Các mẫu chuyện lớp 5

Ngày hôm sau, trao đổi với các cộng sự, Pa-xtơ quyết định phải tiêm vắc-xin mới có hi vọng cứu Giô-dép. Đến chiều, mấy giọt vắc-xin phòng dại đã được tiêm vào dưới da bụng cậu bé. Loại vắc-xin này không độc vì đã để trong không khí khô 14 ngày.

Các lần tiêm sau, độc tính trong vắc-xin dần dần tăng lên. Chín ngày trôi qua, Pa-xtơ có cảm giác như chín tháng trời đằng đẵng. Mũi tiêm thứ mười mới ià mũi quyết định nhất nhưng vì nó có độc tính rất cao nên có thể gây ra những cơn co giật nguy hiểm. Có bắt buộc phải tiêm cho cậu bé mũi thứ mười không? Pa-xtơ bóp trán, đi đi lại lại trong phòng làm việc. Cuối cùng ông quyết định phải tiêm. Ông chăm chú nhìn người ta tiêm cho Giô-dép và an ủi cậu, dắt tay cậu lên giường.

 

doc17 trang | Chia sẻ: trang80 | Lượt xem: 691 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các mẫu chuyện lớp 5, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TUẦN 1 Lý Tự Trọng 1.Lý Tự Trọng sinh ra trong một gia đình yêu nước ở Hà Tĩnh. Năm 1928, anh tham gia cách mạng và được cử đi học ở nước ngoài. Anh học rất sáng dạ. Tiếng Trung Quốc và tiếng Anh đều nói thạo. 2.Mùa thu năm 1929, anh về nước được giao nhiệm vụ làm liên lạc, chuyển và nhận thư từ tài liệu trao đổi với các Đảng bạn qua đường tàu biển. Để tiện cho công việc, anh đóng vai người nhặt than ở bến SG. Có lần, anh Trọng mang một bọc truyền đơn, gói vào chiếc màn buộc sau xe. Đi qua phố, một tên đội Tây gọi lại đòi khám, anh nhảy xuống vờ cởi bọc ra, kì thật buộc lại cho chặt hơn. Tên đội sốt ruột, quăng xe bên vệ đường, lúi húi tự mở bọc. Nhanh trí anh vồ lấy xe của nó, nhảy lên phóng mất. Lần khác anh chuyển tài liệu từ tàu biể lên, lính giặc giữ lại chực khám. Anh nhanh chân ôm tài liệu nhảy xuống nước, lặn qua gầm tàu trốn thoát. Đầu năm 1931, trong một cuộc mít tinh, một cán bộ ta đang nói chuyện trước đám đông đồng bào. Tên thanh tra mật thám Lơ-grăng ập tới, định bắt anh cán bộ. Lý Tự Trọng rút súng lục bắn chết tên mật thám. Không trón kịp, anh bị giặc bắt. 3. Giặc tra tấn anh rất dã man khiến anh chết đi sống lại nhưng chúng không moi được bí mật gì ở anh. Trong nhà giam anh được những người coi ngục rất khâm phục và kiêng nể. Họ gọi anh là ‘Ông Nhỏ’. Trước toà án, anh dõng dạc vạch mặt bọn đế quốc và tuyên truyền cách mạng. Luật sư cho anh nói là anh chưa đến tuổi thành niên nên hành động thiếu suy nghĩ. Anh lập tức đứng dậy nói; - Tôi chưa đến tuổi thành niên thật, nhưng tôi đủ trí khôn để hiểu rằng thanh niên VN chỉ có một con đường duy nhất là làm cách mạng, không thể có con đường nào khác Thực dân Pháp bất chấp dư luận và luật pháp, xử tử anh vào một ngày cuối năm 1931. Trước khi chết, anh hát vang bài Quốc tế ca. Năm ấy anh mới 17 tuổi. TUẦN 4 Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai Bên  sông Trà Khúc, tỉnh Quảng Ngãi, xuất hiện một người Mĩ mang đàn vĩ cầm. Đó là Mai-ca, một cựu chiến binh Mĩ tại Việt Nam. Sau hơn 30 năm ông muốn quay lại mảnh đất đã từng chịu nhiều đau thương ước chơi một bản nhạc cầu nguyện cho linh hồn những người ở Mỹ Lai. Mỹ  Lai là một vùng quê thuộc xã Sơn Mĩ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi sáng ngày 16 tháng 03 năm 1968, chỉ trong vòng bốn tiếng đồng hồ quân đội   Mĩ đã hủy diệt hoàn toàn mảnh đất này: thiêu cháy nhà cửa, ruộng vườn, giết  hại gia súc, bắn chết 504 người, phần lớn là cụ già, trẻ em và phụ nữ mang thai. Có gia đình 11 người bị lính Mĩ ập tới, xả súng đồng loạt giết hại trong mấy phút. Có những em bé bị bắn khi đang bú trên xác của mẹ... Trong cuộc thảm sát tàn khôc ấy, chì có 10 người may mắn sống sót là nhờ ba phi công Mĩ có lương tâm tiếp cứu. Ba phi công ấy là: Tôm-xơt Côn-bơn và An-đrê-ốt-ta. Sáng hôm đó, đang bay trên cánh đồng Mi Lai, bi người lính kinh hoàng khi thấy quân đội của họ đang dồn phụ nữ và trẻ em vào một con mương cạn rồi xả súng bắn. Tôm-xơn phát hiện thấy một bé gái bị thương nằm giữa cánh đồng, anh bắn pháo hiệu cấp cứu. Một đại úy Mỹ chạy ngay tới, nhưng thay vì cứu cô bé, hắn bắn chết cô. Thấy một tốp lính Mĩ khác đang rượt đuổi dân thường, Tôm-xơn bèn hạ trực thăng ngay trước mặt tốp lính, ra lệnh cho xạ thủ súng chĩa súng vào chúng, họ sẵn sàng nhí đạn nếu chúng tiến lại. Tiếp đó, anh lệnh cho hai trực thăng đỗ xuống, chở những người dân về nơi an toàn. Khi bay dọc con mương, đội bay còn cứu thêm được một cậu bé vẫn còn sống từ trong đống xác chết. 4. Trong cuộc thảm sát tàn bạo của quân đội Hoa Kì, cùng với Tôm-xơn Côn Bơn và An-đrê-ôt-ta còn có anh lính da đen Hơ-bớt tự bắn vào chân, rr_nr: để khỏi tham gia tội ác, có Rô-nan bền bỉ sưu tầm tài liệu kiên quyết đưa vụ giết chóc man rợ ra ánh sáng. Bốn mươi bức ảnh đen trắng, mười tám bức anh màu về vụ thảm sát do Rô-nan chụp và công bố  là bằng chứng quan trọng, buộc tòa án của nước Mĩ phải đem vụ Mĩ Lai ra xét xử. 5 . Mai-cơ đã thực hiện được ý nguyện của mình. Tiếng đàn của anh đã vang lên ở Mĩ Lai. Tiếng đàu nói lên lời giã từ quá khứ, ước vọng hòa bình và cầu nguyện cho linh hồn những người đã khuất. .. TUẦN 7 Cây cỏ nước nam Nguyễn Bá Tĩnh, tức Tuệ Tĩnh, là một danh y đởi Trần. Một lần, ông dẫn các học trò đi ngược vùng Phả Lại để lên núi Nam Tào, Bắc Đầu, hai ngọn núi tổng hợp cao uy nghi sừng sững đối mặt với một vùng sóng nước hiểm trờ. Dọc hai bên đường lên núi là những bụi sâm nam lá xòe như nhửng bàn tay, những bụi cây đinh lảng lá xanh mướt, những bụi cam thảo nam leo vướng vít cà mật đường. Dừng chân bẽn sườn núi, ông trầm ngâm nói với học trò: - Ta đưa các con đến đây đẽ nói cho các con biết rõ điều mà ta suy nghĩ nung nấu từ mấy chục năm nay. Vài học trò xì xào: - Chắc hẳn là điều gì cao siêu lắm nên thầy mới phải nung nấu lâu đến Nguyễn Bá Tĩnh lắc đáu: -   Điều ta sắp nói với các con không cao như núi Thái Sơn, cũng chẳng xa như biển Bác Hái mà ở gán trong tầm tay, ở ngay dưới chân các con dó. Tất cả học trò đều im lặng, duy có người trưởng tràng kính cẩn hói: -    Thưa thầy, điều thầy định nói với chúng con có phải là cây cỏ ở dưới chân... Phải, ta muôn nói về ngọn cây và sợi cỏ mà hằng ngày các con vẫn giẫm lên... Chúng chính là một đội quân hùng mạnh góp vào với các đạo hùng binh của các bậc thánh nhân như Hưng Đạo Vương đánh tan giậc Nguyên xâm lược. Rồi ông từ tốn kể: -   Ngày ấy, giặc Nguyên nhòm ngó nước ta. Vua quan nhà Trần lo việc phòng giữ bờ cõi rất cẩn trọng. Bên cạnh việc luyện tập dân binh, triểu đình còn cắt cử người đôn đốc rèn vũ khí, chuẩn bị voi ngựa, lương thực, thuốc men... Song, từ lâu nhà Nguyễn đã cấm chờ thuốc men, vật dụng xuống bán cho người Nam. Khi giáp trận tất có người bị thương và đau ốm, biết lấy gì cứu chữa? Khóng chậm trễ, các thái y dã tỏa đi khắp mọi nơi miền quê học cách chữa bệnh cùa dân gian bằng cây cò bình thường. Từ đó, vườn thuốc được lập ờ khắp nơi. Núi Nam Tào và Bấc Đẩu chính là hai ngọn dược sơn các vua Trần xưa. Cây có nước Nam đã góp phần làm cho những đạo thêm hùng hậu, bền bi, khỏe mạnh, can trường trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù mạnh hơn mình hàng chục lần, đông hơn mình hàng trăm lần. Kể đến đây, Nguyễn Bá Tĩnh chậm rãi nói thêm: -        Ta càng nghĩ càng thêm quí từng ngọn cây, từng sợi cỏ của non sông vóc tổ tiên để lại. Ta định nối gót người xưa để từ nay về sau dân ta có dùng thuốc nam chữa cho người Nam. Ta nói để các con biết ý nguyện ta. Theo con đường của danh y Tuệ Tĩnh, cho đến bây giờ, hàng trăm vị ếc đã được lấy từ cây cò nước Nam, hàng nghìn phương thuốc đã được _g hợp từ phương thuốc dân gian dế trị bệnh cứu người. ( Theo Tạ Phong Châu - Nguyễn Quang Vinh - Nghiêm Đa Văn) *  Giải thích từ ngữ: -  danh y: người thầy thuốc giỏi nổi tiếng. -     hiểm trở: có địa hình phức tạp gây khó khăn nguy hiểm, gây nhiều trỏ ngại cho việc đi lại. -  sâm nam, đinh lăng, cam thảo: những loài cây có thể dùng làm thuốc. -  trầm ngâm: có dáng vẻ suy nghĩ, nghiền ngẫm kỉ về một điều gì. -  cao siêu: vượt xa mức bình thường. -  người trưởng tràng: người học sinh đứng đầu các học sinh trong trường. -  cẩn trọng: cẩn thận, nghiêm ngặt và thận trọng. -  giáp trận: hai bên áp sát nhau trong trận đánh -  thái y: các vị thầy thuốc của triều đình -  dược sơn: ngọn núi có nhiều loài thuốc quý -  hùng hậu: mạnh mẽ -  can trường: can đảm, gan dạ .. TUẦN 11 Người đi săn và con nai 1.Từ chập tôi, người đi săn đã lôi cái súng kíp trên gác bếp xuống, xé: đạn vào chiếc túi vải chàm, rồi đeo cái đèn ló trước trán, vào rừng. Mùi trám chín, chắc nai về nhiều rồi, đi săn thôi! 2.Người đi săn bước đến con suối. Suối róc rách hỏi: -  Đi đâu tối thế? -  Đi săn con nai. Suối bảo: -   Con nai hay đến soi gương xuống mặt suối. Đừng bắn con nai! Người đi săn lùi lũi bước đi. 3.Tới gốc cây trám, anh ngồi xuống, hạ chiếc đèn ló. Cây trám hỏi: -   Đến chơi với tôi à? -   Không phải. -   Thế đi đâu? ở đây vắng quá! Chảng có ai đến chơi. Đến mùa quả mởi được nhìn thấy con nai về. sắp đến lúc nai về đây! -  Tớ chỉ đợi lúc ấy. Cho nó một phát! -  Sao? -    Cái đèn ló này... để rọi cho nai chói mắt, không biết đứờng chạy, cái sùng này... để bắn. -  Ác thế! -  Thịt nai ngon lắm. Cây trám rưng rưng: -  Thế thì cút đi! Người đi săn không để ý đến những tiếng rì rào tức tười trên cây trám. Anh đợi. 4.Thế rồi, trên lưng đồi sẩm đen dưới ánh trăng, bóng con nai hiện rõ iần. Ánh đèn lò trên trán người đi săn vụt rực lên. Hai con mắt nai đỏ như bổ phách bối rối trong làn sáng đèn. Con nai ngây ra đẹp quá. Người đi săn quên mất thịt nai ngon. Người đi săn quên hai tay dã giơ súng. Người đi săn lại nhớ ra lời suối, lời đồi, lời cây: Muông thú và cây cõ trong rừng là bạn ta, sao ta lại thèm ăn thịt bạn! Con nai lặng im, trắng muốt trong ánh sáng. 5.Người đi săn mải ngắm con nai, mồ hôi đẫm trên trán. Cái dây da tụt xuống, ánh đèn ló lệch vào bóng tôi, mất bóng con nai. Con nai chạy biến. Người đi săn luống cuống giơ tay đẩy chiếc dây da lên. Nhưng trong làn sáng đèn không thấy con nai đâu. Người đi săn ngơ ngẩn xuống đồi. Vầng trăng đã nhìn thấy tất cả, mỉm cười. -  Ngủ ngon được đấy! Chúc ngủ ngon! Lát sau, người đi săn đã ngồi trước bếp lửa. Khẩu súng, bao đạn lại treo iên hốc cột gác bếp. Đêm ấy, trong giấc ngủ dịu dịu, anh chiêm bao thấy con nai. Chưa bao giờ anh thây một con nai đáng yêu đến thế! (Theo Tô Hoài) .. TUẦN 14 Pa-xtơ và em bé Ngày 6 tháng 7 năm 1885, chú bé Giô-dép chín tuổi bị chó cắn trước đó hai ngày đã được mẹ đưa từ miền quê xa xôi đến thủ đô Pa-ri, nhờ bác sĩ Lu-i Pa-xtơ cứu chữa. Cậu bé bị tới mười bốn vết cắn ở tay vì đã lấy tay che mặt. Cuộc sống của em chỉ tính từng ngày. Nếu không cứu chữa kịp thời, cậu bé sẽ bị chết như những người bị chó dại cắn từ trước tới nay. Nhìn vẻ đau đớn của cậu bé và đôi mắt đỏ hoe của người mẹ, Pa-xtơ xúc động nghĩ đến lúc cậu bé lên cơn điên dại và nghẹt thở vì một cơn giật dữ dội, rồi chết! Ông tự nhủ phải cứu bằng được cậu bé đáng thương. Đêm đã khuya, Pa-xtơ vẫn ngồi trước bàn làm việc, những vết nhăn hằn sâu trên vầng trán Ưu tư. Câu hỏi: “Ta có thể làm gì cho cậu bé?” cứ trăn trở hoài trong óc ông. Vắc-xin chữa bệnh dại ông đã thí nghiệm có kết quả trên loài vật, nhưng chưa lần nào thử nghiệm trên người. Dù rất muốn chữa cho cậu bé khỏi bệnh nhưng ông vẫn ngại ngần, không dám lấy Giô-dép ra làm thí nghiệm vì sợ tai biến. Nghĩ đi nghĩ lại, ông thấy không còn cách nào khác. Bệnh dại đang đe doạ cướp đi tính mạng của cậu bé. Ngày hôm sau, trao đổi với các cộng sự, Pa-xtơ quyết định phải tiêm vắc-xin mới có hi vọng cứu Giô-dép. Đến chiều, mấy giọt vắc-xin phòng dại đã được tiêm vào dưới da bụng cậu bé. Loại vắc-xin này không độc vì đã để trong không khí khô 14 ngày. Các lần tiêm sau, độc tính trong vắc-xin dần dần tăng lên. Chín ngày trôi qua, Pa-xtơ có cảm giác như chín tháng trời đằng đẵng. Mũi tiêm thứ mười mới ià mũi quyết định nhất nhưng vì nó có độc tính rất cao nên có thể gây ra những cơn co giật nguy hiểm. Có bắt buộc phải tiêm cho cậu bé mũi thứ mười không? Pa-xtơ bóp trán, đi đi lại lại trong phòng làm việc. Cuối cùng ông quyết định phải tiêm. Ông chăm chú nhìn người ta tiêm cho Giô-dép và an ủi cậu, dắt tay cậu lên giường. Bảy ngày chờ đợi và lo lắng, Pa-xtơ không chợp mắt. Mặc dù bị liệt chân trái nhưng đêm nào ông cũng chống gậy, lần xuống cầu thang để thăm cậu bé. Ông chỉ sợ cậu lên cơn dại ghê gớm bất thường. Nhưng tai hoạ đã qua, cậu bé vẫn bình yên, khoẻ mạnh. Quá sung sướng, đêm ấy Pa-xtơ ngủ một giấc ngon lành. Tiếng lành đồn xa, từ đó về sau, người ta đã liên tiếp gửi đến phòng thí nghiệm của ông những bệnh nhân bị chó dại cắn, nhờ ông cứu chữa. Phòng thí nghiệm của ông trở thành Viện Pa-xtơ - Viện chống bệnh dại đầu tiên trên thế giới. TUẦN 19 Chiếc đồng hồ Năm 1954, các cán bộ đang dự hội nghị tổng kết ở Bắc Giang thì có lệnh Trung ương rút bớt một số người đi học lớp tiếp quản Thủ đô. Ai nấy đều háo hức muốn đi. Nhât là những người quê Hà Nội. Bao năm xa nhà, nhớ Thủ đô, nay được dịp trở về công tác, anh em bàn tán sôi nổi. Nhiều người đề nghị cấp trên chiếu cô' nỗi niềm riêng đó và cho được toại nguyện. Tư tưởng cán bộ dự hội nghị có chiều phân tán... Giữa lúc đó, Bác Hồ đến thăm hội nghị Bác bước lên diễn đàn, mồ hôi ướt đẫm hai bên vai áo nâu... Khi tiếng vỗ tay đã ngớt, Bác hiền từ nhìn khắp hội trường và nói chuyện võ tinh hình thời sự. Nói đến nhiệm vụ cùa toàn Đảng trong lúc này, Bác bổng rút trong túi ra một chiếc đồng hồ quả quýt và hỏi: -  Các cô chú có trông thây cái gì đây không? Mọi người đồng thanh: -  Cái đồng hồ ạ. -  Thế trên mặt đồng hồ có những chữ gì? -  Có những con số ạ. -  Cái kim ngắn, kim dài để làm gì? -  Để chỉ giờ chỉ phút ạ. -  Cái máy bên trong dùng để làm gi? -  Để điều khiển cái kim chạy ạ. Bác mỉm cười, hỏi tiếp: -  Thế trong cái đồng hồ, bộ phận nào là quan trọng? Mọi người còn đang suy nghĩ thì Bác lại hỏi: -  Trong cái đồng hồ, bỏ đi một bộ phận có được không? -  Thưa không được ạ. Nghe mọi người trả lời, Bác bèn giơ chiếc đồng hồ lên cao và kết luận: -  Các bộ phận của một chiếc đồng hồ cũng ví như các cơ quan của một Nhà Nước, như các nhiệm vụ cách mạng. Đã là nhiệm vụ cùa cách mạng thì đều là quan trọng, đều cần phải làm. Các cô chú thử nghĩ xem: trong một chiếc đồng hồ mà anh kim đòi làm anh chữ số, anh máy lại đòi ra ngoài làm cái mặt đồng hồ... cứ tranh nhau chỗ đứng như thế thì còn là cái đồng hồ được không? Chỉ trong ít phút ngắn ngủi, câu chuyện Chiếc đồng hồ của Bác đã khiến cho ai nấy đều thấm thìa, tự đánh tan được những thắc mắc riêng tư. (Theo sách Bác Hồ kính yêu) .. TUẦN 22 Ông Nguyễn Khoa Đăng Nguyễn Khoa Đăng là một vị quan án có tài xét xử, được dân mến phục. Một lần, có anh hàng dầu gánh hàng ra chợ bán. Lợi dụng lúc anh bận dong dầu, có kẻ thò tay vào bị lấy trộm tiền. Khi biết bị mất tiền, anh hàng dầu nhớ hồi nãy có một người mù quanh quẩn bên gánh hàng, đuổi mấy củng không đi. Anh đoán hắn là kẻ cắp, bèn gửi gánh hàng cho người quen rồi đi tìm người mù. Người này ra sức chối, nói rằng mình mù biết tiền để đâu mà lấy. Hai bên xô xát, lính bắt họ giải lên quan án Nguyễn Khoa Đăng. Thấy người mù khăng khăng chối không ăn cắp tiền, quan hỏi: -  Anh có mang tiền theo không? Người mù đáp: -  Có, nhưng đấy là tiền của tôi. -  Cứ đưa đây. Của ai rồi sẽ rõ. Khi người mù móc tiền ra, quan sai người múc ra một chậu nước, bỏ số tiền vào chậu. Một lát thấy trên mặt  nước có váng dầu nổi lên. Người mù hết đường chối cãi, đành nhận tội Vụ án tưởng đã xong, khóng ngờ quan lại phán: - Tên ăn cắp này là kẻ giả mù vì nếu mù thật thì làm sao hắn biết người bán dầu để tiền ở đâu mà lấy Ông sai lính nọc tên mù ra đánh, kì đến khi hắn mở mắt mới thôi. Lúc đầu, người mù còn chối, chỉ sau 3 roi hắn đành mở cả hai mắt. Trong thời kì ông Nguyễn Khoa Đăng làm quan án, ở Quảng Trị cỏ truông nhà Hồ là nơi bọn gian phi dùng làm sào huyệt đón đường cướp của. Để bắt bọn cướp, quan sai chế một loại hòm gỗ kín có lỗ thông hơi, vừa một người ngồi, có khóa bên trong để người ở trong có thể mở tung ra dễ dàng. Ông kén một số võ sĩ, đem theo vũ khí, ngồi vào hòm. Rồi sai quân sĩ ăn mặc như dân thường, khiêng những hòm ấy qua truông, ra vẻ như khiêng những hòm của cải nặng. Lại cho người đánh tiếng có một vị quan to ở ngoài Bắc sắp sửa về quê sẽ đi qua truông cùng những hòm cùa cải quý. Bọn cướp đánh hơi, nghĩ đây là cơ hội làm ăn hiếm có, rình lúc đoàn người đi qua cửa truông thi cướp, rồi hí hửng khiêng những hòm nặng ấy về tận sào huyệt. Về đến nơi, vừa đặt hòm xuống thì những cái hòm bật mở toang, các võ sĩ ngồi trong tay lăm lăm vũ khí bất ngờ xông ra đánh giết bọn cướp. Đang lúc hoảng hốt chưa kịp đối phó thì phục binh của triều đình từ ngoài ùn ùn kéo vào đông như kiến cỏ, bọn cướp đành chắp tay xin tha mạng. Bọn cướp ấy, Nguyễn Khoa Đăng đưa đi khai khẩn đất hoang ở biên giới, lập thành những đồn điền rộng lớn. Sau đó, ông cho đưa dân đến lập làng xóm ở dọc hai bên truông khiến một vùng núi rừng xưa vắng vẻ trở thành những xóm làng dân cư đông đúc bình yên. (Theo Nguyễn Đổng Chi) .. TUẦN 25 Vì muôn dân 1. Năm 1235, khi Trần Qưô'c Tuấn mới 5, 6 tuổi, cha ông là Trần Liễu có chuyện tị hiềm với vua Trần Thái Tông. Năm 1251, Trần Liễu lám bệnh nặng, trước khi mất có trăng trối dặn Trần Quốc Tuân phải vì cha mà giành lại ngói vua. Biết cha không quên hận cũ, thương cha, Quốc Tuấn đành gật đầu dể cha yên lòng, nhưng ông không cho đó là diều phải và luôn tìm cách hoà giải mốì hiềm khích trong gia tộc. 2. Cuối năm 1284, nhà Nguyên lại kéo hàng chục vạn quân sang xâre chiếm nước ta. Thế giặc mạnh như chẻ tre. Vua Trần Nhân Tông (cháu Trần Thái Tông) cho mời Hưng Đạo về kinh. Vừa từ Vạn Kiếp về tới Thăng Long đậu thuyền ở bến Đông, ông sai mời Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải (con vua Trần Thái Tông) đến cùng bàn kế đánh giặc. Biết Quang Khải ngại tắm, ông sai nấu sẵn nước thơm và xin được tắm giùm. Ông tự tay cởi áo cho Quang Khải, dội nước thơm cho Quang Khải và thân mật đùa: -  Hôm nay, thật may mắn, tôi được tắm hầu Thái sư. Quang Khải cũng không kìm nổi xúc động, đùa lại: -  Tôi mới thật có may mắn vì được Quốc công Tiết chế tắm cho. Trước tấm lòng chân tình của cả hai người, mõ'i hiềm khích cùa cả hai bên dược cởi bỏ. 3. Hôm sau, hai người vào cung. Vua đã chờ sẵn để bàn việc nước. Nhà vua băn khoăn: -  Lần trước, giặc Nguyên đá bị ta đánh bại. Nhưng lần này chúng đông và mạnh hơn trước bội phần. Các khanh xem có kế gì để giữ yên xã tắc? Hưng Đạo trình bày kĩ mọi việc, từ trấn giữ biên thuỳ, cắt cử các tướng..., đoạn óng nhấn mạnh: Nên triệu gấp bô lão cả nước về kinh để cùng bàn luận. Có sức mạnh nào mạnh bằng sức mạnh trăm họ! Anh em hoà thuận, trên dưới một lòng thì giặc kia dẫu mạnh mấy cũng phải tan! Vua y lời. Một sáng đầu xuân năm 1285, bô lão từ mọi miền đất nước tụ hội về điện Diên Hồng. Vua quan nhà trần tề tựu đông đủ. Vua ướm hỏi: -   Nhà Nguyên sai sứ giả mang thư sang, xin mượn đường để đánh Chàm-pa. Ý các khanh thế nào? Hưng Đạo tâu: -  Cho giặc mượn đường là mất nước! Cả điện đồng thanh: -   Không cho giặc mượn đường! Vua hỏi tiếp: -  Ta nên hoà hay nên đánh? Điện Diên Hồng như rung lên bởi những tiếng hô cùa muôn người: -  Nên đánh! -  Sát Thát! 4. Nhờ trên dưới đồng lòng, vua tôi hoà thuận... quân dân ta đã đánh tan giặc Nguyên, giữ vững độc lập dân tộc. (Theo Đại Việt sử kí toàn thư) .. TUẦN 29 Lớp trưởng lớp tôi 1. Vân được bầu làm lớp trưởng. Cuối giờ học, con trai chúng tôi kéo nhau ra một góc, bình luận sôi nổi. Lâm “voi" nói to lên: -   Lớp trưởng gì mà vừa gầy vừa thấp bé, chả có dáng tí nào... Quốc “lém” lên tiếng: -   Lớp trưởng phải mồm mép, nhanh nhẩu. Cái Vân cạy răng chẳng nói nửa lời, có mà chỉ huy người... câm. Riêng tôi, tôi quan niệm lớp trưởng phải học giỏi. Vân chỉ được cái chăm chỉ, chứ học chả hơn tôi. 2. Giờ Địa hôm qua, cô giáo trả bài kiểm tra. Cái Vân được điểm mười, bài của tôi chỉ được năm, lí do là khi điền bản đồ, tôi đã “sơ tán” Hà Tây, Hoà Bình lên tận biên giới phía Bắc. Vân làm lớp trưởng hôm trước thì hôm sau đã có nhiều chuyện đáng nhớ. 3. Trông xếp hàng được một lúc, Quốc mới hớt hải từ đâu chạy đến, miệng lắp bắp: -   Chết., chết tớ rồi. Hôm nay đến phiên trực nhật, tớ., tớ lại ngủ quên. Cả bọn hoảng quá. Lớp tôi vừa đăng kí thi đua. Nhưng vào lớp, chúng tôi rất ngạc nhiên: lớp sạch như lau, bàn ghế ngay ngắn, bảng đen rành rành một dòng chữ con gái tròn trặn, nắn nót: ”Thứ ba, 27 tháng 8 năm..." Nét chữ của Vân! Lâm trố mắt nhìn, còn Quốc và tôi thì thở phào... 4. Buổi chiều, chúng tôi đi lao động. Nắng như thiêu. Đứa nào đứa nấy mồ hôi đẫm lưng, cổ khát khô. Bỗng Lâm kêu toáng lên: -  Kem! Kem! Các cậu ơi! Bọn con trai chúng tôi ùa tới, vây quanh phích kem. Vân mồ hòi nhề nhại, dang nhanh nhẹn chia kem cho mọi người. Quôc vừa ăn vừa tấm tắc: -  Lớp trưởng “tâm lí” quá! À, bạn lây phích kem ở đâu ra thế? -   Bà hàng kem cho mượn cả phích đây. Còn tiền là của chi đội làm lao động hè... 5. Bảy giờ, có ai hỏi về lớp trưởng lớp tỏi, tôi sẽ tự hào nói: “Vân không chi học chàm mà còn học rất giỏi.” Hỏi Lâm, chắc nó sẽ oang oang: “Vân là con gái. nhỏ người thật nhưng xốc vác lắm đấy”. Và chẳng phải hỏi, Quốc cũng sẽ khoe ngay: “Vân củ mỉ cù mì mà giỏi đáo để, bọn con trai chúng tớ ai cũng phải nể phục.” (Theo Lương Tố Nga) .. TUẦN 32 Nhà vô địch 1. Hôm ấy, bọn trẻ trong làng chọn hố cát cạnh con mương đào làm nơi tổ chức cuộc thi nhảy xa. Chị Hà được mời làm trọng tài. Khán giả là mấy cô cậu tí hon ngồi ở bên kia bờ mương mắt hau háu chờ xem. Chị Hà dõng dạc hô: -  Các thí sinh chuẩn bị! Người số một: Hưng! Hưng Tồ bậm bạch như một chú vịt chạy vào vị trí. Nghe tiếng hô: “Bắt đầu!”, nó lấy đà chạy nhanh đến bất ngờ. Gần đến nơi, miệng nó bặm lại. “Phốc”, nó nhảy' đúng vào miệng hố bên kia, đất lún xuống. Nó đứng dậy, hãnh diện nhìn mọi người. Người tiếp theo là Dũng Béo. Vừa nghe gọi tên, cậu đã vỗ đùi đen đét để thị uy. Rồi cậu cũng nhảy qua hố có phần dễ dàng hơn Hưng Tồ. Chỉ phải cái chân cậu lún sâu xuống lớp đất mềm khiến cả bọn phải xúm vào “nhổ” cậu lên. Cậu ta cười toe toét: -  Tớ sẽ nhảy lại để tự phá kỉ lục. Người thứ ba vượt qua chiếc hố nhẹ như mèo là Tuấn Sứt, cậu ta đã từng thi nhảy xa cấp huyện. Xong việc, cậu nằm vắt chân chữ ngũ trên cỏ để chờ nhận giải. 2. Chị Hà gọi đến Tôm Chip. Tôm Chip bé nhất bọn, tính tình lại rụt rè, mới nghe gọi tên mặt đã đỏ lên. Chị Hà ái ngại, bảo: -  Nếu em không nhảy thì làm khán giả vậy. Tôm Chip càng bối rối. Dũng Béo thấy vậy, cười, bảo: -  Làm khán giả thì sang bờ mương bên kia. Có thể vì tự ái, Tôm Chip quyết định vào vị trí. -  Hai...ba! Tôm Chip giật bắn người lao lên. Đến gần điểm đệm nhảy thì cậu đột nhiên đứng sựng lại, chân miết xuống đất. -  Không nhảy được thì chạy qua. -  Hay là để tớ cắp vào nách rồi nhảy qua. -   Tớ cho cậu thành tích lúc nãy đây. - Dũng, Hưng và mấy bạn nhao nhao khích bác. Tôm Chip suýt khóc vì giận mình và các bạn. Chị Hà nhẹ nhàng an ủi: -  Hay em để Dũng nhảy lại trước đã. 3. Nhưng Tôm Chip quyết định nhảy lần thứ hai. Lần này cậu lấy đà đúng kiểu hơn. Đúng lúc cậu đạp chân vào mô đất lao lên thì có tiếng kêu thât thanh phía bên kia bờ mương. Mọi người đang tập trung theo dõi cuộc thi nên chỉ có cậu mới trông thấy một bé trai, do xô đẩy, đang lăn theo bờ mương xuông dòng nước. Cậu lao nhanh như tên bắn. Đến gần hố nhảy, cậu quặt sang bên, tiếp tục lao lên khiến mọi người cười ồ. Khi đứa bé đã ờ sát mép nước. Tôm Chip cũng đã tới bờ mương. Có tiếng hét tuyệt vọng. Lúc tất cả cùng nhận ra mối nguy hiểm thì họ cũng thấy Tôm Chip đã nhảy như bay qua con mương kịp giữ đứa bé lải. Ai nấy thở phào. 4. Chị Hà lội sang bờ mương bên kia. Mấy đứa lần lượt lội sang theo. Cả bọn đều lè lưỡi, lắc đầu không hiểu Tôm Chip làm thế nào để nhảy qua con mương rộng nhường kia. Dũng Béo tuyên bố: -  Chức vô địch thuộc về Tôm Chip. Nhưng phải khám xem nó có lắp chiếc cánh quạt nào không đã. Cả bọn cười ồ lên và phục Tôm Chip ra mặt. Còn Tôm Chip thì nhớ lại lúc đó cậu không nghĩ đến cuộc thi mà chỉ nghĩ đến việc cứu em bé khói rơi xuống nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCAC CAU CHUYEN KE LOP 5_12410803.doc
Tài liệu liên quan