Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam

Tình hình vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ là một vấn đề phức tạp,

nhức nhối trong phạm vi cả nước. Vì vậy, đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm trật tự an

toàn giao thông thông đường bộ có hiệu quả là điều kiện quan trọng đảm bảo an toàn giao

thông thông suốt, góp phần ổn định và phát triển đời sống kinh tế - xã hội, phục vụ thắng lợi

sự nghiệp đổi mới của đất nước trong thời kỳ hội nhập.

2. Nguyên nhân và điều kiện chủ yếu của tình hình trên là do người dân chưa nhận thức

đúng và đầy đủ trách nhiệm tuân thủ triệt để pháp luật về giao thông đường bộ. Bên cạnh đó,

kết cấu hạ tầng giao thông còn thiếu đồng bộ, chắp vá; công tác quản lý phương tiện giao

thông đường bộ, người điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ còn nhiều sơ hở,

thiếu sót. Đáng chú ý là các cơ quan bảo vệ pháp luật còn thiếu kiên quyết, chưa nghiêm khắc

trong đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm trật tự về an toàn giao thông đường bộ.

pdf14 trang | Chia sẻ: lanphuong92 | Lượt xem: 878 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hận thức và điều khiển hành vi của mình. Điều 12 Bộ luật hình sự quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: "Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng". Năng lực trách nhiệm hình sự được Nhà nước ta quy định theo phương pháp loại trừ, tức là khẳng định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là gì và nếu không phải là tình trạng đó, thì là tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự. Dấu hiệu thứ tư của tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là tính có lỗi của tội phạm. Lỗi là thái độ tâm lý của người thực hiện tội phạm đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả cho xã hội do hành vi đó gây ra. Lỗi của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ được thể hiện dưới hình thức vô ý. Dấu hiệu thứ năm của tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là tính phải chịu hình phạt của tội phạm. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền, lợi ích của người phạm tội. Mục đích của hình phạt là trừng trị người phạm tội; giáo dục họ trở thành người công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa; ngăn ngừa họ phạm tội mới và giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Qua phân tích các dấu hiệu của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, có thể đưa ra khái niệm tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ như sau: tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định tại các điều 202, 203, 204 và 205 Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách vô ý xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác. 1.1.2. Các yếu tố cấu thành tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ 1.1.2.1. Khách thể của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ Khách thể của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là sự an toàn của hoạt động giao thông đường bộ và an toàn về tính mạng, sức khỏe của công dân, tài sản của Nhà nước, tập thể và công dân. 1.1.2.2. Mặt khách quan của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ: Về mặt khách quan, thì các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là những tội phạm có cấu thành vật chất. Do vậy, mặt khách quan của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ bao gồm các yếu tố: hành vi khách quan, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. 1.1.2.3. Mặt chủ quan của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ Mặt chủ quan của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ chỉ bao gồm một yếu tố lỗi mà không bao gồm yếu tố động cơ, mục đích. Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình thực hiện và đối với hậu quả do hành vi phạm tội gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. 1.1.2.4. Chủ thể của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ Chủ thể của các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ sau đây là người đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự đối với các tội: tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ và tội cản trở giao thông đường bộ. Chủ thể của tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không đảm bảo an toàn và tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ ngoài đạt độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự thì chủ thể của hai tội này phải là người có trách nhiệm quyền hạn trực tiếp trong việc sử dụng phương tiện và điều động lái xe. 1.2. Quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường Bộ 1.2.1. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ 1.2.1.1. Khái niệm Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác. 1.2.1.2. Dấu hiệu pháp lý Khách thể của tội phạm là sự an toàn của hoạt động giao thông đường bộ và sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Mặt khách quan của tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ bao gồm các yếu tố: hành vi khách quan; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Về mặt chủ quan, tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được thực hiện do lỗi vô ý do tự tin hoặc do cẩu thả. Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ quy định tại tất cả các khoản 1, 2, 3, và 4 Điều 202 Bộ luật hình sự là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. 1.2.1.3. Hình phạt Điều 202 Bộ luật hình sự quy định bốn khung hình phạt đối với người phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. 1.2.2. Tội cản trở giao thông đường bộ 1.2.2.1. Khái niệm Tội cản trở giao thông đường bộ là một trong những hành vi sau đây gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác: đào, khoan, xẻ trái phép các công trình giao thông đường bộ; đặt trái phép chướng ngại vật gây cản trở giao thông đường bộ; tháo dỡ, di chuyển trái phép, làm sai lệch, che khuất hoặc phá hủy biển báo hiệu, các thiết bị an toàn giao thông đường bộ; mở đường giao cắt trái phép qua đường bộ, đường có giải phân cách; lấn chiếm, chiếm dụng vỉa hè, lòng đường; lấn chiếm hành lang bảo vệ đường bộ; vi phạm quy định về bảo đảm an toàn giao thông khi thi công trên đường bộ; và hành vi khác gây cản trở giao thông đường bộ. 1.2.2.2. Dấu hiệu pháp lý Khách thể của tội phạm là sự an toàn của hoạt động giao thông đường bộ và sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác (xem phần trình bày về khách thể của tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ). Mặt khách quan của tội cản trở giao thông đường bộ bao gồm các yếu tố: hành vi khách quan; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Về mặt chủ quan, tội cản trở giao thông đường bộ được thực hiện do lỗi vô ý do tự tin hoặc do cẩu thả. Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội cản trở giao thông đường bộ quy định tại tất cả các khoản 1, 2, 3, và 4 Điều 203 Bộ luật hình sự là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. 1.2.2.3. Hình phạt Điều 203 Bộ luật hình sự quy định bốn khung hình phạt đối với người phạm tội cản trở giao thông đường bộ. 1.2.3. Tội "đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn" 1.2.3.1. Khái niệm Tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn là hành vi của người có trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật mà cho phép đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường bộ rõ ràng không đảm bảo an toàn kỹ thuật gây thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác. 1.2.3.2. Dấu hiệu pháp lý Khách thể của tội phạm là sự an toàn của hoạt động giao thông đường bộ và sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Phương tiện giao thông đường bộ gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ (xem phần phân tích về khách thể của tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ) Mặt khách quan của tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn gồm các yếu tố: hành vi khách quan; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Về mặt chủ quan, tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn được thực hiện do lỗi vô ý do tự tin hoặc do cẩu thả. Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn quy định tại tất cả các khoản 1 và 2 Điều 204 Bộ luật hình sự là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và là người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật phương tiện giao thông đường bộ. 1.2.3.3. Hình phạt Điều 204 Bộ luật hình sự quy định hai khung hình phạt đối với người phạm tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn. 1.2.4. Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ 1.2.4.1. Khái niệm Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ là hành vi điều động hoặc giao cho người không có giấy phép hoặc bằng lái xe hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác. 1.2.4.2. Dấu hiệu pháp lý Khách thể của tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các ph- ương tiện giao thông đường bộ là sự an toàn của hoạt động giao thông đường bộ và sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác (xem phần phân tích về khách thể của tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ). Mặt khách quan của tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ gồm các yếu tố: hành vi khách quan; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Về mặt chủ quan, tội phạm này được thực hiện do lỗi vô ý do tự tin hoặc do cẩu thả. Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ quy định tại tất cả các khoản 1, 2 và 3 Điều 205 Bộ luật hình sự là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và là người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc giao nhiệm vụ cho người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. 1.2.4.3. Hình phạt Điều 205 Bộ luật hình sự quy định ba khung hình phạt đối với người phạm tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ. Tiểu kết chương 1 Qua nghiên cứu chương 1, có thể rút ra một số kết luận sau: 1. Các tội xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ là tội phạm có tính lịch sử, ra đời muộn hơn so với các loại tội phạm khác. 2. Bộ luật hình sự năm 1985, tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông vận tải đã được quy định tại Điều 186 - Chương VIII - Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và quản lý hành chính đã phát huy tác dụng to lớn trong việc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung, cho đến Bộ luật hình sự năm 1999 cũng như Bộ luật hình sự hiện hành các tội vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải đã được tách ra thành 4 tội độc lập và được quy định trong 4 điều luật khác nhau trong Bộ luật hình sự. 3. Bộ luật hình sự hiện hành đã quy định rõ hơn các dấu hiệu định tội cũng như dấu hiệu định khung tăng nặng hình phạt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại Điều 202. Chương 2 THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ VÀ VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM NÀY 2.1. Tình hình vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ và thực tiễn xét xử các tội này những năm gần đây 2.1.1. Tình hình vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ những năm gần đây Theo báo cáo của các cơ quan chức năng, trong những năm gần đây, tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở nước ta diễn biến hết sức phức tạp. Theo số liệu thống kê của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia trong năm 2006 tính đến 18h30 phút ngày 29/12/2006, cả nước đã xảy ra 14.533 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm 12.609 người chết và bị thương 11.253 người.. Trong năm 2007, tình hình trật tự an toàn giao thông đường bộ diễn biến phức tạp, số người chết vì tai nạn giao thông đường bộ vẫn tăng chóng mặt bất chấp sự vào cuộc ráo riết của các ban ngành chức năng. Cụ thể, riêng trong tháng 2/2007 (tháng Tết Đinh Hợi), cả nước đã xảy ra 1.500 vụ tai nạn giao thông, làm chết hơn 1.381 người và bị thương 1.301 người. Đây cũng là tháng có số người chết vì tai nạn giao thông nhiều nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Đây là một thực trạng đáng báo động đang làm đau đầu các cơ quan chức năng, các nhà quản lý ở nước ta hiện nay. Thực trạng này do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan cơ bản sau đây: Một là, thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng về đường bộ hiện nay ở nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển giao thông gia tăng hàng ngày, hàng tháng trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và mở rộng hội nhập quốc tế; Hai là, khả năng kiểm tra, giám sát kỹ thuật: bằng lái, phương tiện vận chuyển không an toàn về kỹ thuật ngày một nhiều, vượt quá khả năng của các đơn vị chức năng. Ba là, pháp luật hiện hành không còn phù hợp, nhiều bất cập và không đủ mức giáo dục, răn đe đối với các hành vi vi phạm luật giao thông đường bộ vì mức phạt theo quy định hiện hành quá nhẹ dẫn đến chuyện "nhờn luật" của người đi đường. Bốn là, từng bộ, ngành của Đảng và Nhà nước chưa quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và ý thức trách nhiệm của mình về an toàn giao thông (trừ hai ngành Giao thông vận tải và Công an). Nói chung, toàn bộ hệ thống chính trị chưa thể hiện trách nhiệm đúng trước sự bức xúc về sinh mạng con người (hầu hết coi trách nhiệm đó thuộc cơ quan chức năng khác không liên quan đến mình) nên chưa được chính quyền, các tổ chức chính trị, xã hội quan tâm đúng mức. Năm là, ý thức tự giác chấp hành và tôn trọng luật pháp của các tầng lớp nhân dân trong toàn xã hội còn thấp. Bảng 2.1. Số liệu thống kê về các vụ án mà cấp sơ thảm thụ lý giải quyết, trong đó có các vụ án xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ mà các Tòa án đã xét xử sơ thẩm từ năm 2005 - 2009 trên toàn quốc Nă m Tổng số vụ án hình sự và bị cáo cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết Số vụ/bị cáo bị xét xử sơ thẩm về các tội xâm phạm trật tự giao thông đường bộ Tổng số vụ/ bị cáo Điều 202 Bộ luật hình sự Điều 203 Bộ luật hình sự Điều 204 Bộ luật hình sự Điều 205 Bộ luật hình sự 200 5 55.237/91 .224 4.810/5. 044 4.784/5. 014 06/07 05/05 15/18 200 6 53.561/88 .041 4.960/5. 189 4.923/5. 149 15/16 01/01 21/23 200 7 53.177/91 .542 5.538/5. 817 5.486/5. 755 16/20 05/10 31/32 200 8 63.040/10 9.338 5.342/5. 585 5.260/5. 495 51/54 08/08 23/28 200 9 65.462/11 4.344 4.958/5. 184 4.929/5. 149 09/10 04/05 16/20 Cộn g 290.477/4 94.489 25.608/2 6.819 25.382/2 6.562 97/107 23/29 106/121 Nguồn: Số liệu thông kê, Tòa án nhân dân tối cao. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao trong những năm từ 2005 đến 2009 (Bảng 2.1), tình hình tội phạm nói chung và các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ có xu hướng gia tăng cả về số vụ và số bị cáo mà đỉnh điểm là năm 2007, sau đó các năm tiếp theo tuy có chiều hướng giảm dần về số vụ nhưng số bị cáo vẫn tăng. Bảng 2.2: Tỷ lệ % số vụ án, bị cáo phạm tội nói chung với số vụ án, bị cáo phạm các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ nói riêng trong 5 năm từ 2005 đến 2009 Năm Số vụ án/ bị cáo phạm tội nói chung (1) Số vụ án phạm tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ (2) Số bị cáo phạm tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ (3) Tỉ lệ % (2/1) Tỉ lệ % (3/1) 2005 55.237/91.224 4.810 5.044 8,70% 5,52% 2006 53.561/88.041 4.960 5.189 9,26% 5,89% 2007 53.177/91.541 5.538 5.817 10,42% 6,35% 2008 63.040/109.338 5.342 5.585 8,47% 5,10% 2009 65.462/114.344 4.958 5.184 7,57% 4,53% Tổng 290.477/494.488 25.608 26.819 8,81% 5,42% Nguồn: Số liệu thông kê, Tòa án nhân dân tối cao. Tỷ lệ giữa các vụ án về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ (Điều 202, 203, 204 và Điều 205) chiếm tỷ lệ khoảng 8,81% về số vụ án và khoảng 5,42% về số bị cáo trong tổng số các vụ án hình sự và số bị cáo mà Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử sơ thẩm từ năm 2005 đến 2009, trong đó tuyệt đại đa số là tội "vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự (chiếm khoảng 65% về số vụ án và 71,2% về số bị cáo trong tổng số vụ án về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ mà Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử sơ thẩm). Các hành vi khác xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ như: Cản trở giao thông đường bộ; đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn; điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường bộ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điều 203, 204 và 205 Bộ luật hình sự chiếm tỷ lệ không đáng kể tổng cả ba tội (khoảng 35% số vụ và 28,8% về số bị cáo). 2.1.2. Tình hình xét xử các tội vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ những năm gần đây từ 2005 - 2009 Bảng 2.3. Số liệu thống kê về kết quả xét xử sơ thẩm đối với các bị cáo phạm các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ những năm 2005 - 2009 Nă m Tổn g số bị cáo bị xét xử Kết quả xét xử đối với các bị cáo về các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ Đưa vào trườn g giáo dưỡn g hoặc giáo dục tại xã, phườ ng, thị trấn Trụ c xuấ t Tu yên khô ng phạ m tội Miễ n TN HS, hìn h phạ t Cả nh cáo Phạ t tiền Cải tạo khô ng gia m giữ Hìn h phạ t tù cho hư ởng án tre o Tù có thời hạn từ 3 thán g đến dưới 07 năm Tù có thời hạn từ 07 đến 15 năm 20 05 5.04 4 0 0 01 02 05 28 87 2.1 24 2.742 55 20 06 5.18 9 0 0 01 01 0 37 25 2.2 08 2.878 39 20 07 5.81 7 05 03 02 04 05 35 132 2.5 52 3.008 71 20 08 5.58 5 01 0 06 01 0 41 33 2.5 58 2.912 33 20 5.18 0 06 03 0 01 43 49 2.4 2.651 22 09 4 09 Cộ ng 26.8 19 06 09 13 08 11 184 326 11. 851 14.19 1 220 Nguồn: Số liệu thống kê, Tòa án nhân dân tối cao. Về đường lối xử lý đối với các bị cáo bị xét xử về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ những năm 2005 - 2009 cho thấy các loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể mà các Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với các bị cáo: Đưa vào trường giáo dưỡng hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với 06 bị cáo (chiếm 0,17%); Trục xuất đối với 09 bị cáo (chiếm 0,26%); Tuyên không phạm tội đối với 13 bị cáo (chiếm 0,38%); Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt: 08 bị cáo (chiếm 0,23%); Cảnh cáo: 11 bị cáo (chiếm 0,32%); Phạt tiền: 184 bị cáo (chiếm 5,38%); Cải tạo không giam giữ: 326 bị cáo (chiếm 9,42%); Phạt tù cho hưởng án treo: 11.851 bị cáo (chiếm 35,23%); Phạt tù có thời hạn từ 03 tháng - 07 năm: 14.191 bị cáo (chiếm 42,21%); Phạt tù có thời hạn từ 07 năm - 15 năm: 220 bị cáo (chiếm 6,4%); 2.1.3. Một số bất cập, vướng mắc trong thực tiễn xét xử các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về các tội phạm này những năm gần đây vẫn còn một số bất cập, vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án. Cụ thể là: 2.1.3.1. Xác định nguyên nhân và lỗi trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ. 2.1.3.2. Vấn đề xử lý đối với các trường hợp xe máy chuyên dùng gây tai nạn hoặc phương tiện tham gia giao thông gây tai nạn ở những nơi không thuộc mạng lưới giao thông đường bộ. 2.1.2.3. Vấn đề xác định thiệt hại (hậu quả) để truy cứu trách nhiệm hình sự trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ. 2.1.3.4. Về tình tiết phạm tội trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng. 2.1.3.5. Việc xử lý đối với các hành vi giao cho người không có giấy phép hoặc bằng lái xe điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ 2.1.2.6. Về đường lối xử lý đối với bị cáo trong các vụ án giao thông đường bộ. 2.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ Việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành có liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ một mặt phải được tiến hành đồng bộ, toàn diện đồng thời với việc hoàn thiện toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung theo tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW "Về hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020" ngày 02/6/2003 của Bộ Chính trị. Đối với các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, chúng tôi xin đề xuất sửa đổi bổ sung một số nội dung cụ thể như sau: 2.2.1. Về Điều 202 Bộ luật hình sự 2.2.2. Về khoản 2 Điều 37 nay là điểm d khoản 1 Điều 39 của Luật Giao thông đường bộ 2.2.3. Về Điều 205 Bộ luật hình sự 2.2.4. Về Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự 2.2.5. Về các quy định pháp luật khác có liên quan đến việc xử lý các vụ án giao thông đường bộ. Ngoài việc hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ như đã nêu trên, chúng tôi cho rằng cũng cần tiến hành đồng thời việc sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật khác có liên quan đến việc xử lý các vụ án giao thông đường bộ. Tiểu kết chương 2 Qua nghiên cứu chương 2, tôi rút ra một số kết luận sau: 1. Tình hình vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ là một vấn đề phức tạp, nhức nhối trong phạm vi cả nước. Vì vậy, đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông thông đường bộ có hiệu quả là điều kiện quan trọng đảm bảo an toàn giao thông thông suốt, góp phần ổn định và phát triển đời sống kinh tế - xã hội, phục vụ thắng lợi sự nghiệp đổi mới của đất nước trong thời kỳ hội nhập. 2. Nguyên nhân và điều kiện chủ yếu của tình hình trên là do người dân chưa nhận thức đúng và đầy đủ trách nhiệm tuân thủ triệt để pháp luật về giao thông đường bộ. Bên cạnh đó, kết cấu hạ tầng giao thông còn thiếu đồng bộ, chắp vá; công tác quản lý phương tiện giao thông đường bộ, người điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ còn nhiều sơ hở, thiếu sót. Đáng chú ý là các cơ quan bảo vệ pháp luật còn thiếu kiên quyết, chưa nghiêm khắc trong đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm trật tự về an toàn giao thông đường bộ. KẾT LUẬN Từ những vấn đề đã được nghiên cứu và xây dựng nội dung luận văn thạc sĩ Luật học "Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam" cho phép đưa ra một số kết luận chung dưới đây: 1. Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách với lỗi vô ý, xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại cho tính mạng, hoặc gây thiệt hại nghiệm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác. Trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ chưa được quy định là các tội phạm độc lập. Đường lối xử lý đối với các hành vi phạm tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn được thực hiện theo Bản sơ kết của Tòa án nhân dân tối cao năm 1968. Năm 1976, Nhà nước mới ban hành một Sắc luật số 03- SL/76 ngày 15/3/1976, quy định tội phạm và hình phạt đối với hành vi vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn nghiêm trọng. 2. Trong Bộ luật hình sự hiện hành, các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định tại các điều 202, 203, 204 và 205, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách với lỗi vô ý xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác. Cũng như các tội phạm khác, các tội xâm phạm tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf00050000488_4894_2009996.pdf
Tài liệu liên quan