến thương mại quốc gia nhằm đưa hình ảnh và đặc thù của đất nước đến với thị trường ngoài nước nhiều hơn. b. Giày dép Mục tiêu xuất khẩu giày dép năm 2005 là 3,5 tỷ USD, tăng khoảng 30% so với năm 2004. Trong đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0679.doc