Các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống nqtm của bên nhận quyền tại tp. HCM

Nghiên cứu định lượng được thực hiện thông qua hai giai đoạn:

Nghiên cứu định lượng sơ bộ và nghiên cứu định lượng chính thức,

với kỹ thuật phân tích độ tin cậy Cronbach’s Alpha, phân tích nhân

tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA), kiểm định

mô hình hóa cấu trúc tuyến tính (SEM). Dữ liệu thu thập được xử lý

bằng phần mềm SPSS 23.0 và phần mềm AMOS 23.0. Cụ thể, dữ

liệu của nghiên cứu định lượng sơ bộ được thu thập bằng bảng câu

hỏi khảo sát 100 nhà nhận quyền tại Tp.HCM (thu về được 95 phiếu

hợp lệ). Kết quả nghiên cứu định lượng sơ bộ cho thấy, có 14 biến

quan sát bị loại. Trong đó, thang đo sự tưởng tượng bị loại do sau khi

phân tích EFA, chỉ còn hai biến quan sát – không đủ điều kiện để xây

dựng thang đo cho nghiên cứu chính thức. Nghiên cứu định lượng

chính thức được thực hiện thông qua khảo sát 200 nhà nhận quyền tại

Tp.HCM (thu về được 178 phiếu hợp lệ). Kết quả phân tích cho thấy,

các thang đo sau khi điều chỉnh đều đạt được độ tin cậy và độ giá trị:

- Kết quả đánh giá độ tin cậy thang đo cho thấy, chín khái niệm

(hướng ngoại, sự đồng thuận, sự tận tâm, ổn định cảm xúc, thực

thi pháp luật NQTM, sự tin tưởng, sự hài lòng, sự cam kết, dự

định duy trì tham gia hệ thống NQTM) đều đạt độ tin cậy (α đều

lớn hơn 0,70). Trong bước đánh giá này, có hai biến quan sát bị

loại do không tương quan chặt chẽ với các biến quan sát còn lại

trong thang đo. Đó là biến quan sát PL5 (Tôi luôn thể hiện là

người có học vấn, được đào tạo và có kinh nghiệm trong lĩnh vực

NQTM) và Y3

pdf27 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 559 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống nqtm của bên nhận quyền tại tp. HCM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dài của Bên nhận quyền đối với hệ thống NQTM – điều kiện sống còn của một hệ thống NQTM. 1.2. Ý nghĩa của nghiên cứu - Khám phá nhân tố Thực thi pháp luật NQTM, đặc điểm cá nhân và CLMQH Bên nhượng quyền – Bên nhận quyền có tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền, điều chỉnh các thang đo kế thừa từ các nghiên cứu trước. - Hai nhân tố CLMQH Bên nhượng quyền – Bên nhận quyền và đặc điểm cá nhân của Bên nhận quyền đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền được xem xét là hai khái niệm đa hướng. 1.3. Mục tiêu nghiên cứu luận án - Thiết kế mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền. - Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền. - Đề xuất các hàm ý quản trị nhằm nâng cao mức độ dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền và các hàm ý chính sách đối với Nhà nước về hoạt động NQTM. 1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án Các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền. 1.4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về vấn đề nghiên cứu: Các nhân tố tác động đến dự định duy trì 5 tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền. - Về thời gian: Hoạt động NQTM thực tiễn từ 2007 đến nay. - Về không gian: + Tổng quan về thực trạng hoạt động NQTM Việt Nam nói chung và Tp.HCM nói riêng + Khảo sát, kiểm định mô hình các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM Bên nhận quyền tại Tp.HCM. - Về đối tượng khảo sát: Bên nhận quyền – lãnh đạo doanh nghiệp hay quản lý cửa hàng nhận quyền – người điều hành và đề xuất các quyết định cho hoạt động kinh doanh NQTM của đơn vị. 1.5. Phương pháp nghiên cứu luận án Luận án lựa chọn cả 2 phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu định tính với kỹ thuật phỏng vấn tay đôi ở giai đoạn nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng được thực hiện qua hai giai đoạn là nghiên cứu định lượng sơ bộ với 95 nhà nhận quyền tại Tp.HCM cùng với nghiên cứu định lượng chính thức với kỹ thuật khảo sát 187 doanh nghiệp và cá nhân nhận quyền, được lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu phát triển mầm và phương pháp ngẫu nhiên đơn giản. CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT - MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU Dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM được hiểu là hành vi của Bên nhận quyền trong việc lên kế hoạch hoặc ra quyết định tái ký hợp đồng NQTM hoặc mở rộng hợp tác với Bên nhượng quyền trong hệ thống NQTM mà họ đang tham gia. Khi Bên nhận quyền có hành vi này tức là Bên nhận quyền đang có dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM. 2.1. Các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền 6 Bảng 2.4: Tổng hợp các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền Tt Nhân tố Tác giả, năm 1 CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền Adeiza và đtg (2017), Chen (2011), McDonnell và đtg (2011), Ulaga và đtg (2006) 2 Sự tin tưởng Erlinda và đtg (2016), Victoria Bordanaba-Juste và đtg (2008), Chiou và đtg (2004), Morrison (1997) 3 Sự hài lòng Chen (2011), Huang và đtg (2009), Lee và đtg (2008), Chiou và đtg (2004), Hing (1999), Morrison (1997), Justis và đtg (1991) 4 Sự cam kết Victoria Bordanaba-Juste và đtg (2008) 5 Chất lượng dịch vụ, đào tạo, chương trình huấn luyện Venetis và đtg (2004), Justis và đtg (1991) 6 Lợi thế cạnh tranh, hình ảnh thương hiệu Bên nhượng quyền Erlinda và đtg (2016), Huang và đtg (2009), Chiou và đtg (2004) 7 Đặc điểm cá nhân của Bên nhận quyền (tính, tuổi, trình độ) Chen (2011), Morrison (1997) 8 Giao tiếp, trao đổi thông tin và hợp tác Huang và đtg (2009), Victoria Bordanaba-Juste và đtg (2008), Chiou 7 Nguồn: Tổng hợp của tác giả 2.2. Mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền 2.2.1. Cơ sở lý thuyết liên quan đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền 2.2.1.1. Lý thuyết động cơ (Motivation theory) Dự định thực hiện một hành vi là yếu tố chính của hành vi trong tương lai (Ajzen và đtg, 2005) và nó trải qua ba bước: (i) Hình thành động cơ; (ii) Hành động lựa chọn hoặc ra quyết định; (iii) Thực hiện dự định (Thomas Waweru Gakobo và đtg, 2016). Như vậy, hình thành động cơ là bước khởi đầu cho việc hình thành dự định hay lên kế hoạch hay ra quyết định thực hiện một hành động. Động cơ là một khái niệm lý thuyết được sử dụng để giải thích tại sao con người tiến hành các hành động cụ thể tại một thời gian cụ thể (Beck, 2004). Còn theo quan điểm của Petri và đtg (2004), động cơ là khái niệm dùng để mô tả các tác động trực tiếp từ bên ngoài hoặc bên trong một tổ chức đến hành vi, giải thích sự khác biệt về mức độ của hành vi và chỉ ra sự tồn tại của nó. Các lý thuyết tạo động cơ dựa trên sự thỏa mãn nhu cầu: động cơ thúc đẩy con người hành động xuất phát từ mong muốn thỏa mãn và đtg (2004) 9 Môi trường KD Huang và đtg (2009) 10 Định hướng dài hạn Ono và đtg (2009) 11 Chủ nghĩa cơ hội Ono và đtg (2009) 12 Tự chủ nhận thức Hanafiah và đtg (2009) 13 Sự quan tâm gia đình Hanafiah và đtg (2009) 8 nhu cầu. Quá trình thực hiện nhu cầu là một quá trình phức tạp: Cảm thấy có nhu cầu về một cái gì đó và tìm cách để thỏa mãn nó.Trong kinh doanh, động cơ được cho là có tác động mạnh mẽ đến hành vi (Herron và đtg, 1993; Renko và đtg, 2011). Bird (1998) cho rằng dự định của người sáng lập quyết định hình thức và chỉ đạo của một tổ chức. Còn trong lĩnh vực NQTM, hai lý thuyết về động cơ có thể rất hữu ích khi vận dụng để hiểu được động cơ tham gia trong hệ thống NQTM của Bên nhận quyền là lý thuyết nội dung và lý thuyết quá trình về động lực. Trong đó, lý thuyết quá trình động lực đóng vai trò quan trọng vì chúng giúp hiểu rõ thêm những gì ảnh hưởng đến quá trình hình thành dự định của Bên nhận quyền. 2.2.1.2. Lý thuyết hành vi dự định (Theory of planned behavior) Lý thuyết hành vi dự định là lý thuyết về mối liên hệ giữa thái độ và hành vi, nhận diện kiểm soát hành vi và các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến hành vi dự định cá nhân (Ajzen, 1991). Các nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau như: tâm lý xã hội (Ajzen, 2002), du lịch (Hsu, 2012), lễ hội và sự kiện (Horng và đtg, 2013; Shen, 2014), đã vận dụng thành công lý thuyết hành vi dự định để làm rõ tác động của động cơ vào hành vi dự định và hành vi.Lý thuyết hành vi dự định là một phần mở rộng của lý thuyết hành động hợp lý (theory of reasoned action - TRA) khi đã bổ sung thêm yếu tố kiểm soát hành vi cảm nhận (Ajzen, 2002). Ngoài ra, lý thuyết này còn xem xét sự liên quan giữa yếu tố niềm tin và việc sở hữu các nguồn lực cần thiết cũng như cơ hội để thực hiện một hành vi cụ thể. Một số nghiên cứu trước chứng minh tác động của yếu tố kiểm soát hành vi đến dự định của cá nhân. Nghĩa là, hành vi dự định sẽ cao hơn khi một cá nhân nắm giữ quyền kiểm soát thực hiện một hành vi nhất định (Buttle và đtg, 1996; Horng và đtg, 2013; Shen, 2014). Theo Ajzen (1991), lý 9 thuyết hành vi dự định mặc nhiên công nhận ba thành phần chính cấu tạo khái niệm về dự định: thái độ đối với các hành vi, yếu tố chủ quan và kiểm soát hành vi dự định. Trong lĩnh vực NQTM, lý thuyết hành vi dự định giúp dự đoán được thái độ, hành vi của Bên nhận quyền trong việc có dự định tiếp tục duy trì tham gia hệ thống NQTM hay không. 2.2.1.3. Lý thuyết Đại lý (Agency theory) Lý thuyết đại lý được Jensen và Meckling đưa ra vào năm 1976. Lý thuyết này đề cập đến một thỏa thuận giữa một bên (người ủy thác - principal) cam kết với một bên khác (đại lý - agent) thay mặt họ thực hiện một số dịch vụ, đồng thời trao cho đại lý một số quyền hạn và tự ra quyết định trong phạm vi đã thống nhất. Lý thuyết đại lý chỉ ra rằng mục đích của các hợp đồng với đại lý là cho phép các giao dịch được thực hiện theo cách tích hợp. Trong hoạt động NQTM, tính chất quan hệ đại lý rất rõ nét: Bên nhượng quyền dựa vào Bên nhận quyền thay mặt họ thực hiện một số dịch vụ, đồng thời trao cho đại lý một số quyền hạn và tự ra quyết định trong phạm vi đã thống nhất. Lý thuyết đại lý cũng giả định rằng việc kiểm soát các vấn đề phát sinh trong mối quan hệ Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền được xem xét từ sự khác biệt về mục đích, thông tin và rủi ro liên quan của các bên (Bergen và đtg, 1992). Vận dụng lý thuyết đại lý được xem là một công cụ giúp các Bên nhượng quyền kiểm soát các hoạt động của Bên nhận quyền. 2.2.1.4. Lý thuyết CLMQH (Relationship quality) Dwyer và đtg (1987) đã nghiên cứu đầu tiên về CLMQH. Đến năm 1990, Crosby và đtg đã xây dựng thành hệ thống lý thuyết về CLMQH. Khi đó, CLMQH được định nghĩa là sự đánh giá về sức mạnh mối quan hệ và sự mở rộng mối quan hệ nhằm đáp ứng những 10 kỳ vọng và nhu cầu của các bên liên quan. CLMQH giữa khách hàng và công ty là một thước đo xem khách hàng có muốn tiếp tục duy trì mối quan hệ với người cung cấp dịch vụ hay không (Roberts và đtg, 2003). CLMQH được xem xét trên ba phương diện chính: Sự hài lòng (satisfaction), sự tin tưởng (trust), và sự cam kết (commitment) (Hennig và đtg, 1997; Smith, 1998; Liang và đtg, 2005). Trong nhiều ngành công nghiệp ngày nay, CLMQH là công cụ nhằm duy trì mối quan hệ dài hạn giữa người bán và người mua (Dwyer và đtg, 1987). Điều này tương tự CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền trong lĩnh vực NQTM. Bên nhận quyền chính là khách hàng, là đối tác ký kết hợp đồng NQTM với Bên nhượng quyền. Mối quan hệ NQTM là loại mối quan hệ hợp tác dài hạn tiêu biểu. Thời gian duy trì mối quan hệ giữa hai bên phản ánh CLMQH giữa họ (Ernández Monroy và đtg 2005). 2.2.1.5. Lý thuyết Đặc điểm cá nhân (Big Five personality traits) Lý thuyết này đề cập đến tính cách khác nhau cơ bản của mỗi cá nhân thông qua năm đặc điểm: Hướng ngoại (extraversion), sự đồng thuận (agreeableness), sự tận tâm (conscientiousness), ổn định cảm xúc (emotional stability) và sự tưởng tượng (imagination) (Costa và đtg, 1992). Trong NQTM, Peterson và đtg (1990), tính cáchBên nhận quyền là một trong những tương quan ảnh hưởng đến cảm nhận của họ về NQTM. Nghiên cứu những đặc điểm cá nhân của Bên nhận quyền giúp hiểu động cơ tham gia hệ thống NQTM (Lee, 1999). Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng, dựa vào đặc điểm cá nhân có thể dự đoán khả năng tương thích mối quan hệ nội bộ (Morrison, 1997), mong muốn duy trì và phát triển hệ thống NQTM của Bên nhận quyền (Weaven và đtg, 2009). Ngoài ra, theo Nguyễn Đông Phong và đtg (2009), NQTM là một phương thức kinh doanh 11 mang tính cộng sinh và khác biệt hóa một cách hợp pháp. Do vậy, vận dụng lý thuyết này giúp Bên nhượng quyền dự đoán và ra quyết định chọn lựa Bên nhận quyền nào có thể cùng mình đồng tâm hiệp lực xây dựng và phát triển lâu dài hệ thống NQTM. 2.2.2. Mô hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền Trên cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu liên quan đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền, NCS ủng hộ quan điểm và kết quả nghiên cứu của Chen (2011) và Morrison (1997). Bên nhận quyền có những đặc điểm cá nhân phù hợp với phương thức hoạt động kinh doanh và đặc điểm cá nhân của Bên nhượng quyền sẽ tạo nên mối quan hệ tốt đẹp và có xu hướng tiếp tục duy trì hợp tác trong tương lai. Trên cơ sở này, hai giả thuyết nghiên cứu được đề xuất như sau: Giả thuyết H1: Đặc điểm cá nhân có tác động cùng chiều đến CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền. Giả thuyết H2: Đặc điểm cá nhân có tác động cùng chiều đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền. Mức độ am hiểu, tin tưởng và thực thi pháp luật NQTM, thực thi đúng các thỏa thuận được ghi trên hợp đồng NQTM của Bên nhận quyền có ảnh hưởng đến CLMQH giữa họ và Bên nhượng quyền. Ngoài ra, khi Bên nhận quyền có niềm tin sẽ được pháp luật NQTM bảo vệ quyền lợi hợp pháp, họ sẽ yên tâm và có khuynh hướng tiếp tục duy trì tham gia hệ thống NQTM. Tuy nhiên, trong nhiều nghiên cứu về hoạt động NQTM trong và ngoài nước, các nghiên cứu vẫn chưa xem xét việc thực thi pháp luật NQTM có ảnh hưởng như thế nào đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM cũng như CLMQH giữa 2 bên. Với những lý do trên, NCS đề xuất hai giả thuyết sau: 12 Giả thuyết H3: Thực thi pháp luật NQTM có tác động cùng chiều đến CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền. Giả thuyết H4: Thực thi pháp luật NQTM có tác động cùng chiều đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền. Điểm đáng chú ý trong hoạt động NQTM là mối quan hệ mang tính cộng sinh giữa Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền. Một hệ thống NQTM chỉ được xem là thành công khi ngày càng có nhiều Bên nhận quyền tham gia và duy trì lâu dài trong hệ thống. Trong khi đó, dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền phụ thuộc rất lớn vào cảm nhận của họ về mối quan hệ hiện tại với Bên nhượng quyền. Hai bên thường có những quan điểm và động cơ khác nhau nhưng họ đều có chung một mục tiêu và lợi ích chung cần đạt đến chính là hiệu quả kinh doanh. Do vậy, hai bên phải có một sự ràng buộc nhất định, cần phải duy trì CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền một cách lâu dài, tốt đẹp để cùng phát triển vững chắc trên thị trường. Vì vậy mà CLMQH là trở thành một thành tố quan trọng đem đến thành công cho sự hợp tác lâu dài trong lĩnh vực NQTM (Ernández Monroy, 2005). CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền càng tốt thì Bên nhận quyền càng có nhiều khả năng dự định tiếp tục hợp tác, duy trì tham gia hệ thống NQTM. Do vậy, có thể rút ra giả thuyết như sau: Giả thuyết H5: CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền có tác động cùng chiều đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền. 13 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Phương pháp nghiên cứu và chọn mẫu 3.1.1. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu định tính được thực hiện bằng phương pháp thảo luận tay đôi với các chuyên gia trong lĩnh vực NQTM nhằm khẳng định tính khoa học của mô hình nghiên cứu lý thuyết và với 10 đại diện đối tượng khảo sát nhằm đảm bảo bảng câu hỏi khảo sát rõ ràng, dễ hiểu phù hợp với đối tượng khảo sát. - Phương pháp nghiên cứu định lượng được thực hiện ở giai đoạn là nghiên cứu định lượng sơ bộ nhằm đánh giá sơ bộ các thang đo và nghiên cứu định lượng chính thức nhằm kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu. H4 (+) H3 (+) H2 (+) H1 (+) CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền - Sự tin tưởng - Sự hài lòng - Sự cam kết Đặc điểm cá nhân - Hướng ngoại - Sự đồng thuận - Sự tận tâm - Ổn định cảm xúc - Sự tưởng tượng Thực thi Pháp luật NQTM H5 (+) Dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu lý thuyết 14 3.1.2. Phương pháp chọn mẫu - Đối với hoạt động NQTM từ nước ngoài vào Việt Nam: Sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản. - Đối với hoạt động NQTM trong nước: Sử dụng phương pháp chọn mẫu phát triển mầm. 3.2. Nghiên cứu định tính - Kỹ thuật thực hiện nghiên cứu định tính: Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua kỹ thuật thảo luận tay đôi. - Đối tượng thu thập dữ liệu cho nghiên cứu định tính là các chuyên gia tham gia thảo luận tay đôi. Để điều chỉnh thang đo cho phù hợp với đối tượng khảo sát, NCS đã thảo luận với 10 nhà nhận quyền đại diện tại Tp.HCM và thông qua đó các biến quan sát được điều chỉnh lần cuối và thiết kế thành bảng câu hỏi khảo sát sơ bộ. - Kết quả nghiên cứu sau khi phỏng vấn chuyên gia đã giúp khẳng định mô hình nghiên cứu lý thuyết được đề xuất ở Chương 2, đồng thời bổ sung thêm năm biến quan sát cho bốn thang đo Sự tin tưởng, Sự hài lòng, Thực thi pháp luật NQTM và Dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền. Như vậy, Mô hình nghiên cứu lý thuyết có 10 thang đo đo lường các khái niệm nghiên cứu với tổng cộng 49 biến quan sát. 3.3. Nghiên cứu định lượng 3.3.1. Nghiên cứu định lượng sơ bộ - Phương pháp thực hiện nghiên cứu định lượng sơ bộ: Các thang đo được điều chỉnh thông qua đánh giá độ tin cậy và độ giá trị của nó (phân tích nhân tố khám phá - EFA). - Kết quả nghiên cứu định lượng sơ bộ: Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo cho thấy từ 49 biến quan sát ban đầu, có 14 15 biến quan sát bị loại, trong đó có một thang đo bị loại là thang đo sự tưởng tượng. Vì vậy, mô hình nghiên cứu chính thức sẽ gồm chín thang đo với 35 biến quan sát. 3.3.2. Nghiên cứu định lượng chính thức - Thiết kế bảng câu hỏi: Bảng câu hỏi khảo sát chính thức bao gồm 35 câu hỏi tương ứng 35 biến quan sát thuộc 9 thang đo trong mô hình nghiên cứu. Bên cạnh đó, 2 câu hỏi gạn lọc và một số thông tin liên quan cũng được đưa vào bảng câu hỏi. - Về phương pháp điều tra, phương pháp phỏng vấn trực tiếp được xem là phương pháp có tỷ lệ phản hồi cao nhất. Như đã trình bày ở mục 3.1.2, nghiên cứu này sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản (đối với thương hiệu NQTM từ nước ngoài vào Việt Nam) và phương pháp phát triển mầm (đối với thương hiệu NQTM trong nước). - Kích thước mẫu: Phương pháp phân tích dữ liệu được sử dụng cho nghiên cứu này là phân tích trên mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM). Bollen (1989) cho rằng kích thước mẫu tối thiểu là 5 mẫu cho 1 tham số ước lượng (trích Nguyễn Đình Thọ và đtg, 2011). Trong nghiên cứu này, có tất cả 35 tham số ước lượng nên kích thước mẫu tối thiểu là 175. - Phương pháp thực hiện nghiên cứu định lượng chính thức: Các thang đo tiếp tục được kiểm định bằng phương pháp hệ số tin cậy Cronbach Alpha’s và phân tích nhân tố khám phá (EFA). Sau đó, các thang đo này tiếp tục được kiểm định bằng phương pháp phân tích nhân tố khẳng định (CFA). Khi dùng phương pháp CFA, nghiên cứu sẽ: Đo lường mức độ phù hợp của mô hình với thông tin thị trường, Đánh giá độ tin cậy thang đo, Giá trị hội tụ, Giá trị phân biệt. Sau khi đã kiểm định các giá trị hội tụ, tính đơn 16 hướng và giá trị phân biệt, các biến quan sát đạt điều kiện sẽ được sử dụng để kiểm định mô hình lý thuyết. CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DỰ ĐỊNH DUY TRÌ THAM GIA HỆ THỐNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI BÊN NHẬN QUYỀN 4.1. Thống kê mẫu nghiên cứu chính thức Nghiên cứu định lượng chính thức thực hiện khảo sát 200 nhà nhận quyền tại Tp.HCM, kết quả thu về được 178 phiếu hợp lệ. 4.2. Đánh giá độ tin cậy của thang đo Theo kết quả nghiên cứu định lượng sơ bộ ở mục 3.5.1, có chín thang đo cần được đánh giá độ tin cậy thang đo cho mô hình nghiên cứu Các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM. Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo của các nhân tố cho thấy có hai biến quan sát bị loại sau khi đánh giá độ tin cậy thang đo là: PL5 (thang đo thực thi pháp luật NQTM) và Y3 (thang đo dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM). Như vậy, 33 biến quan sát còn lại đã đáp ứng độ tin cậy thang đo và sẽ được sử dụng trong phần phân tích nhân tố khám phá (EFA). 4.3. Phân tích nhân tố khám phá - Phân tích nhân tố khám phá cho khái niệm đặc điểm cá nhân, chất lượng mối quan hệ, thực thi pháp luật NQTM: Ở lần phân tích EFA thứ nhất, có ba biến quan sát không đạt được giá trị phân biệt là HL4, DT3 và TA5. Kết quả phân tích EFA lần bốn cho thấy có tám nhân tố được trích. Trong đó, các biến quan sát thuộc các thang đo hướng ngoại, sự tận tâm, sự đồng thuận và ổn định cảm xúc đo lường cho khái niệm đặc điểm cá nhân; các biến quan sát thuộc các thang đo sự cam kết, sự hài lòng và sự tin 17 tưởng đo lường cho khái niệm chất lượng mối quan hệ. - Phân tích nhân tố khám phá khái niệm dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM: Kết quả phân tích EFA khái niệm dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM có một nhân tố được rút trích ra. 4.4. Phân tích nhân tố khẳng định - Kết quả CFA cho các khái niệm đa hướng: Sau khi phân tích CFA cho từng khái niệm, với độ tin cậy 95%, hệ số tương quan giữa các khái niệm đều khác biệt so với 1 (p < 0,05), như vậy các thang đo đạt giá trị phân biệt. - Kết quả CFA mô hình đo lường tới hạn: Để kiểm định giá trị phân biệt của tất cả các khái niệm nghiên cứu trong mô hình nghiên cứu, các khái niệm nghiên cứu được tự do quan hệ với nhau trong mô hình tới hạn. Kết quả cho thấy tất cả các thang đo đều đạt tính đơn hướng, độ tin cậy tổng hợp, phương sai trích, độ tin cậy Cronbach’s alpha, giá trị nội dung, giá trị hội tụ và giá trị phân biệt. Vì vậy, các khái niệm này đạt được giá trị phân biệt. 4.5. Kiểm định mô hình nghiên cứu (SEM) 4.5.1. Kiểm định mô hình nghiên cứu Kết quả SEM cho thấy mô hình lý thuyết phù hợp với dữ liệu thị trường: Chi-square/df = 1,275 ( 0,9), CFI = 0,961 (> 0,9), RMSEA = 0,039 (< 0,08). Kết quả kiểm định cho thấy, cả mô hình nghiên cứu lý thuyết và mô hình cấu trúc tuyến tính đều có cùng bậc tự do, hiện tượng Heywood không xuất hiện trong quá trình ước lượng mô hình SEM và các sai số chuẩn đều < |2,58|. Kết quả ước lượng chưa chuẩn hóa của các tham số chính trong mô hình cho thấy, với độ tin cậy 95%, các mối quan hệ nhân quả này đều có ý nghĩa thống kê vì có giá trị p < 0,05. 18 Kiểm định ước lượng mô hình nghiên cứu lý thuyết bằng Bootstrap. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp Bootstrap với số lượng mẫu lặp lại là N = 350. Kết quả ước lượng từ 350 mẫu được tính trung bình kèm theo độ chệch rất nhỏ, không có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy 95%. Vì vậy, có thể kết luận là các ước lượng trong mô hình có thể tin cậy được. 4.5.2. Kiểm định các giả thuyết nghiên cứu Dựa vào kết quả ở Bảng 4.13 có thể kết luận thang đo đo lường các khái niệm trong mô hình nghiên cứu đạt giá trị liên hệ lý thuyết. Vậy, các giả thuyết về mối quan hệ của các khái niệm trong mô hình nghiên cứu đều được chấp nhận. Cụ thể: - Giả thuyết đặc điểm cá nhân có tác động cùng chiều đến CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền (H1) được chấp nhận với p = 0,012. - Giả thuyết đặc điểm cá nhân có tác động cùng chiều đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền (H2) được chấp nhận với p = 0,039. - Giả thuyết thực thi pháp luật NQTM có tác động cùng chiều đến CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền (H3) được chấp nhận với p = 0,004. - Giả thuyết thực thi pháp luật NQTM có tác động cùng chiều đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền (H4) được chấp nhận với p = 0,044. - Giả thuyết CLMQH Bên nhượng quyền - Bên nhận quyền có tác động cùng chiều đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền (H5) được chấp nhận với p = 0,008. 4.5.3. Phân tích đa nhóm - Phân tích đa nhóm theo số năm hoạt động: Giá trị khác biệt Chi- 19 bình phương giữa hai mô hình là 2,835 và khác biệt của bậc tự do là 5. Vì vậy, mức khác biệt này không có ý nghĩa giữa hai mô hình (p-value = 0,725 >0,05). Do đó mô hình bất biến được chọn. Điều này có nghĩa là không có sự khác biệt trong sự tác động giữa các khái niệm trong mô hình theo thời gian hoạt động. - Phân tích đa nhóm theo xuất xứ thương hiệu: Giá trị khác biệt Chi-bình phương của hai mô hình bất biến và khả biến là 11,080 và khác biệt bậc tự do là 5. Mức khác biệt này có ý nghĩa thống kê giữa hai mô hình (p-value = 0,016 <0,05). Vì vậy, mô hình khả biến được chọn. Điều này có nghĩa là có sự khác biệt về các mối quan hệ giữa các khái niệm trong mô hình giữa NQTM thương hiệu trong nước với NQTM thương hiệu nước ngoài. CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN, HÀM Ý QUẢN TRỊ VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH 5.1. Kết luận Luận án về các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền tại Tp.HCM được thực hiện nhằm nghiên cứu khám phá và xây dựng mô hình các nhân tố tác động đến dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp, kết hợp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng. Nghiên cứu định tính được thực hiện ở giai đoạn đầu của quy trình nghiên cứu, thông qua phỏng vấn tay đôi 15 chuyên gia đang hoạt động trong lĩnh vực NQTM và thảo luận với 10 nhà nhận quyền đại diện. Qua đó, các chuyên gia đã đề xuất bổ sung năm biến quan sát vào bốn thang đo, gồm: Sự tưởng tượng (một biến quan sát), sự hài lòng (một biến quan sát), thực thi pháp luật NQTM (hai biến 20 quan sát) và dự định duy trì tham gia hệ thống NQTM của Bên nhận quyền (một biến quan sát). Đồng thời, góp ý để các câu hỏi trong bảng khảo sát rõ nghĩa hơn và dễ hiểu hơn. Nghiên cứu định lượng được thực hiện thông qua hai giai đoạn: Nghiên cứu định lượng sơ bộ và nghiên cứu định lượng chính thức, với kỹ thuật phân tích độ tin cậy Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA), kiểm định mô

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4_1_2231_2045629.pdf
Tài liệu liên quan