Xuất phát từ quan điểm tiến hóa cho rằng xã hội luôn phát triển theo những quy luật nhất định, Spencer chủ trương rằng XHH có nhiệm vụ là phát hiện ra những quy luật đó của các cơ cấu xã hội trong quá trình tiến hóa và nghiên cứu mối liên hệ giữa các bộ phận trong xã hội. Theo ông XHH không nên đi quá sâu vào việc phân tích những đặc thù lịch sử của xã hội nhưng nên tập trung tìm kiếm những thuộc tính, những nguyên lý có tính phổ quát và các mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng xã hội.
Phương pháp của Spencer là phương pháp khoa học thực nghiệm, đặc biệt chịu ảnh hưởng thuyết duy nghiệm của August Comte. Phương pháp của ông có tính tổng hợp. Theo ông, nghiên cứu XHH phải sử dụng nhiều số liệu, phải thu thập số liệu vào nhiều thời điểm và ở nhiều địa điểm khác nhau.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6551 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các vấn đề về xã hội học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năng lực của mình. Ông chỉ rõ: trong nền sản xuất công nghiệp, người công nhân trở thành một vật phụ thuộc đơn giản của máy móc. Cách phân tích này của ông có ý nghĩa rất lớn đối với xã hội học hiện đại, nhất là đối với xã hội học lao động, xã hội học công nghiệp và xã hội học kinh tế.
Ba là, nhân tố quyết định lịch sử xã hội loài người là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Do đó trình độ phát triển của xã hội do trình độ phát triển của lao động và do trình độ phát triển của gia đình quyết định.
Phân tầng xã hội:
Lý luận của Marx vạch rõ tính giai cấp của xã hội và tính bất bình đẳng trong quan hệ xã hội. Chính chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã sinh ra cấu trúc phân tầng xã hội, có hai tầng bậc chủ yếu là: giai cấp sở hữu tư liệu sản xuất chiếm vị trí thống trị, bóc lột người khác và giai cấp không nắm trong tay tư liệu sản xuất.
Trong cấu trúc xã hội, quan hệ giữa hai giai cấp này mang tính chất bất bình đẳng sâu sắc về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Nói ngắn gọn đó là mối quan hệ giữa kẻ áp bức và những người bị áp bức. Trong xã hội TBCN, giai cấp tư sản là những ông chủ nắm trong tay tư liệu sản xuất và sử dụng lao động làm thuê, giai cấp vô sản là những người công nhân làm thuê, vì không có tư liệu sản xuất nên phải bán sừc lao động để kiếm sống.
Qua cách phân tích này của Marx có thể rút ra hai ý tưởng vô cùng quan trọng. Một là, về mặt lý luận và thực tiễn của CNCs cần phải xóa bỏ và thay thế chế độ sở hữu tư nhân bằng chế độ sở hữu xã hội (toàn dân và tập thể). Hai là, khi nghiên cứu lý luận và thực nghiệm XHH cần phải tập trung phân tích cấu trúc xã hội để chỉ ra ai là người có lợi, ai là người bị thiệt từ cách tổ chức xã hội và cơ cấu xã hội hiện có. Hay nói một cách khác, những chủ đề nghiên cứu cơ bản của xã hội học hiện đại là cấu trúc xã hội, phân tầng xã hội, bất bình đẳng xã hội.
Lý thuyết hình thái kinh tế – xã hội:
CNDVLS cho rằng sự phát triển trên toàn thế giới là sự tha thế kế tiếp các hình thái kinh tế – xã hội mà thực chất là các phương pháp sản xuất.
Hình thái KT – XH là một phạm trù của CNDVLS được sử dụng để chỉ XH ở từng giai đoạn nhất định với quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, với kiến trúc thượng tầng gồn tư tưởng, chính trị, pháp quyền, tôn giáo, và các yếu tố khác dựng trên cơ sở hạ tầng giồm các quan hệ sản xuất tạo thành cơ cấu kinh tế xã hội.
Tư liệu sản xuất bao gồm tất cả những gì của thế giới bên ngoài được đưa vào sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất nhằm duy trì cuộc sống của con người. Tuy nhiên trong lịch sử xã hội chỉ có một nhóm người hay một giai cấp nắm giữ trong tay TLSX. Chính chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ sở phân chia giai cấp, điều này quy định tính chất của quan hệ sản xuất (quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất). Quan hệ sản xuất có thể trở thành mối quan hệ cơ bản trong xã hội được hợp pháp hóa và thiết chế hóa thông qua hệ thống chính trị, luật pháp, tư tưởng, văn hóa.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nó quy định và chi phối hệ thống các quan hệ xã hội. Trong xã hội có giai cấp, quan hệ sản xuất luôn luôn là quan hệ bất bình đẳng, luôn có mâu thuẫn, đối kháng. Các quan hệ đó là nguồn nguồn gốc và là động lực thúc đẩy sự biến đổi xã hội.
Kết luận:
Khác với August Comte và Herbert Spencer, Karl Marx tập trung nghiên cứu vai trò của mâu thuẫn trong biến chuyển xã hội. Ông cho rằng các hình thái kinh tế – xã hội mới được hình thành từ mâu thuẫn và xung đột trong các hình thái kinh tế – xã hội cũ. Marx đã phê bình gắt gao chủ nghĩa tư bản và tiên đoán nó sẽ bị thay thế bởi CNXH. Không có một nhà XHH tiền phong nào có ảnh hưởng sâu rộng đối với bộ môn khoa học mới này như là Marx. Ông chưa bao giờ tự nhận mình là một nhà XHH , ông tự nhận là đã có bàn đến những vấn đề XHH nhưng những công trình của ông còn bao trùm lên những lĩnh vực khác như triết học, kinh tế học, lý thuyết chính trị, ... Lý thuyết của ông về biến chuyển xã hội có tính chất khoa học vì nó dựa trên những xung đột giữa những giai cấp lớn trong xã hội. Ông cho rằng chính quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã đem lại bất bình đẳng về kinh tế và chính trị./.
3. Herbert Spencer (1820 – 1903):
Vài nét về tiểu sử:
Herbert Spencer là 1 nhà triết học, nhà Xã hội học người Anh. Ông là người theo chủ nghĩa tiến hóa, là người tìm cách vận dụng những quy luật tiến hóa sinh học vào lĩnh vực lịch sử và xã hội. Với ông, xã hội xuất hiện như một cơ thể sinh học, tiến hóa từ hình thức đơn giản sang hình thức phức tạp thông qua sự khác biệt hóa và chuyên môn hóa các chức năng, các bộ phận khác trong xã hội. Lý thuyết của Spencer có ảnh hưởng rất lớn đối với lịch sử XHH Anh và trường phái XHH cơ cấu chức năng.
Ông sinh năm 1820 tại Derby, Anh. Cha là giáo viên và gia đình ông theo đạo Tin Lành. Từ nhỏ đến năm 13 tuổi ông tự học ở nhà với cha và người cậu ruột làm mục sư đạo Tin Lành. Ông có những kiến thức về toán học, khoa học tự nhiên và rất quan tâm nghiên cứu khoa học xã hội.
Từ năm 17 tuổi ông đã làm việc như một kỹ sư cho ngành đường sắt nhưng từ năm 20 tuổi ông quay qua làm báo và viết về chính trị. Thời gian đầu ông ủng hộ những quan điểm tiến bộ như quốc hữu hóa đất đai, chủ nghĩa tự do trong nền kinh tế, vị trí và vai trò của phụ nữ trong xã hội, ... nhưng sau này ông đã từ bỏ những quan điểm trên.
Năm 1851, ông viết cuốn “Tĩnh học xã hội”, thuật ngữ này ông chịu ảnh hưởng của August Comte. Trong cuốn sách này ông nghiên cứu trật tự xã hội.
Năm 1853, người cậu làm mục sư của ông qua đời để lại cho ông một gia tài đủ để ông viết lách mà không phải tìm một công việc kiếm tiền.
Tình hình chính trị xã hội ở Anh thế kỷ 19 có nhiều biến động gay gắt. Anh là nước đầu tiên công nghiệp hóa, xã hội nước Anh đã kế thừa tất cả những yếu tố tích cực của thời kỳ đầu phát triển công nghiệp và CNTB. Bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội cùng với môi trường khoa học phát triển, nhất là môn kinh tế chính trị và sinh vật học đã có ảnh hưởng nhất định tới lý thuyết XHH của Spencer.
Spencer tin tưởng vào vai trò quan trọng của “bàn tay vô hình” tức là cơ chế thị trường và tự do cạnh tranh trong việc duy trì trật tự xã hội, trong đó các cá nhân luôn tìm cách theo đuổi lợi ích riêng của họ. Ông nhìn thấy một số khía cạnh tích cực của CNTB như tính hiệu quả, môi trường tự do cạnh tranh và tự do buôn bán đối với việc cải thiện đời sống con người.
Kế thừa học thuyết tiến hóa của Darwin, ông đã đưa ra khái niệm về sự tiến hóa xã hội. Ông giải thích: chỉ cá nhân nào, hệ thống xã hội nào có khả năng thích nghi với môi trường xung quanh mới có thể tồn tại được trong cuộc đấu tranh sinh tồn.
Bị ảnh hưởng bởi khoa học tự nhiên như vật lý học và chủ nghĩa thực chứng, ông chủ trương rằng XHH phải hướng tới tìm ra các quy luật và nguyên lý chung, cơ bản để giải thích quá trình, hiện tượng xã hội.
Các quan điểm Xã hội học của Herbert Spencer:
Lý thuyết sinh học xã hội:
Spencer cho rằng có một sự phân hóa dần dần trong sự vật, bắt đầu với những bộ phận sinh học, tiến dần đến trạng thái độc lập và cá thể hóa. Vì tính chất của con người thay đổi và hoàn thiện dần nên những quan điểm về đạo đức, chính trị dực trên một giả định về một bản chất ổn định của con người cần phải được bác bỏ. Bản chất con người đơn giản chỉ là tập hợp những bản năng, những tình cảm đã thích ứng qua thời gian với thực tại xã hội. Ông cũng công nhận tầm quan trọng của việc hiểu cá nhân thông qua cái tổng thể trong đó cá nhân là những bộ phận lệ thuộc lẫn nhau nhưng không lệ thuộc vào tổng thể. Cá nhân có bản thể và giá trị riêng mà tổng thể phải lệ thuộc.
Theo Spencer, cuộc sống của con người không chỉ là một sự liên tục mà còn là đỉnh cao của quá trình tiến hóa lâu dài nhưng ông lại cho rằng có một sự phát triển song song của tinh thần và thể xác chứ không giản lược tinh thần vào thể xác. Quan niệm này của ông về tinh thần, về hoạt động của hệ thống thần kinh TW và não bộ là một quan niệm máy móc.
Lý thuyết tiến hóa xã hội:
Dựa trên lý luận về sự tiến hóa sinh vật, Spencer tin rằng xã hội loài người cũng tiến hóa từ hình thức đơn giản lên hình thức phức tạp nhằm đáp ứng những nhu cầu sống tự nhiên của xã hội: khi dân số trong các xã hội còn ít thì việc tổ chức lao động, việc quản lý hành chính cũng như các dịch vụ phục vụ đời sống xã hội đang ở tình trạng đơn giản. Nhưng khi dân số tăng lên, xã hội trở nên đông đúc thì mọi sự trở nên phức tạp hơn. Các dịch vụ, các thiết chế trong xã hội sẽ được chuyên môn hóa. Trong lĩnh vực lao động, quá trình tiến hóa cũng đi từ hình thức lao động giản đơn như từ việc săn bắt hái lượm lên các hình thức lao động phức tạp hơn như công việc canh tác, lao động thủ công, lao động công nghiệp hiện đại. Rõ ràng phân chia lao động theo hướng chuyên môn hóa là điều không thể tránh khỏi nhằm thích nghi với tính chât và sự đòi hỏi của hình thức lao động công nghiệp hiện đại.
Các thiết chế xã hội như tôn giáo, nhà nước, gia đình cũng theo một quy luật tiến hóa từ đơn giản đến phức tạp, từ đồng nhất đến đơn nhất trong quá trình phát triển của chúng. Tuy các bộ phận này ngày càng phân rẽ ra thành nhiều nhánh khác nhau nhưng chúng vẫn luôn cố kết và phụ thuộc lẫn nhau để đảm bảo cho sự tồn tại của tổng thể. Chính Spencer đã đặt nền móng cho trường phái XHH cơ cấu chức năng khi ông lý luận rằng xã hội vận hành và phát triển tốt khi mỗi bộ phận trong xã hội đảm bảo tốt chức năng của mình, thỏa mãn tốt nhu cầu của cuộc sống. Lý thuyết của Spencer sau này được E.Durkheim sử dũng khi Durkheim tìm cách miêu tả sự cố kết, tính liên đới của các bộ phận khác trong bộ máy xã hội.
Spencer miêu tả xã hội là một hệ thống trong đó bao gồm nhiều tiểu hệ thống khác. Chúng vừa vận hành một cách độc lập (vì mỗi bộ phận đều có cấu tạo, mục đích và chức năng khác nhau), vừa phụ thuộc lẫn nhau một cách khăng khít vì khi một bộ phận nào đó bị trục trặc sẽ ảnh hưởng và tác động rất lớn đến hoạt động của cả hệ thống.
Tuy nhiên phải chú ý rằng Spencer khẳng định quy luật tiến hóa xã hội chỉ tương tự như quy luật tiến hóa sinh học. Spencer khẳng định: trong sự tiến hóa của hai lĩnh vực này khác nhau ở cơ quan bộ phận trong cấu trúc của cơ thể con người, xã hội được cấu thành từ những bộ phận khác nhau mà hạt nhân là những cá thể có ý thức, có khả năng phán đoán, khả năng sáng tạo, có thể làm chuyển đổi môi trường mà họ đang sống. Điểm giống nhau của hai quá trình tiến hóa sinh học và tiến hóa xã hội là cả hai đều có khả năng sinh tồn và phát triển theo quy luật tiến hóa. Hay nói các khác xã hội liên túc trải qua các giai đoạn sinh trưởng, tiến trưởng, suy thoái kế tiếp nhau trong suốt quá trình thích nghi với môi trường xung quanh.
Những khái niệm, các nguyên lý XHH của Spencer có ý nghĩa rất quan trọng đối với khoa học XHH hiện đại. Những phân tích về tác nhân của xã hội và các nguyên lý tiến hóa xã hội, nguyên lý về chức năng và cấu trúc xã hội đóng vai trò là nền tảng hình thành nên xu hướng chức năng luận trong XHH.
Hai hình thái xã hội: xã hội quân sự và xã hội công nghiệp:
Spencer đã phân ra các hình thức xã hội khác nhau trong quá trình tiến hóa của xã hội laòi người. Ông cho rằng xã hội nào cũng phải trải qua hai “loại” gần như đối nghịch nhau, đó là hình thái xã hội quan sự và xã hội công nghiệp trong đó xã hội công nghiệp là biểu hiện của một xã hội đã phát triển đến tình trạng phức tạp trong lộ trình tiến hóa của xã hội.
Xã hội quân sự:
Tư tưởng, niềm tin, các chuẩn mực giá trị của các cá thể đang ở trong tình trạng đồng nhất, đóng khung trong một hệ ý thức nào đó có tính cách bắt buộc.
Các quan hệ xã hội, lao động bị ép buộc, nhà cầm quyền sử dụng sức mạnh vũ lực để ép buộc các cá nhân theo khuôn khổ của họ. Quan hệ xã hội là quan hệ cai trị chức không phải là hiệp thương.
Trong xã hội quân sự, quân đội là phương tiện của các quốc gia hùng mạnh chinh phục các nước yếu để làm giàu cho quốc gia mình. Xã hội quân sự diễn tả trạng thái thô sơ của xã hội.
Xã hội công nghiệp:
Trong nền văn minh công nghiệp, tự do tư tưởng, tự do cá nhân, tự do buôn bán đã được Spencer đề cao.
Trong xã hội công nghiệp, các cá thể có quyền tự do lựa chọn và quyết định, các cá thể cũng như các bộ phận trong xã hội hiệp thương với nhau một cách tự nguyện.
Các nược sẽ làm giàu thông qua lao động sản xuất. Trong thời đại công nghiệp, trí tuệ, chất xám sẽ là vốn quý có sức mạnh chinh phục, nước nào có vốn liếng chất xám nhiều, có nhiều phát minh sẽ là nước phát triển. Xã hội công nghiệp được Spencer đồng hóa với trạng thái phát triển “phức tạp” trong quá trình tiến hóa.
Các thiết chế xã hội:
Theo quan niệm của Spencer: thiết chế xã hội là kiểu tổ chức xã hội xuất hiện và hoạt động nhằm đảm bảo đáp ứng các yêu cầu, chức năng cơ bản của hệ thống xã hội đồng thời kiểm soát các hoạt động của cá nhân và các nhóm trong xã hội. Trong số các thiết chế xã hội ông đặc biệt chú ý đến thiết chế gia đình và dòng họ, thiết chế nghi lễ, thiết chế chính trị và thiết chế kinh tế. Đây là những thiết chế cơ bản nhất của xã hội.
Thiết chế gia đình và dòng họ:
Thiết chế này không những phải đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội mà còn phải thỏa mãn nhu cầu kiểm soát hoạt động duy trì nòi giống, quan hệ giữa phụ nữ và nam giới, nhu cầu di truyền, nuôi dạy con cái và chăm sóc các thành viên trong gia đình
Thiết chế nghi lễ:
Thiết chế này cần thiết để đáp ứng nhu cầu liên kết vá kiểm soát các quan hệ xã hội của con người thông qua các thủ tục, biểu tượng, ký hiệu, nghi thức, ... Nghi lễ có chức năng to lớn trong việc tạo ra sự gắn kết và phối hợp giữa các hoạt động của các bộ phận cấu thành xã hội. Ông chỉ ra mối tương quan giữa quyền lực và nghi lễ, mức độ tập trung quyền lực trong xã hội càng cao thì mức độ bất bình đẳng về nghi lễ càng lớn.
Thiết chế chính trị:
Thiết chế này xuất hiện chủ yếu để giải quyết các xung đột bên trong và bên ngoài xã hội. Sự tập trung quyền lực càng lớn thì càng bộc lộ rõ sự phân chia giai cấp trong xã hội, do đó lại càng đặt ra yêu cầu cao đối với việc củng cố và tăng cường cơ quan quyền lực.
Thiết chế tôn giáo:
Thiết chế này có yếu tố cơ bản là tạo dựng niềm tin vào các lực lượng siêu tự nhiên, siêu nhân. Biểu hiện của thiết chế này là việc tập hợp các cá nhân cùng chia sẻ niềm tin và cùng tham gia các hoạt động nghi lễ đặc thù của tôn giáo. Thiết chế tôn giáo có chức năng củng cố hệ thống chuẩn mực, giá trị, niềm tin, tinh thần để duy trì ổn định trật tự xã hội.
Thiết chế kinh tế:
Thiết chế này có shức năng cơ bản là thỏa mãn nhu cầu của con người về các sản phẩm và các dịch vụ trong điều kiện môi trường luôn khan hiếm các nguồn lực và luôn biến đổi. Sự tiến hóa của các thiết chế kinh tế thể hiện ở việc nâng cao trình độ công nghệ và tri thức, ở việc mở rộng sản xuất và phân phối hàng hóa, dịch vụ, ở mức độ tích lũy tư bản và tư liệu sản xuất và những thay đổi trong cách thức tổ chức lao động.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Xuất phát từ quan điểm tiến hóa cho rằng xã hội luôn phát triển theo những quy luật nhất định, Spencer chủ trương rằng XHH có nhiệm vụ là phát hiện ra những quy luật đó của các cơ cấu xã hội trong quá trình tiến hóa và nghiên cứu mối liên hệ giữa các bộ phận trong xã hội. Theo ông XHH không nên đi quá sâu vào việc phân tích những đặc thù lịch sử của xã hội nhưng nên tập trung tìm kiếm những thuộc tính, những nguyên lý có tính phổ quát và các mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng xã hội.
Phương pháp của Spencer là phương pháp khoa học thực nghiệm, đặc biệt chịu ảnh hưởng thuyết duy nghiệm của August Comte. Phương pháp của ông có tính tổng hợp. Theo ông, nghiên cứu XHH phải sử dụng nhiều số liệu, phải thu thập số liệu vào nhiều thời điểm và ở nhiều địa điểm khác nhau.
Kết luận:
Spencer đã giải thích xã hội bằng cách dựa trên mô hình những khuôn mẫu tự nhiên và sinh học. Theo ông những khái niệm trong sinh học có thể giúp nhà XHH làm nghiên cứu một cách hiệu quả. Cũng chính điều này mà ông đã bị phê bình khi đã suy diễn, quy đồng một cách máy móc từ lĩnh vực sinh học sang lĩnh vực xã hội. Spencer cũng thường bị phê bình là không nhất quán. Quan điểm của ông thay đổi đối với các vấn đề như: quốc hữu hóa đất đai, vấn đề quyền trẻ em, về việc phát triển chế độ phổ thông đầu phiếu ở phụ nữ, về vai trò của chính.
Tóm lại, mặc dù lý thuyết XHH của Spencer không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của chủ nghĩa duy lý trong khoa học nhưng các quan niệm tiến hóa xã hội của ông đã gợi ra nhiều ý tưởng quan trọng được tiếp tục phát triển trong các trường phái XHH hiện đại. Cách tiếp cận cấu trúc, hệ thống xã hội của Spencer đã được E.Durkheim, Talcott Parsons, Robert Merton và những người khác kế thừa, phát triển thành trường phái cấu trúc chức năng. Cách phân tích của Spencer về mối liên hệ giữa các đặc điểm dân số học như quy mô và mật độ dân số với các đặc điểm của thiết chế xã hội và tổ chức xã hội đã mở đầu cho trường phái sinh thái học người và trường phái Chicago phát triển mạnh trong thế kỷ XX./.
Emile Durkheim (1858 – 1917):
Vài nét về tiểu sử:
Emile Durkheim là một nhà xã hội học người Pháp. Ông là người đặt nền móng xây dựng chủ nghĩa chức năng và chủ nghĩa cấu trúc trong xã hội học hiện đại. Ông sinh năm 1858 ở Epinal, Pháp trong một gia đình Do Thái, ông mất năm 1917.
Năm 1893 ông hoàn thành cuốn sách: “Phân công lao động trong xã hội”. Ông bắt đầu giảng dạy tại trường đại học tổng hợp Bordeaux lúc 29 tuổi. Trong thời gian làm việc ở đây, ông đã hoàn thành những công trình đồ sộ. Đến năm 1903, ông chuyển sang giảng dạy tại trường đại học tổng hợp Sorbsne. Tại đây ông viết một trong những tác phẩm xHH độc đáo và quan trọng nhất của đời mình là “Những hình thức sơ đẳng của đời sống tôn giáo” xuất bản năm 1912.
Năm 1913, học hàm “Giáo sư khoa học giáo dục” cuả E.Durkheim chính thức được đổi thành “Giáo sư khoa học giáo dục và xã hội học” và ông trở thành nhà xã hội học chính thức đầu tiên tại Pháp. Sự kiện này cùng với việc E.Durkheim đưa vào giảng dạy môn XHH trong trường đại học đã mở đấu cho bước tiến quan trông của xã hội học với tư cách là một khoa học độc lập ở Pháp.
Xã hội Pháp thế kỷ XIX đã trải qua những biến đổi sâu sắc về mặt chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học và kỹ thuật. XHH của E.Durkheim đã ra đời trong bối cảnh xã hội có nhiều xáo trộn và biến đổi to lớn đã phần nào giải thích tại sao, theo sau August Comte, E.Durkheim luôn cho rằng XHH có nhiệm vụ hàng đầu là tìm ra các quy luật xã hội để từ đó tạo ra trật tự xã hội trong xã hội hiện đại. Điều này rất giống với quan niệm của August Comte về vị trí, vai trò của lý thuyết XHH trong đời sống con người.
Tư tưởng xã hội học của E.Durkheim:
Quan niệm về khoa học xã hội học:
Quan niệm về đối tượng nghiên cứu:
Theo E.Durkheim, xã hội tồn tại bên ngoài cá nhân và có trước cá nhân với nghĩa là cá nhân dược sinh ra trong xã hội và phải tuân thủ các chuẩn mực, phép tắc xã hội đã có sẵn trước khi cá nhân đó được sinh ra. Vì vậy XHH cần phải xem xét hệ thống xã hội, cấu trúc xã hội và các hiện tượng xã hội với tư cách là các sự vật, các bằng chứng, các sự kiện đang tác động tới đời sống của các cá nhân.
Thực chất XHH của E.Durkheim chủ yếu xoay xung quanh vấn đề mối quan hệ giữa con người và xã hội. Ông đã tìm cách trả lời câu hỏi: làm thế nào có thể bảo đảm tự do cá nhân mà không làm tăng tính ích kỷ của con người trong khi vẫn tạo ra được trật tự xã hội qua việc nghiên cứu các sự kiện xã hội như lao động, tự tử và nhiều sự kiện khác?
Để trả lời câu hỏi này lúc đầu ông vận dụng cách tiếp cận vĩ mô trong nghiên cứu xã hội với tư cách là một chỉnh thể hệ thống, ví dụ như là ông đã chỉ ra vai trò quan trọng của đoàn kết xã hội, của phân công lao động trong xã hội đối với việc duy trì trật tự xã hội nói riêng và hệ thống xã hội nói chung. Sau đó ông phân tích các quá trình vi mô làm nền tảng của trật tự xã hội, ví dụ như là ông nghiên cứu các quá trình tương tác trực tiếp, giao tiếp cá nhân, các nghi thức xã hội và các hình thức sơ đẳng của đời sống tôn giáo để giải thích cách tổ chức và phát triển cộng đồng xã hội.
Như vậy, theo E.Durkheim để biến XHH thành khoa học thì cần xác định rõ đối tượng nghiên cứu và phương pháp khoa học của nó, cần áp dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học thực chứng như: quan sát, so sánh, thực nghiệm để nghiên cứu, phát hiện ra các quy luật của các sự vật, sự kiện xã hội.
Theo quan niệm của E.D, có thể định nghĩa khái quát XHH là khoa học nghiên cứu các sự kiện xã hội. Sự kiện xã hội là sản phẩm của lịch sử, là kết quả của hoạt động tập thể. Có thể coi quan niệm XHH của E.D thuộc về “chủ nghĩa tập thể” bởi ông luôn lấy cuộc sống cộng đồng làm xuất phát điểm của sự kiện xã hội, của các phương pháp tiếp cận các sự kiện xã hội.
Quan niệm về cơ cấu xã hội:
Hình thái học xã hội là một bộ phận của XHH có nhiệm vụ nghiên cứu thành phần, cấu tạo, số lượng, kích cỡ, cách sắp xếp và các mối liên hệ giữa những thành phần cụ thể và phân loại chúng để chỉ ra các kiểu xã hội, các hình thức xã hội.
Một số bộ phận khác của XHH chuyên nghiên cứu sự biến đổi xã hội với các nguyên nhân, cơ chế, điều kiện và hệ quả của sự biến đổi xã hội.
Theo quan niệm của chủ nghĩa chức năng, XHH hướng tới phân tích các nguyên nhân và đưa ra cách giải thích về chức năng của các sự kiện xã hội. Ông chủ trương áp dụng quy tắc giải thích các chức năng luận vào xã hội học. Chức năng được hiểu là sự phù hợp giữa sự kiện được nghiên cứu với các nhu cầu chung của cơ thể xã hội. Theo E.Durkheim, sự kiện xã hội xuất hiện là để đáp ứng nhu cầu của tổng thể hệ thống xã hội, cần tìm hiểu và chỉ ra chức năng của một sự kiện xã hội trong mối quan hệ của nó với cả hệ thống xã hội đang theo đuổi những mục đích nhất định nào đó.
Vị trí độc lập của xã hội học trong khoa học:
Theo E.D, XHH coi các hiện tượng xã hội là sự vật và phải được xử l1y với tư cách là những dữ liệu. Sự kiện xã hội xuất hiện, vận động và biến đổi không phải vì chức năng kinh tế cũng không phải vì hiệu quả kinh tế mà nó có nguyên nhân xã hội, có các tác nhân xã hội và có hệ quả đối với đời sống xã hội của con người.
Ngoài sự khác biệt với triết học và kinh tế học, E.D còn nhấn mạnh sự khác biệt về đối tượng nghiên cứu giữa XHH và tâm lý học
Xã hội học
XHH nghiên cứu các sự kiện xã hội từ bên ngoài như các sự vật bên ngoài.
XHH có hệ thống phương pháp luận với các quan niệm, với các quy tắc và các thao tác nghiên cứu cụ thể.
XHH xuất phát từ cấu trúc, chức năng XH, từ thế giới XH bên ngoài cá nhân để hiểu hành vi xã hội của nhóm người và cuộc sống xã hội của con người.
Tâm lý học
Tâm lý học có đối tượng tác động là sự trải nghiệm và nhu cầu, động cơ của thế giới bên trong cá nhân.
Phương pháp tâm lý học xuất phát từ cá nhân, từ thế giới bên trong con người để hiểu các đặc điểm, tính chất hành vi cá nhân hay hành vi của nhóm người.
Tâm lý học xuất phát từ thế giới bên trong của cá nhân mỗi người.
Như vậy, quan niệm của E.D về XHH cho thấy nó nghiên cứu cái gì, nghiên cứu như thế nào và vị trí tương đối độc lập của nó trong hệ thống các khoa học, đặc biệt là ranh giới giữa XHH với tiết học, kinh tế học và tâm lý học.
Các quy tắc phương pháp luận:
Nguyên lý xuyên suốt trong phương pháp nghiên cứu của E.D là quan niệm coi các sự kiện xã hội như những sự vật. Vì vậy, thành kiến coi con người là trung tâm của vũ trụ, là thước đo của thế giới phải bị xóa bỏ ra khỏi tất cả các khoa học, nhất là trong XHH. Theo ngôn ngữ triết học, ta có thể nói: E.D cho rằng phải thay thế CNDT bằng CNDV trong phương pháp luận XHH.
Để hiểu rõ đối tượng và phương pháp nghiên cứu của XHH E.D ta cần tìm hiểu một số quy tắc mà ông đưa ra cách đây hơn một thế kỷ. Các quy tắc đó được phân thành một số nhóm chính sau đây:
Nhóm quy tắc quan sát hiện tượng xã hội:
Quy tắc này đòi hỏi coi các sự kiện xã hội như các sự vật. Khi quan sát sự kiện xã hội, nhà XHH phải gạt bỏ một cách hệ thống tất cả các khái niệm thường ngày, phải loại bỏ các tình cảm và thành kiến của cá nhân, phải định nghĩa rõ hiện tượng nghiên cứu, phải tìm ra các chỉ báo thực nghiệm của hiện tượng nghiên cứu. Ông cho rằng khi nào sự kiện xã hội được coi là sự vật thì mới có thể sử dụng các phương pháp thực chứng để nghiên cứu các đặc điểm, tính chất và quy luật của sự kiện xã hội, kể cả các hiện tượng xã hội như: niềm tin, chuẩn mực, đạo đức cũng phải được coi là đối tượng nghiên cứu khoa học với tư cách là các sự vật đặc biệt trong hiện thực khách quan.
Nhóm quy tắc phân biêt cái bình thường với cái sai lệch:
Quy tắc này đòi hỏi nhà nghiên cứu XHH phải phân biệt được cái chuẩn mực với cái dị biệt vì mục tiêu sâu xa của XHH là chỉ ra những gì là chuẩn mực tốt lành cho cuộc sống của con người. Theo E.D cách tốt nhất để xác định chuẩn mực là phát hiện ra cái thường gặp, cái chung, cái của số đông, cái điển hình của xã hội cụ thể trong giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.. căn cứ vào đó có thể coi tất cả những gì lệch lạc so với chuẩn mực là dị biệt, là không bình thường, thậm chí là các tệ nạn, các bệnh tật xã hội.
Nhóm quy tắc phân loại xã hội:
E.D cho rằng cần phân loại xã hội dựa vào bản chất và số lượng các thành phần cấu thành nên xã hội, căn cứ vào phương thức, cơ chế, hình thức kết hợp c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xhh_dai_cuong_9686.doc