Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam

TRANG PHỤ BÌA

Lời cam đoan

MỤC LỤC

Danh mục các bảng

 MỞ ĐẦU 1

 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 9

1.1. Khái niệm, những cơ sở và ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 9

1.1.1. Khái niệm các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 10

1.1.2. Những cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 15

1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 19

1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 21

1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 21

1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 26

1.3. Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong 32

 

docx127 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 655 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h niên, nguyên tắc thứ hai quy định điều kiện miễn trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội thấp hơn rất nhiều. Miễn trách nhiệm hình sự là không bắt buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà người đó đã phạm. Về nguyên tắc, một người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn một trong những điều kiện sau đây: + Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người vi phạm tội được phát giác, người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. + Trước khi hành vi phạm tội được phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện, điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm. + Khi có quyết định đại xá. Với nội dung các điều kiện trên cho thấy, miễn trách nhiệm hình sự là trong những chế định thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, nó được đặt ra trong một số trường hợp nếu xét thấy không cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự, không cần buộc họ phải chịu hình biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt mà vẫn bảo đảm được yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, vẫn đảm bảo được yêu cầu giáo dục người phạm tội để họ trở thành người có ích cho xã hội. Điều kiện để miễn trách nhiệm hình sự nói chung, dù là điều kiện khách quan do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, hay là điều kiện chủ quan: Sự tích cực chủ động "tự thú, khai rõ sự việc góp phần có hiệu quả trong việc điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế mức thấp nhất hậu quả của tội phạm" thì cũng đều có một tính chất chung là làm mất đi tính nguy hiểm hoặc là nguy hiểm của hành vi phạm tội. Đối với người chưa thành niên phạm tội, như chúng tôi đã trình bày ở nguyên tắc trên, các điều kiện mà Bộ luật hình sự quy định cho phép miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội có tính chất mở rộng hơn so với người phạm tội nói chung. Để miễn trách nhiệm hình sự cho người chưa thành niên phạm tội, không nhất thiết phải do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, hoặc người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc góp phần có hiệu quả trong việc điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, mà Bộ luật hình sự chỉ đòi hỏi những điều kiện sau đây: + Hành vi phạm tội mà họ thực hiện là tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Theo đó, tội ít nghiêm trọng là tội gây hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến ba năm tù, tội phạm nghiêm trọng là tội gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến bảy năm tù. Tuy nhiên, trong thực tế, việc nhận thức căn cứ, điều kiện xem xét miễn trách nhiệm hình sự theo phân loại tội phạm còn chưa thống nhất và còn có nhiều cách hiểu khác nhau, cần có sự phân hóa cụ thể để bảo đảm công bằng, phù hợp với thực tiễn xử lý tội phạm người chưa thành niên. + Gây hại không lớn, để xác định gây thiệt hại không lớn thì phải căn cứ vào thiệt hại do hành vi phạm tội của người chưa thành niên gây ra, bao gồm thiệt hại về vật chất, về sức khỏe, tinh thần và trật tự an toàn xã hội. + Có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tức là người chưa thành niên phạm tội có đủ từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên sẽ được xem xét miễn trách nhiệm hình sự. + Được gia đình hoặc cơ quan tổ chức nhận giám sát, giáo dục. Đây là điều kiện bắt buộc để xem xét miễn trách nhiệm hình sự cho người chưa thành niên phạm tội. Gia đình, cơ quan, tổ chức nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục có thể tự do tự nguyện hoặc theo đề nghị của cơ quan tiến hành tố tụng, tổ chức khác. Trong trường hợp gia đình, cơ quan, tổ chức nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục thì phải được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận. Trường hợp khi xét thấy người chưa thành niên phạm tội có đủ điều kiện miễn trách nhiệm hình sự, nhưng chưa có ai nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục thì cơ quan tiến hành tố tụng cần liên hệ với gia đình hoặc cơ quan, tổ chức để xác định người, cơ quan, tổ chức nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục. Việc nhận giám sát, giáo dục phải được lập thành văn bản và coi đây là tài liệu bắt buộc khi xét miễn trách nhiệm hình sự cho người chưa thành niên phạm tội. Quy định nguyên tắc thứ hai này mở ra khả năng cho người chưa thành niên phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự lớn hơn so với người phạm tội nói chung. Theo quan điểm của chúng tôi, điều kiện thứ tư là điều kiện quan trọng nhất, bởi đây vừa là điều kiện cần để miễn trách nhiệm hình sự cho người chưa thành niên phạm tội nhưng cũng vừa là biện pháp bảo đảm để mục đích của việc miễn trách nhiệm hình sự cho họ có hiệu quả, đó là giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội. Mặt khác, việc tham gia giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội của gia đình, nhà trường, cơ quan tổ chức cũng chính là trách nhiệm của toàn xã hội trong việc phòng ngừa tội phạm được quy định tại Điều 4 Bộ luật hình sự. Việc đưa quy định này là hoàn toàn phù hợp bởi thực tiễn đã chứng minh, người chưa thành niên phạm tội sống trong môi trường quan tâm, đùm bọc của xã hội sẽ trưởng thành, hoàn thiện bản thân tốt hơn. Nguyên tắc thứ ba - Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Khi xem xét thụ lý vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng phải đánh giá, xem xét đưa ra truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, và áp dụng hình phạt đối với họ chỉ được thực hiện trong những trường hợp thật sự cần thiết. Đây là điểm khác biệt so với việc truy cứu trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với người phạm tội nói chung. Bộ luật hình sự Việt Nam quy định: "Chỉ người nào phạm tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" [54, Điều 2], điều này có nghĩa là việc truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và hành vi đó có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự cũng quy định nguyên tắc: "Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật" [54, Điều 3], như vậy tất cả mọi người khi thực hiện hành vi phạm tội, đáp ứng đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm đều phải bị xử lý bình đẳng, công bằng, nghiêm minh, không phân biệt. Đối với việc áp dụng hình phạt, lần đầu tiên các nhà làm luật Việt Nam ghi nhận khái niệm hình phạt và mục đích của hình phạt trong Bộ luật hình sự: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội" [54, Điều 26] và: Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục học trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm [54, Điều 27]. Đối với người chưa thành niên phạm tội - chủ thể có những nét đặc trưng riêng về tâm lý - sinh lý thì việc xem xét trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt cũng có nét đặc trưng riêng, đó mục đích việc xử lý, áp dụng các chế tài đối với họ phải ưu tiên việc giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, tạo cho họ được sống trong môi trường cộng đồng để phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội phải ưu tiên hàng đầu. Chính vì vậy, Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành đã quy định nguyên tắc thứ ba về xử lý người chưa thành niên phạm tội: "Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm" [54], để tránh việc xung đột giữa giữa quy phạm pháp luật hình sự trên, Điều 68 Bộ luật hình sự quy định: "Người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này" [54], do vậy khi tiến hành giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng phải ưu tiên áp dụng nguyên tắc thứ ba trước. Việc xem xét tính chất của hành vi phạm tội, những đặc điểm nhân thân và yêu cầu phòng ngừa tội phạm là một trong những nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án hình sự, Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định: Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, viện kiểm sát và Tòa án phải chứng minh: ... 3. Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; 4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra [55]. Tuy nhiên, khác với việc giải quyết vụ án hình sự khác, khi giải quyết vụ án hình sự có người chưa thành niên phạm tội, việc chứng minh, đánh giá các tình tiết trên không chỉ để xác định trách nhiệm hình sự hay quyết định hình phạt mà ưu tiên hàng đầu là xem xét có hay không việc truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Đây là yêu cầu bắt buộc đối với cơ quan tiến hành tố tụng nhằm mục đích giáo dục, cải tạo người chưa thành niên phạm tội là chủ yếu. Căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội là nhằm bắt buộc cơ quan tiến hành tố tụng phải đánh giá khả năng nhận thức của người chưa thành niên về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện. Ví dụ: Nếu hành vi mà họ thực hiện là hành vi giết người thì nhận thức tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi sẽ sâu sắc hơn so với hành vi đưa hối lộ. Căn cứ vào đặc điểm thuộc về nhân thân của người phạm tội có thể rút ra kết luận về khả năng cải tạo giáo dục của người chưa thành niên phạm tội. Căn cứ vào yêu cầu phòng ngừa tội phạm đòi hỏi phải đánh giá hành vi phạm tội mà người chưa thành niên thực hiện trong bối cảnh chung trong từng thời kỳ, cũng như ở từng địa phương để từ đó xác định được yêu cầu phòng ngừa chung. Căn cứ mà điều luật nêu ra không nhằm mục đích gì khác ngoài mục đích giáo dục người chưa thành niên phạm tội thành những công dân có ích cho xã hội. Việc quy định nguyên tắc này đảm bảo chủ trương "đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội" được nêu trong Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Việc cân nhắc không áp dụng hình phạt sẽ cho phép người chưa thành niên phạm tội vẫn ở tại cộng đồng hoặc không bị áp dụng các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc của Nhà nước nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả giáo dục, phục hồi đối với họ, do vậy rất phù hợp với chủ trương xã hội hóa công tác thi hành án của Đảng và Nhà nước ta. Thực tiễn giáo dục người chưa thành niên phạm tội ở nhiều nước trên thế giới đã cho thấy rằng, người chưa thành niên phạm tội được sửa chữa lỗi lầm ngay trong môi trường sống của mình với sự quan tâm, giúp đỡ của bàn con, láng giềng, các đoàn thể xã hội sẽ có khả năng phục hồi tốt hơn, bền vững hơn. Nguyên tắc thứ tư - Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật hình sự. Điều 70 Bộ luật Hình sự quy định hai biện pháp tư pháp mang tính răn đe giáo dục và phòng ngừa là giáo dục tại xã phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng. Đây là các biện pháp tư pháp riêng, chỉ áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, do vậy mục đích và vai trò của nó cũng có nét đặc thù so với các biện pháp tư pháp được quy định tại Chương VI Bộ luật hình sự. Các biện pháp tư pháp được quy định tại Chương VI Bộ luật hình sự được các cơ quan tư pháp áp dụng mang tính chất hỗ trợ cho hình phạt trong trường hợp cần thiết phải xử lý cơ bản, toàn diện người phạm tội về hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, thể hiện sự công minh của pháp luật đồng thời loại bỏ những điều kiện phạm tội, đem lại trật tự, an toàn cho xã hội, còn đối với biện pháp tư pháp áp dụng riêng cho người chưa thành niên lại có ý nghĩa thay thế cho hình phạt và do đó chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền áp dụng các biện pháp tư pháp này. Trong các biện pháp tư pháp quy định tại Chương VI Bộ luật hình sự thì biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với trường hợp người mắc các bệnh tâm thần mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi cũng đóng vai trò thay thế hình phạt nhưng với mục đích là loại bỏ nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi nguy hiểm cho xã hội và do Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng: Đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh quy định tại khoản 1 Điều 13 của Bộ luật này, thì từng theo giai đoạn tố tụng, Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y, có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh;... [54]. Do vậy về bản chất biện pháp tư pháp này cũng rất khác so với các biện pháp tư pháp, áp dụng riêng đối với người chưa thành niên đó là các biện pháp áp dụng tư pháp đối với người chưa thành niên giúp cho Tòa án vận dụng linh hoạt, mềm dẻo và đúng chính sách hình sự của Nhà nước đối với người chưa thành niên phạm tội, giúp đỡ họ có điều kiện sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành người lương thiện, có ích cho gia đình và xã hội. Hai biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 Bộ luật hình sự áp dụng trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, tính chất nguy hiểm cho xã hội không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ như phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo. Thực tiễn xét xử người chưa thành niên phạm tội trong thời gian qua cũng đã chứng minh rằng đây là những biện pháp giáo dục có hiệu quả mà không cần áp dụng hình phạt. Điều 70 Bộ luật hình sự quy định Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ một đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, đây không phải là hình phạt mà chỉ là một biện pháp giáo dục thay thế cho biện pháp buộc phải chịu thử thách được quy định trong luật hình sự trước đây. Ngoài ra, khi thi hành án biện pháp này người chưa thành niên phạm tội không bị tách khỏi gia đình, nhà trường, xã hội, người chưa thành niên được giáo dục tại xã, phường thị trấn phải chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ về học tập, lao động, tuân thủ các quy định của pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được Tòa án giao trách nhiệm. Bên cạnh đó, biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng được áp dụng nếu Tòa án thấy tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người phạm tội không đảm bảo cho việc giáo dục tại xã phường thì việc đưa họ vào một tổ chức giáo dục chặt chẽ sẽ hiệu quả hơn. Thời hạn áp dụng đối với hai biện pháp này là từ một năm đến hai năm. Tuy nhiên, nếu người phạm tội chấp hành tốt và đã thực hiện được 1/2 thời hạn thì Tòa án có thể quyết định chấm dứt thời hạn theo đề nghị của tổ chức, cơ quan, nhà trường được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục. Nguyên tắc thứ năm - Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạn chế áp dụng hình phạt tù. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng. Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội. Tử hình và tù chung thân là hai hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt được quy định tại Bộ luật hình sự, người phạm tội nói chung chỉ bị áp dụng hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và khả năng cải tạo giáo dục người phạm tội không còn nữa. Chính vì vậy đối với người chưa thành niên phạm tội, khi mà mục đích truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ chủ yếu là nhằm giáo dục cải tạo họ thì không thể cho phép áp dụng loại hình phạt này. Nguyên tắc này cũng quy định hạn chế áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội. So với Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự được sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã thêm vào nguyên tắc này một quy định hết sức quan trọng, đó là "khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạn chế áp dụng hình phạt tù" [58], và về hình thức việc đưa các quy định áp dụng hình tù có thời hạn lên trên sau quy định không xử phạt tù chung thân và tử hình thể hiện tầm quan trọng và đường lối xử lý của Đảng và nhà nước ta trong việc áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều này cũng phù hợp với xu hướng pháp luật quốc tế và cũng là giải đáp những vướng mắc trong hoạt động thực tiễn xét xử của ngành Tòa án. Như chúng ta đã biết hình phạt tù có thời hạn là hình phạt nặng nhất trong hệ thống hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội ở nước ta hiện nay. Với đặc trưng là tước tự do của người chưa thành niên trong một thời gian nhất định, cách ly các em khỏi môi trường sống bình thường để buộc các em phải học tập, lao động, sinh hoạt trong một cơ sở tập trung có kỷ luật chặt chẽ, việc áp dụng hình phạt này đối với người chưa thành niên không chỉ do các em đã thực hiện những tội phạm mang tính nghiêm trọng và vì vậy cần bị xử lý bằng những chế tài nghiêm khắc mà còn xuất phát từ yêu cầu bảo vệ cộng đồng trước khả năng các em tiếp tục gây ra những hành vi nguy hiểm cũng như bảo vệ chính các em trước những yếu tố tiêu cực tại môi trường sống, có thể cản trở quá trình phục hồi, cải tạo của các em. Trong trại giam, thông qua việc dạy văn hóa, dạy nghề, giáo dục đạo đức, lối sống, người chưa thành niên phạm tội sẽ được trang bị các kiến thức và kỹ năng cần thiết để khi quay trở về với cộng đồng, các em có thể tái hòa nhập, bắt đầu một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, không rơi vào tình trạng "ngựa quen đường cũ". Tuy nhiên, song hành với các ưu điểm nói trên, hình phạt tù có thời hạn cũng chứa đựng những hạn chế nội tại, trong đó phải kể đến những tác động tiêu cực do người chưa thành niên bị cách ly khỏi người thân và môi trường sinh sống bình thường của mình. Việc bị cách ly khỏi xã hội sẽ khiến cho các em có cảm giác mặc cảm, bị bỏ rơi, bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Mặc cảm này lại càng nặng nề hơn vì ở độ tuổi này, con người vẫn còn khuynh hướng lệ thuộc, cần sự bao bọc của gia đình và những người xung quanh. Về phía gia đình và cộng đồng, việc đưa người chưa thành niên phạm tội ra khỏi cộng đồng cũng khiến cho nhiều gia đình và thành viên trong cộng đồng có thái độ xa lánh, miệt thị đối với họ. Hơn thế nữa, thời kỳ niên thiếu là khoảng thời gian quan trọng đối với người chưa thành niên để phát triển các kỹ năng xã hội và học hỏi làm thế nào để giao thiệp với những người khác theo cách chín chắn và lễ phép. Tuy nhiên, người chưa thành niên bị phạt tù lại phát triển các kỹ năng xã hội này trong một môi trường rất không tự nhiên, chỉ kết giao với những người phạm tội khác. Đây là những trở ngại rất lớn đối với quá trình phục hồi và tái hòa nhập của người chưa thành niên phạm tội. Chính vì vậy mà Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em và các chuẩn mực quốc tế khác về tư pháp người chưa thành niên đã yêu cầu các quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng chỉ áp dụng hình phạt tù đối với trẻ em như biện pháp cuối cùng và trong thời hạn thích hợp ngắn nhất; trong trường hợp buộc phải áp dụng hình phạt tù thì các cơ quan có thẩm quyền cần áp dụng biện pháp trả tự do có điều kiện trong thời gian sớm nhất có thể để giám sát, giáo dục người chưa thành niên tại cộng đồng. Kế thừa những quan điểm trên Bộ luật hình sự cũng quy định nguyên tắc "Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạn chế áp dụng hình phạt tù." điều này đặt ra cho các cơ quan tiến hành tố tụng phải coi nhà tù là biện pháp xử lý cuối cùng đối với người chưa thành niên và khi buộc phải áp dụng hình phạt tù cho người chưa thành niên phạm tội Tòa án phải cân nhắc, áp dụng mức án nhẹ hơn mức án đối với người đã thành niên phạm tội. Bộ luật hình sự hiện hành cũng không cho phép áp dụng hình phạt tiền với tư cách là hình phạt chính hay phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi. Cơ sở của quy định này là đối với những người chưa thành niên phạm tội họ chưa có khả năng độc lập về kinh tế, sống còn phụ thuộc vào gia đình, chưa có nghề nghiệp ổn định họ chưa thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự mà luôn có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Do vậy không thể áp dụng hình phạt tiền đối với những đối tượng này. Bên cạnh đó, nguyên tắc này cũng quy định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội. Hình phạt bổ sung trong hệ thống hình phạt pháp luật hình sự nước ta với vai trò là hỗ trợ, mở thêm khả năng pháp lý cho tòa án có thể lựa chọn hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và nhân thân người phạm tội. Tuy nhiên, đối với việc xử lý người chưa thành niên phạm tội để giúp đỡ họ cải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới nên không cần phải áp dụng hình phạt bổ sung, hỗ trợ cho hình phạt chính. Nguyên tắc thứ sáu - Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Việc quy định nguyên tắc này cũng thể hiện tính chất giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều 49 Bộ luật hình sự quy định tái phạm và tái phạm nguy hiểm: Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại còn phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. hiểm: Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý [54]. Theo đó tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết thuộc nhân thân người phạm tội. Nếu thuộc trường hợp tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm, người phạm tội thể hiện khả năng cải tạo giáo dục còn thấp, thường xuyên phạm tội và coi thường pháp luật. Do vậy, trong luật hình sự Việt Nam, tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng định khung hoặc là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự. Nếu bị xác định là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm thì đó là tình tiết bất lợi cho người phạm tội, người phạm tội có thể bị áp dụng khung hình phạt có mức phạt cao hơn so với người thuộc trường hợp phạm tội bình thường. Đối với người chưa thành niên phạm tội chưa đủ 16 tuổi, dù trước đó họ phạm tội gì đi chăng nữa cũng không căn cứ tính tái phạm và tái phạm nguy hiểm. Điều này thể hiện rõ nét tính nhân đạo trong pháp luật hình sự Việt Nam. Người chưa thành niên là đối tượng chưa phát triển đầy đủ về tâm, sinh lý, họ bị hạn chế về trình độ nhận thức cũng như kinh nghiệm sống, dễ bị kích động, lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu mạo hiểm nên họ dễ bị phạm tội nhưng ngược lại họ cũng dễ được cảm hóa, giáo dục để trở thành người có ích cho xã hội. Chính vì vậy, không thể cho rằng người chưa thành niên phạm tội liên tục, thường xuyên phạm tội là thể hiện khả năng giáo dục cải tạo của họ còn thấp. Mặt khác, khi bị quy kết là "tái phạm" hay "tái phạm nguy hiểm" sẽ làm cho các em mặc cảm, tự bản thân sẽ xa lánh gia đình, cộng đồng, vô hình chung những điều đó dẫn các em đến những hành động tiêu cực, lại quay lại con đường vi phạm pháp luật. Người chưa thành niên lại tiếp tục phạm tội thì nguyên nhân đầu tiên không phải là lỗi do các em mà chính là do cộng đồng, do các biện pháp tái hòa nhập cộng đồng của chúng ta chưa phát huy được hết hiệu quả. Các công tác chuẩn bị hòa nhập cộng đồng của trại giam, của trường giáo dưỡng, sự quan tâm, động viên, tạo điều kiện trở lại cộng đồng của gia đình, chính quyền địa phương... đã chưa phát huy được hết hiệu quả dẫn đến các em lại tiếp tục quay trở lại con đường phạm tội. Do vậy, không thể áp dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm để tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các em. THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH Đánh giá thực trạng thi hành các nguyên tắc xử lý ngƣời chƣa thành niên phạm tội Công tác điều tra, xử lý tội phạm và đặc biệt công tác xét xử các tội phạm do người chưa thành niên phạm tội đòi hỏi không những phải bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật mà còn phải thể hiện quan điểm chính thống - coi người chưa thành niên phạm tội là đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt, một chủ thể cần được giúp đỡ, giáo dục để trở thành công dân có ích cho

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxcac_nguyen_tac_xu_ly_nguoi_chua_thanh_nien_pham_toi_trong_luat_hinh_su_viet_nam_7518_1851701.docx
Tài liệu liên quan