KẾT QUẢ
Có 208 tăng –ni tham gia nghiên cứu, gồm 127 ni (87 ở chùa Linh Chiếu Ni, 44 ở
Thường Chiếu Ni) và 81 tăng ở Thường Chiếu Tăng. Phân loại theo tuổi có 95 người
có tuổi < 40 và 113 người có tuổi ≥ 40. Với nhóm người theo chế độ ăn mặn gồm 113
người, trong đó 72 người < 40 tuổi và 41 người ≥ 40 tuổi.
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1648 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chế độ ăn chay trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHẾ ĐỘ ĂN CHAY TRONG THỜI KỲ KINH TẾ TĂNG TRƯỞNG
TÓM TẮ`T
Mục tiêu: Khảo sát ảnh hưởng của sự tăng trưởng kinh tế trên chế độ ăn chay.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang về thành phần lipid máu
được khảo sát trên 208 người tu hành (vegetarian) so sánh với người theo chế độ ăn
thịt (omnivores, n = 113) vào năm 2006, và so sánh với kết quả khảo sát trên người ăn
chay (n = 934) năm 1995.
Kết quả: Người ăn chay có nồng độ triglyceride toàn phần (TG) tăng cao, ngược lại
giảm cholesterol toàn phần, LDL-cholesterol và HDL-cholesterol so với người ăn thịt.
So với người ăn chay khảo sát năm 1995, người ăn chay khảo sát năm 2006 có TG
toàn phần, cholesterol toàn phần cao hơn, ngược lại HDL-cholesterol thấp hơn.
Kết luận: Có sự khác biệt về chỉ số sinh học chuyển hóa chất béo, đường trên người
ăn chay giữa hai thời điểm kinh tế. Sự thay đổi về tỉ lệ chất đường, béo trong khẩu
phần người ăn chay trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng cần được khảo sát.
ABSTRACT
VEGETARIAN DIET IN THE PERIOD OF DEVELOPING ECONOMICS
Phan Thị Danh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 1 - 2009:
232 - 238
Objectives: To investigate the effect of the economic development on the vegetarian
diet
Methods: A cross-sectional study on the blood lipid composition was conducted on
208 vegetarians, compared to that corresponding in the omnivores (n = 113) in 2006
and from previous study in vegetarians (n = 934) in 1995.
Results : The vegetarians had the blood total triglyceride concentration (TG)
increased, inversely all total cholesterol, LDL-cholesterol and HDL-cholesterol
reduced in comparison to the omnivores. Compare to the vegetarians studied in 1995,
the ones in study in 2006 had the total TG, total cholesterol higher, but the value of
HDL-cholesterol was lower.
Conclusion: There is a difference in biomarkers for carbohydrate and lipid
metabolism in vegetarians between two economic periods. The change in percentage
of sugar, lipid in diets of vegetarians in the economic development period is needed to
investigate.
NHẬP ĐỀ
Chế độ ăn chay thường được xem là tốt cho sức khỏe, dinh dưỡng đầy đủ, và ngừa
được một số bệnh. Có nhiều chế độ ăn chay khác nhau. Người theo chế độ ăn chay có
sữa-trứng (lacto-ovo-vegetarian) nguồn thực phẩm chính gồm ngũ cốc, rau cải, trái
cây, hạt, sữa và trứng. Ở nhóm người này, khoảng 24,7% nguồn năng lượng do chất
béo cung cấp, với 6,5% acid béo bão hòa (saturated fatty acid, SFA), 13,6% từ acid
béo đơn không bão hòa (mono-unsaturated fatty acid, MUFA) và 4,6% từ acid béo
đa-không bão hòa (poly-unsaturated fatty acid, PUFA), và tỉ số acid béo đa-không
bão hòa trên acid béo bão hòa (P/S ratio) là 0,7(Error! Reference source not found.,Error! Reference
source not found.,Error! Reference source not found.). Người theo chế độ ăn chay sữa-không trứng
(lacto-vegetarians) thì toàn bộ nguồn chất béo chính từ sữa, hạt, có tỉ số P/S tương
đương 1(Error! Reference source not found.). Người theo chế độ ăn chay toàn rau-cải (vegan,
total vegetarians) thì nguồn chất béo chủ yếu từ hạt, trái cây (trái bơ) và từ nguồn thức
ăn có chứa đường (sugar vegetarians)(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.). Do vậy, tùy theo chế độ ăn chay khác nhau sẽ có ảnh
hưởng khác nhau về chuyển hóa chất béo trong cơ thể.
Năm 1995, chúng tôi có làm một nghiên cứu về thay đổi chỉ số sinh học chất béo trên
934 người ăn chay, nhận thấy có sự tăng cao triglyceride, giảm HDL-cholesterol
(high density lipoprotein-cholesterol), giảm LDL-cholesterol (low density lipoprotein-
cholesterol) trên người ăn chay so với người không theo chế độ ăn chay (omnivores)
(PT Danh, 2006).
Do nền kinh tế phát triển, chế độ ăn, dinh dưỡng nói chung trong xã hội tăng triển
theo. Khẩu phần trong chế độ ăn chay cũng có thể thay đổi, do đó chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này để đánh giá lại nhận xét về sự thay đổi chỉ số sinh học chất béo trên
người ăn chay trong giai đoạn kinh tế phát triển, so sánh với người không theo chế độ
ăn chay và so sánh với kết quả ghi nhận trên người ăn chay khảo sát năm 1995.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CÚU
Nghiên cứu thiết kế theo kiểu mô tả cắt ngang, so sánh giữa người ăn chay và người
theo chế độ ăn bình thường năm 2006 và người ăn chay khảo sát năm 1995.
Người ăn chay
Đề tài thực hiện ngày 14-15 tháng 4, năm 2006 tại 03 chùa Thường Chiếu Tăng (tăng:
người tu hành phái nam), Thường Chiếu Ni (ni: người tu hành phái nữ) và Linh Chiếu
Ni, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Tất cả các tăng –ni ở 03 chùa nêu trên được giải thích về
nội dung nghiên cứu bao gồm khảo sát nhân trắc (năm sinh, tuổi, phái tính, chiều cao,
cân nặng, chỉ số khối cơ thể (body mass index, BMI), bảng câu hỏi ngắn bao gồm:
năm đi tu, tuổi lúc bắt đầu đi tu, thời gian đi tu (tính đến 01-4-2006), năm bắt đầu ăn
chay, thời gian ăn chay (tính đến 01-4-2006), chế độ ăn chay hiện tại (ngũ cốc, trái
cây, bánh, đường, …). Mỗi người tham gia được khám lâm sàng tổng quát bao gồm
đo huyết áp, mạch, hỏi bệnh sử. Mỗi người tham gia được lấy 01 mẫu máu đông 3 ml,
ở tĩnh mạch cẳng tay, sau khi nhịn đói qua đêm (không ăn gì thêm sau buổi ăn chiều
ngày hôm trước khi lấy mẫu xét nghiệm) để xét nghiệm sinh hóa.
Các xét nghiệm sinh hóa bao gồm đường huyết lúc đói, triglyceride toàn phần,
cholesterol toàn phần, HDL-cholesterol, LDL-cholesterol, men gan (SGOT-AST,
SGPT-ALT), uric acid, bilirubin toàn phần, protid toàn phần. Người tham gia nghiên
cứu hoàn toàn tự nguyện sau khi được giải thích rõ về nội dung nghiên cứu bởi nhà
nghiên cứu. Mẫu máu xét nghiệm được vận chuyển lạnh trong thùng chứa nước đá
lạnh về khoa sinh hóa bệnh viện Chợ Rẫy trong cùng ngày thực hiện nghiên cứu.
Toàn bộ xét nghiệm được thực hiện trong 24 giờ sau đó.
Người theo chế độ ăn bình thường (ăn mặn)
Đề tài cũng thực hiện trong năm 2006, trên các đối tượng bình thường đến khám sức
khỏe và/ hoặc hiến máu tại bệnh viện Chợ Rẫy. Các đối tượng người bình thường này
tự nguyện tham gia nghiên cứu, được khảo sát nhân trắc (chiều cao, cân nặng, ..) và
được lấy một mẫu máu 03 ml để khảo sát các chỉ số sinh hóa về chuyển hóa lipid
tương tự người tu hành.
Xét nghiệm sinh hóa
Tất cả xét nghiệm sinh hóa của người ăn chay và người ăn mặn đều được thực hiện
trên máy sinh hóa tự động Hitachi 717, tại khoa sinh hoá, bệnh viện Chợ Rẫy. Tất cả
quy trình chuẩn hóa máy, kiểm tra chất lượng được thực hiện như thường quy.
Triglyceride toàn phần được định lượng theo phương pháp dùng cholesterol oxidase,
peroxidase, 4-aminoantipyrene (PAP), HDL-Cholesterol và LDL-cholesterol định
lượng theo phương pháp dùng phosphotungstic acid-magnesium chloride. Hóa chất
xét nghiệm của hãng BioLabo, Pháp.
Quản lý dữ liệu, phương pháp thống kê
Mỗi người tham gia nghiên cứu có một bệnh án nghiên cứu riêng. Dữ liệu nghiên
cứu được đăng nhập với phần mềm Epi-Info phiên bản 3.1, 2001. Phân tích thống kê
được thực hiện với chương trình SPSS phiên bản 15. Chẩn đoán rối loạn chuyển hóa
áp dụng theo tiêu chuẩn được đưa ra bởi Hội Nghị Đồng Thuận của Hiệp Hội Đái
Tháo Đường Quốc Tế năm 2005(Error! Reference source not found.) và Hướng dẫn thực hành
lâm sàng của Hội Đồng Liên Bang Prison 2008(Error! Reference source not found.) như sau:
(1) cholesterol toàn phần tăng khi ≥ 240 mg/dL,
(2) LDL-cholesterol tăng khi ≥ 160 mg/dl,
(3) HDL giảm khi < 40 mg/dL đối với nam và < 49 mg/dL đối với nữ,
(4) tăng triglyceride khi ≥ 150 mg/dL.
Phân tích số liệu dựa trên sự phân chia dân số nghiên cứu theo 2 nhóm tuổi < 40 và ≥
40 tuổi, giữa người ăn chay và người ăn mặn, và giữa người ăn chay khảo sát năm
2006 và năm 1995. Ảnh hưởng của thời gian ăn chay trên chuyển hóa lipid cũng được
so sánh giữa 2 nhóm có thời gian đi tu khác nhau, ≤ 2 năm và > 2 năm, trên từng
nhóm tuổi.
Dữ liệu được trình bày dưới dạng trung bình độ lệch chuẩn. Phân bố chuẩn của dữ
liệu được kiểm chứng với phép kiểm Kolmogorov-Sminov Z. So sánh trung bình
giữa 2 dãy số liệu độc lập được thực hiện với phép kiểm Student’s t cho dữ liệu có
phân bố chuẩn và phép kiểm phi tham số Mann-Whitney U test cho dữ liệu không có
phân bố chuẩn. So sánh các tỉ lệ thực hiện với phép kiểm chi bình phương. Giá trị p<
0,05 được xem là có sự khác biệt về thống kê.
KẾT QUẢ
Có 208 tăng –ni tham gia nghiên cứu, gồm 127 ni (87 ở chùa Linh Chiếu Ni, 44 ở
Thường Chiếu Ni) và 81 tăng ở Thường Chiếu Tăng. Phân loại theo tuổi có 95 người
có tuổi < 40 và 113 người có tuổi ≥ 40. Với nhóm người theo chế độ ăn mặn gồm 113
người, trong đó 72 người < 40 tuổi và 41 người ≥ 40 tuổi.
Ảnh hưởng của chế độ ăn chay trên người tu hành so với người theo chế độ
ăn mặn, trên nhóm tuổi < 40.
Bảng 1. So sánh các chỉ số lâm sàng và cận lâm sàng liên quan rối loạn chuyển hóa
lipid giữa nhóm người theo chế độ ăn chay và nhóm người theo chế độ ăn mặn, trong
cùng nhóm tuổi < 40.
Giá trị
Đặc điểm
Người
theo chế
độ ăn
chay
Người
theo chế
độ ăn
mặn
p#
Số người tham
gia nghiên cứu
95 72
Nam 57 38 0,35
Nữ 38 34
Tuổi (năm) 30,0 ± 6 33 ± 4,7 0,01*
Thời gian ăn
chay (năm)
9,4 ± 6,0 /
Thời gian đi tu
(năm)
8,1 ± 5,6 /
Chỉ số khối cơ
thể (BMI)
(kg/m2)
20,5 ± 2,4 21,7 ± 2,6 0,008
BMI béo phì
(>25 kg/m2)
2/94
(2,1%)
5/70
(7,1%)
0,11
Triglyceride
lúc đói
(mg/dL)
169,4 ± 95 139 ± 94 0,003*
TG lúc đói ≥
150 mg/dL
44/95
(46,3%)
20/72
(27,8%)
0,015*
Cholesterol 164,0 ± 189,0 ± 0,0001*
toàn phần lúc
đói (mg/dL)
27,4 32,9
Cholesterol ≥
200 mg/dL
8/95
(8,4%)
22/72
(30,5%)
0,0001*
Cholesterol ≥
240 mg/dL
1/95
(1,1%)
7/72
(9,7%)
0,009*
HDL-
cholesterol
(mg/dL)
44,8 ±
10,5
51,0 ±
10,3
0,0001*
HDL-
cholesterol
giảm (<40
mg/dL đối với
nam, < 49
mg/dL đối với
nữ)
45/95
(47,4%)
16/72
(22,2%)
0,001*
LDL-
cholesterol
(mg/dL)
85,0 ±
22,1
109,7 ±
25,5
0,001*
LDL-
cholesterol ≥
160 mg/dL
1/95
(1,1%)
1/72
(1,4%)
0,84
Tỉ số
HDL/LDL
cholesterol
0,56 0,2
0,48
0,13
0,005*
# phép kiểm Mann-Whitney-U cho kiểm định khác biệt về trung vị cho dữ liệu đo
được, phép kiểm chi bình phương với hiệu chỉnh Yate cho so sánh tỉ lệ
* khác biệt có ý nghĩa thống kê
Bảng 1 cho kết quả có sự khác biệt rất rõ rệt về thống kê về giá trị các chỉ số lipid
trong máu giữa người theo chế độ ăn chay và người theo chế độ ăn mặn như sau:
i) TG tăng cao ở người ăn chay,
ii) ngược lại cholesterol toàn phần, HDL-cholesterol, LDL-cholesterol đều giảm ở
người ăn chay so với người ăn mặn (p< 0,05). Người ăn chay có chỉ số khối cơ thể
(BMI) thấp hơn người theo chế độ ăn mặn, 20,5 2,4 so với 21,7 2,6 kg/m2
(p=0,008), nhưng ít có giá trị lâm sàng, vì số trường hợp béo phì (BMI ≥ 25 kg/m2)
không khác biệt nhau giữa 2 nhóm, 2,1% so với 7,1% (p = 0,11)
Ảnh hưởng của chế độ ăn chay trên người tu hành so với người theo chế độ
ăn mặn trên nhóm tuổi ≥ 40 và ≤ 55.
Bảng 2. So sánh các chỉ số lâm sàng và cận lâm sàng liên quan rối loạn chuyển hóa
lipid trên người theo chế độ ăn chay và và người theo chế độ ăn mặn, nhóm tuổi ≥ 40
và ≤ 55.
Giá trị
Đặc điểm
Người
theo chế
độ ăn
chay
Người
theo chế
độ ăn
mặn
p#
Số người tham
gia nghiên cứu
48 39
Nam 12 28 0,001
Nữ 36 11
Tuổi (năm) 47,3 ± 4,4 45,9 ± 3,5 0,11
Thời gian ăn
chay (năm)
13,8 ± 9,1 /
Thời gian đi tu
(năm)
17,2 ±
11,2
/
Chỉ số khối cơ 20,5 ± 3,2 23,1± 2,0 0,0008*
Giá trị
Đặc điểm
Người
theo chế
độ ăn
chay
Người
theo chế
độ ăn
mặn
p#
thể (BMI)
(kg/m2)
BMI béo (>25
kg/m2)
5/48
(10,4%)
5/36
(13,9%)
0,62
Triglyceride lúc
đói (mg/dL)
202,6 ±
104
236,3 ±
187,8
0,51
TG lúc đói ≥
150 mg/dL
30/48
(62,5%)
21/39
(71,8%)
0,29
Cholesterol toàn
phần lúc đói
(mg/dL)
185,4 ±
25
211,8 ±
39,7
0,0001*
Cholesterol ≥
200 mg/dL
15/47
(31,9%)
21/39
(53,8%)
0,04*
Giá trị
Đặc điểm
Người
theo chế
độ ăn
chay
Người
theo chế
độ ăn
mặn
p#
Cholesterol ≥
240 mg/dL
0/47
(0,0%)
7/39
(17,9%)
0,002*
HDL-
cholesterol
(mg/dL)
47,6 ± 13
51,6 ±
11,2
0,02*
HDL-
cholesterol giảm
(<40 mg/dL đối
với nam, < 49
mg/dL đối với
nữ````)
25/47
(53,2%)
6/39
(15,4%)
0,001*
LDL-cholesterol
(mg/dL)
97,7 ±
24,6
113 ±
31,1
0,03*
LDL-cholesterol 0/47 5/39 0,011*
Giá trị
Đặc điểm
Người
theo chế
độ ăn
chay
Người
theo chế
độ ăn
mặn
p#
≥ 160 mg/dL (0,0%) (12,8%)
# phép kiểm Mann-Whitney-U cho kiểm định khác biệt về trung vị cho dữ liệu đo
được, phép kiểm chi bình phương với hiệu chỉnh Yate cho so sánh tỉ lệ
* khác biệt có ý nghĩa thống kê
Bảng 2 cho thấy trong cùng nhóm tuổi, ≥ 40 và ≤ 55 tuổi, người đi tu có thời gian ăn
chay trung bình 13,8 9,1 năm có cholesterol toàn phần, HDL-cholesterol và LDL-
cholesterol thấp hơn so với người theo chế độ ăn mặn.
Khảo sát sự khác biệt về chuyển hoá lipid trên lâm sàng và cận lâm sàng trên
người tu hành giữa 2 thời điểm kinh tế, 1995 và 2006, ở nhóm tuổi < 40 tuổi.
Bảng 3. So sánh các chỉ số lâm sàng và cận lâm sàng liên quan rối loạn chuyển hóa
lipid trên người ăn chay giữa 2 giai đoạn nghiên cứu, 1995 và 2006, trên nhóm tuổi <
40.
Đặc điểm
Người theo chế độ
ăn chay
p#
Nghiên
cứu năm
1995
Nghiên
cứu năm
2006
Số người tham
gia nghiên cứu
646 95
Triglyceride
lúc đói
(mg/dL)
118 ± 65,6 169,4 ± 95 0,001*
Cholesterol
toàn phần lúc
đói (mg/dL)
159 ± 38,7 164 ± 27,4 0,0001*
HDL-
cholesterol
(mg/dL)
58,4 ±
16,6
44,8 ±
10,5
0,005*
# phép kiểm Mann-Whitney-U cho kiểm định khác biệt về trung vị cho dữ liệu đo
được, phép kiểm chi bình phương với hiệu chỉnh Yate cho so sánh tỉ lệ
* khác biệt có ý nghĩa thống kê
Bảng 3 cho thấy nồng độ triglyceride, cholesterol toàn phần tăng cao có khác biệt về
thống kê ở người tu hành khảo sát năm 2006 so với khảo sát năm 1995, ngược lại
HDL-cholesterol thì thấp hơn.
Khảo sát sự khác biệt về chuyển hoá lipid trên lâm sàng và cận lâm sàng trên
người tu hành giữa 2 thời điểm kinh tế, 1995 và 2006, ở nhóm tuổi ≥ 40 tuổi.
Bảng 4. So sánh các chỉ số lâm sàng và cận lâm sàng liên quan rối loạn chuyển hóa
lipid trên người ăn chay giữa 2 giai đoạn nghiên cứu, 1995 và 2006, trên nhóm tuổi ≥
40.
Người theo chế độ ăn
chay
Đặc điểm Nghiên
cứu năm
1995
Nghiên
cứu năm
2006
p#
Số người tham
gia nghiên cứu
288 113
Triglyceride
lúc đói
(mg/dL)
148 ± 85,7 223 ± 115 0,001*
Cholesterol 178 ± 40,6 197,6 ± 0,009*
Người theo chế độ ăn
chay
Đặc điểm Nghiên
cứu năm
1995
Nghiên
cứu năm
2006
p#
toàn phần lúc
đói (mg/dL)
36,9
HDL-
cholesterol
(mg/dL)
59,2 ± 17,4 47,0 ± 12 0,005*
# phép kiểm Mann-Whitney-U cho kiểm định khác biệt về trung vị cho dữ liệu đo
được, phép kiểm chi bình phương với hiệu chỉnh Yate cho so sánh tỉ lệ
* khác biệt có ý nghĩa thống kê
Bảng 4 cho thấy giá trị của triglyceride, cholesterol máu toàn phần tăng cao ở người
tu hành khảo sát năm 2006 so với năm 1995, ngược lại giá trị của HDL-cholesterol thì
thấp hơn,
Ảnh hưởng của thời gian ăn chay trên chuyển hóa lipid , khảo sát trên người
tu hành nhóm tuổi < 40 tuổi và tuổi bắt đầu đi tu < 40 tuổi (n=95)
Bảng 5. So sánh các chỉ số lâm sàng và cận lâm sàng liên quan chuyển hoá lipid giữa
2 nhóm người tu hành có tuổi 2 năm.
Giá trị
Đặc điểm
Người có
thời gian
đi tu ≥ 2
năm
Người có
thời gian
đi tu > 2
năm
p#
Số người tham
gia nghiên cứu
18 77
Nam 12 28 0,001
Nữ 36 11
Tuổi hiện tại lúc
khảo sát (năm)
25,1 ± 5,8 31,1 ± 5,4 0,005*
Tuổi bắt đầu đi
tu (năm)
23,7 5,5 21,6 5,2 0,16
Thời gian ăn
chay (năm)
2,5 ± 2,3 10,9 ± 2,5 0,0001*
Thời gian đi tu
(năm)
1,4 ± 0,6 9,7 ± 5,0 0,0001*
Chỉ số khối cơ 20,4 ± 2,1 20,6 ± 2,5 0,69
Giá trị
Đặc điểm
Người có
thời gian
đi tu ≥ 2
năm
Người có
thời gian
đi tu > 2
năm
p#
thể (BMI)
(kg/m2)
BMI béo (>25
kg/m2)
0/18 0/77
Triglyceride lúc
đói (mg/dL)
117,4 ±
60
181,6 ±
97,8
0,001*
TG lúc đói ≥
150 mg/dL
4/18
(22,2%)
40/77
(51,9%)
0,023*
TG lúc đói ≥
120 mg/dL
6/18
(33,3%)
55/77
(71,4%)
0,002*
Giá trị
Đặc điểm
Người có
thời gian
đi tu ≥ 2
năm
Người có
thời gian
đi tu > 2
năm
p#
Cholesterol toàn
phần lúc đói
(mg/dL)
154,8 ±
23,2
166,3 ±
28
0,13
Cholesterol ≥
200 mg/dL
15/47
(31,9%)
21/39
(53,8%)
0,04*
Cholesterol ≥
240 mg/dL
0/47
(0,0%)
7/39
(17,9%)
0,002*
HDL-
cholesterol
(mg/dL)
46,0 ±
10,1
49,4 ±
10,7
0,52
HDL-
cholesterol giảm
(<40 mg/dL đối
với nam, < 49
7/18
(38,9%)
38/77
(49,4%)
0,42*
Giá trị
Đặc điểm
Người có
thời gian
đi tu ≥ 2
năm
Người có
thời gian
đi tu > 2
năm
p#
mg/dL đối với
nữ)
LDL-cholesterol
(mg/dL)
84,7 ±
17,2
85,2 ±
23,3
0,98
LDL-cholesterol
≥ 160 mg/dL
0/18
(0,0%)
1/77
(1,3%)
0,63
Đường huyết
lúc đói (mg/dL)
83,4 ± 5,4 87,9 ± 9,5 0,023*
Đường huyết
lúc đói ≥ 100
mg/dL
0/18 6/77 (7,8) 0,22
# phép kiểm Mann-Whitney-U cho kiểm định khác biệt về trung vị cho dữ liệu đo
được, phép kiểm chi bình phương với hiệu chỉnh Yate cho so sánh tỉ lệ
* khác biệt có ý nghĩa thống kê
Bảng 5 cho thấy trong cùng nhóm tuổi < 40, người tu hành có thời gian đi tu lâu năm
(> 2 năm) có chỉ số đường huyết lúc đói và triglycerides toàn phần cao hơn so với
người mới đi tu (thời gian đi tu ≤ 2 năm).
BÀN LUẬN
So sánh rối loạn chuyển hóa lipid giữa người theo chế độ ăn chay và người
theo chế độ ăn mặn
Trên nhóm người có tuổi < 40, người ăn chay có sự tăng cao triglyceride lúc đói,
169,4 95 mg/dl so với 139, 94 mg/dl (p= 0,008), so với người theo chế độ ăn mặn.
Tỉ lệ người có nồng độ TG ≥ 150 mg/dl là 46,3% và 27,8% theo thứ tự đối với người
ăn chay và người ăn mặn (p = 0,015). Ngược lại, người ăn chay có lượng cholesterol
toàn phần và LDL-cholesterol thấp hơn người ăn mặn. Có ghi nhận đặc biệt là HDL-
cholesterol ở người ăn chay thấp hơn người ăn mặn, 44,8 10,5 so với 51,0 10,3
mg/dL (p = 0,0001). Tỉ số HDL/LDL cholesterol ở người ăn chay cao hơn người ăn
mặn, 0,56 0,2 so với 0,48 0,2, cho thấy trên người ăn chay mức độ giảm LDL-
cholesterol nhiều hơn sự giảm HDL-cholesterol.
Các kết quả nêu trên tương tự như kết quả nghiên cứu trên người ăn chay tại Đài
Loan(8) về hai giá trị, cholesterol toàn phần và LDL-cholesterol thấp ở người ăn chay
so với người ăn mặn. Nhưng giá trị triglyceride toàn phần và HDL-cholesterol ghi
nhận không khác biệt nhau giữa người ăn chay và người ăn mặn trong nghiên cứu tại
Đài Loan. Sự khác biệt này có thể do chế độ ăn chay có khác biệt nhau giữa 2 nơi.
Người ăn chay có thể theo chế độ ăn toàn rau củ (vegan, total vegetarian), hoặc sữa-
rau củ (lacto-vegetarian), hoặc trứng-sữa-rau củ (lacto-ovo-vegetarian), và tùy theo
chế độ ăn chay khác nhau mà thành phần lipid máu cũng sẽ khác nhau trên người ăn
chay. Theo Lu và cs, 2000(Error! Reference source not found.), người Đài Loan thường theo chế
độ ăn chay với nguồn thực phẩm chính là tàu hủ làm từ đậu nành. Dựa trên kết quả
ghi nhận với nồng độ triglyceride cao trên người Việt Nam ăn chay gợi ý có thể có
nhiều thành phần chất đường, tinh bột cao trong khẩu phần ăn chay của người Việt
Nam, nguồn gốc từ đường ăn, khoai, củ, gạo.
Bảng 2 so sánh các chỉ số lipid máu giữa người ăn chay và người ăn mặn trên người
lớn tuổi, ≥ 40 và ≤ 55, cho thấy cả 3 thông số cholesterol toàn phần, LDL- và HDL-
cholesterol ở người ăn chay đều thấp hơn người ăn mặn. Tuy nhiên TG toàn phần và
tỉ số HDL/LDL cholesterol không khác biệt giữa 2 nhóm. Điều này cho thấy ở người
lớn tuổi, TG không bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn chay hay ăn mặn mà cùng chịu chung
ảnh hưởng là chế độ ăn ở người lớn tuổi có nhiều thành phần chất đường, tinh bột.
Bảng 2 cũng cho thấy chế độ ăn chay giúp giảm cholesterol trên người tu hành.
So sánh sự thay đổi về thành phần lipid máu trên người tu hành giữa 2 khảo
sát nằm 1995 và nằm 2006
Kết quả của bảng 3, so sánh trên người tu hành tuổi < 40, cho thấy TG và cholesterol
máu gia tăng cao, 16995 so với 118 65,6 mg (p=0,001) và 164 27,4 so với 159
38,7 mg, theo thứ tự thời điểm khảo sát năm 2006 và 1995. Ngược lại HDL-
cholesterol giảm nhiều hơn trên người tu hành trong khảo sát năm 2006. Điều này
phản ảnh chế độ ăn có khác biệt giữa 2 thời điểm kinh tế năm 2006 và 1995, có thể
chế độ ăn có nhiều hơn thành phần chất đường, béo trong khẩu phần ăn chay năm
2006. Kết quả bảng 4, trên đối tượng người tu hành ≥ 40 tuổi cũng cho kết quả tương
tự như trên người tu hành < 40 tuổi. Theo nghiên cứu của Pan và cộng sự, 1993(Error!
Reference source not found.), trên người Đài Loan theo chế độ ăn chay rau-sữa (lacto-
vegetarian) cho thấy chế độ ăn này chứa 27,5% năng lượng từ nguồn gốc chất béo,
bao gồm 4,8% năng lượng từ nhóm chất béo bão hòa, 6,3% từ chất béo đơn không
bão hòa (mono-unsaturated fatty acid, MUFA), và 15,5% từ nhóm chất béo đa không
bão hòa (poly-unsaturated fatty acid, PUFA). Ở Việt nam chưa có nghiên cứu về
thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần ăn chay để giúp nhận xét sự thay đổi về khẩu
phần ăn chay theo sự phát triển của đời sống kinh tế. Chế độ ăn nhiều chất béo đa
không bảo hòa gây giảm cả LDL và HDL-cholesterol và làm cho LDL-cholesterol
nhạy cảm hơn với sự oxy-hóa, do chất béo không bão hòa có nhiều nối đôi(Error!
Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Tuy nhiên, theo
tác giả Lu và cộng sự 2000, cho thấy chế độ ăn chay nhiều chất béo, đạm từ thực
phẩm có nguồn gốc đậu nành có nhiều chất béo đa không bão hòa (PUFA) chỉ làm
giảm LDL-cholesterol, nhưng không giảm HDL-cholesterol
Bảng 5 cho thấy trên người tu hành có thời gian ăn chay > 2 năm ăn chay, nồng độ
TG toàn phần và đường huyết trong máu gia tăng cao, khác biệt với người có thời
gian ăn chay < 2 năm. Tác giả Turley và cs, 1998(Error! Reference source not found.) có nhận
xét chung khi thay đổi chế độ ăn, chuyển đổi từ chế độ chất béo bảo hòa (saturated
fat) sang nguồn gốc năng lượng từ chất béo không bão hòa và chất bột, ngũ cốc, thức
ăn chứa đường, rau-củ, trái cây sẽ làm giảm cholesterol toàn phần, LDL-cholesterol,
nhưng cũng làm giảm HDL-cholesterol, và gây tăng cao TG. Cần chú ý sự gia tăng
cao TG toàn phần cũng là một trong các dấu hiệu chính của rối loạn chuyển hóa lipid.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy trên người Việt Nam theo chế độ ăn chay có sự giảm
cholesterol, LDL-cholesterol, nhưng tăng cao triglyceride và giảm HDL-cholesterol
so sánh với người theo chế độ ăn mặn trên cả hai khảo sát năm 1995 và 2006. Và ghi
nhận cả 3 giá trị triglyceride, cholesterol, LDL-cholestrol trong khảo sát năm 2006
cao hơn năm 1995, ngược lại HDL-cholesterol giảm hơn. Chế độ ăn chay với xu
hướng nhiều thành phần chất đường, chất béo khác nhau giữa 2 thời điểm kinh tế có
thể ảnh hưởng đến sự thay đổi về chuyển hóa lipid trên người ăn chay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 95_285.pdf