Dựa trên kinh nghiệm của các nước trong khu vực và thế giới, căn cứ vào tình
hình thực tiễn ở nước ta. Có thể có những biện pháp sau để kiểm soát giá sản phẩm
độc quyền.
Một là, ban hành và thực hiện nghiêm ngặt chính sách và kiểm soát giá cả sản
phẩm độc quyền, hay nói cụ thể hơn là chính sách định giá sản phẩm độc quyền (bao
gồm cả giá bán và giá mua).
Hai là, có thiết chế cơ quan độc lập, hay bộ phận độc lập của Bộ, có nghiệp vụ
chuyên môn về giá cả, nghiệp vụ sâu về kinh doanh loại sản phẩm độc quyền đó, có
thẩm quyền pháp lý thực hiện chính sách định giá sản phẩm độc quyền, quan trọng
nhất là kiểm soát, nắm bắt chính xác được chi phí sản xuất và trên cơ sở xác định và
quy định được giá tối ưu sẽ do cơ quan hoặc bộ phận tư vấn trình Chính phủ ban hành.
Ba là, trong giai đoạn trước mắt, cần nhanh chóng chấm dứt việc giao quyền tự
định giá cho các doanh nghiệp độc quyền hoặc ngành độc quyền. Việc chấm dứt này185
không căn cứ vào ý nghĩa kinh tế hay độ lớn của giá trị sản phẩm, dịch vụ mà phải căn
cứ vào tính độc quyền của sản phẩm.
Bốn là, nhanh chóng rà soát và xác định các loại sản phẩm, dịch vụ độc quyền
trong nền kinh tế quốc dân để làm căn cứ xác định đối tượng chịu sự điều chỉnh của
chính sách định giá sản phẩm độc quyền. Cần tập trung lưu ý đặc biệt với loại hình độc
quyền mua. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và sự ra đời của các khu
công nghiệp và khu chế xuất, Nhà nước nhận thức rằng loại hình độc quyền này sẽ
ngày một hình thành nhanh chóng.
32 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 524 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chính sách điều tiết giá những hàng hóa quan trọng, thiết yếu và những kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạo ra
tâm lý căng thẳng thiếu nguồn cung cục bộ, làm cho người tiêu dùng vất vả, có khi đi
qua hàng chục trạm xăng nhưng không mua được, một điều rất lạ có lẽ chỉ xảy ra đối
với xăng dầu đó là nhiều khi nguời bán hàng sợ khách hàng đến mua hàng của mình.
Khi giá thế giới xuống thấp, doanh nghiệp nhập khẩu bắt đầu có lãi, nhiều khi
chưa bù đủ phần lỗ. Trước sức ép của dư luận, liên Bộ thường chỉ đạo điều chỉnh giảm
giá ngay. Một số doanh nghiệp có lợi thế hoặc khi mua hàng may mắn đúng vào thời
điểm giá thế giới thấp không tự giác đăng ký giảm giá bán ở hệ thống cửa hàng của
mình mà lại cho chi phí hoa hồng cao từ 500 - 600 đ/lít thậm chí có thời điểm 800 -
900 đ/lít điều này dẫn đến thị trường hỗn độn, các đại lý, tổng đại lý không chấp hành
đúng Nghị định, cùng một lúc đồng thời ký hợp đồng với nhiều đầu mối và lựa chọn
mua của đầu mối có mức chi phí hoa hồng cao hơn. Doanh nghiệp có lợi thế thì tiêu
thụ mạnh còn doanh nghiệp không có lợi thế không bán được. Tổng đại lý được hưởng
lợi lớn trong khi người dân vẫn phải mua theo đúng giá quy định, doanh nghiệp thất
thu và nguồn thu của Nhà nước từ thuế thu nhập doanh nghiệp bị giảm.
182
Có những thời điểm chính sách điều hành giá bán thấp hơn giá vốn và thấp hơn
giá của các nước trong khu vực dẫn đến việc xuất lậu ra nước ngoài cũng như hàng
tạm nhập tái xuất quay lại cả hai đều gây tổn hại không đánh giá được. Việc Nhà nước
giữ giá ổn định trong một thời gian quá dài, thoát ly giá thế giới, đã tạo sức ỳ và tâm lý
phản ứng thái quá của người tiêu dùng, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp xăng dầu
- Việc các cơ sở kinh doanh xăng dầu công bố Bảng tính giá cơ sở theo Nghị
định số 84/2009/NĐ-CP chưa đựợc các cơ quan chức năng kiểm chứng, đánh giá tính
xác thực của nó, bởi nhiều lý do. Một trong những lý do chính là tính phức tạp của quá
trình hạch toán, kinh doanh của xăng dầu, đồng thời do hạn chế về nghiệp vụ, năng lực
của đội ngũ cán bộ quản lý của các cơ quan chức năng. Đây chỉ mới là thông tin một
chiều từ phía doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Sự nghi ngờ của người tiêu dùng đối
với các thông tin công bố của các doanh nghiệp xăng dầu là có cơ sở. Điều này đựợc
minh chứng: Bởi, lâu nay điệp khúc của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu luôn là
“lỗ”, thậm chí không ít thời điểm “nước sôi, lửa bỏng” cả ngân sách nhà nước và
người tiêu dùng đều phải bỏ tiền vào Quỹ bình ổn để hỗ trợ, bù lỗ cho doanh nghiệp
nếu không muốn để họ tăng giá. Nhưng khi đưa lên sàn, doanh nghiệp kinh doanh
xăng dầu chiếm thị phần lớn nhất có bản cáo bạch, cho thấy năm 2008 lãi hơn 913 tỷ
đồng, năm 2009 lãi 2.880 tỷ đồng, năm 2010 lãi 81 tỷ đồng, năm 2011 dự kiến lãi
khoảng 598 tỷ đồng, đã thu hút sự quan tâm của dư luận. Qua đây cũng là một dấu hỏi
về “Bảng tính giá cơ sở của doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu” đã công bố có đáng
tin cậy hay không? Theo ý kiến của người tiêu dùng, cái quan trọng là phải kiểm tra
được sự minh bạch, hợp lý từng yếu tố trong cơ cấu bảng tính giá cơ sở của đơn vị
cung ứng xăng dầu trong cơ cấu mỗi lít xăng. Đây là căn cứ để xem xét giá bán đã hợp
lý hay chưa?
2.2- Những khuyến nghị về chính sách điều tiết giá xăng dầu
Từ những điều đã nêu trên, để giá bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam “vận hành đúng
quy luật của cơ chế thị trường”, theo chúng tôi một số vấn đề sau cần được xem xét,
xử lý và có giải pháp khắc phục:
1- Chính sách giá cần phải tuân thủ theo đúng cách thức quản lý giá của nền kinh
tế thị trường.
Về kiểm soát các DN độc quyền, NQ lần thứ 3 Ban CHTW Đảng khóa IX đã đưa
ra giải pháp: “Đối với DNNN hoạt động trong lĩnh vực độc quyền, cần quy định kiểm
soát giá, điều tiết lợi nhuận và cần tổ chức một số DNNN cùng cạnh tranh”. Trong
Pháp lệnh Giá năm 2002, cũng như Luật Giá vừa được Quốc hội thông qua và có hiệu
lực thi hành từ 1/1/2013, tại điều 19 đã chỉ rõ: “Nhà nước định giá đối với hàng hóa,
dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền ”.
183
Theo Bộ Công Thương, TCty dầu VN - PVOil hiện chiếm khoảng 20%, Saigon
Petro chiếm 7%, còn Petrolimex chiếm khoảng 60% thị trường xăng dầu cả nước.Với
tỷ trọng 60% bán trên thị trường cả nước, còn ở các vùng có cạnh tranh cao như Hà
Nội hoặc TP Hồ Chí Minh thì thị phần của Petrolimex chiếm trên dưới 40%. Nhưng ở
các vùng như Sơn La, Lai Châu, Tây Nguyên thì có nơi thị phần của Petrolimex gần
như 100%. Như vậy, kinh doanh ngành xăng dầu vẫn tồn tại tình trạng độc quyền (bởi
có doanh nghiệp chiếm trên 30% thị phần theo quy định của Luật Cạnh tranh).
Cạnh tranh và độc quyền là 2 nội dung quan trọng, tồn tại trong nền kinh tế thị
trường. Mỗi hình thái thị trường (cạnh tranh; độc quyền; cạnh tranh-độc quyền) đều có
cách thức quản lý, chính sách điều tiết giá riêng của nó. Trên thị trường cạnh tranh, giá
cả do thị trường quyết định (do DN tự quyết định), trên thị trường độc quyền giá cả do
Nhà nước quyết định. Đó là cách thức quản lý giá của cơ chế thị trường. Điều này
được thể hiện trong các văn bản pháp quy ở nước ta cũng như trong Luật của các nước
có nền kinh tế thị trường. Tại những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, pháp
luật được coi trọng, kiểm toán được tiến hành thường xuyên, các DN độc quyền đều
phải kiểm soát giá cả (thông qua việc Nhà nước định giá), coi đây là biện pháp rất cơ
bản nếu khả năng cạnh tranh còn ít.
Tuy nhiên, nếu biện pháp quản lý giá đơn độc, không kèm theo kiểm toán,
không có ràng buộc về chất lượng dịch vụ cho người tiêu dùng, thiếu khung pháp lý có
hiệu lực để xác định quyền hay trách nhiệm v.v.. sẽ là một liều thuốc không tương
xứng với vấn đề cần giải quyết và có nguy cơ gây ra phản tác dụng.
Ví dụ: cả thế giới đều biết tình trạng khủng hoảng thiếu hụt năng lượng điện
trầm trọng ở bang Califonia năm 2000 có nguyên nhân từ kiểm soát giá cả. Chính
quyền bang chủ trương xác định giá điện ổn định ở mức thấp để bảo vệ người tiêu
dùng. Kết quả là tiêu dùng điện tăng vọt, công nghiệp phát triển rất mạnh vì giá điện rẻ
hơn các bang khác, trong khi đó không ai đầu tư vào hệ thống điện ở bang này vì tỷ
suất lợi nhuận quá thấp, hoặc bị lỗ dẫn đến cầu vượt cung, hệ thống bị quá tải dẫn đến
sụp đổ mạng lưới, cắt điện hàng loạt gây thiệt hại lớn về kinh tế cho bang đó.
Ví dụ trên cho thấy tính phức tạp và sự phản tác dụng của kiểm soát giá độc
quyền, khi sự kiểm soát đó thoát ly các yếu tố thị trường.
Trên thị trường xăng dầu còn tình trạng độc quyền, nếu để cho DN định giá (dù
trong biên độ hẹp từ 0-7%), là trái với cách thức quản lý giá trong cơ chế thị trường và
sẽ gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Điều này được thấy rõ thời gian vừa qua khi giá
xăng dầu thế giới vừa tăng nhẹ, trong thời gian quy định, các DN xăng dầu ngay lập
tức kêu lỗ và kiến nghị tăng giá. Khi giá xăng dầu thế giới giảm liên tục và giảm sâu,
các DN xăng dầu đã không giảm giá kịp thời, chỉ giảm giá trước áp lực của công luận
và các cơ quan chức năng, nhưng việc giảm giá chỉ nhỏ giọt.
184
Về chính sách giá xăng dầu, chúng ta nên sửa Nghị định 84 theo hướng không
giao quyền quyết giá xăng dầu cho doanh nghiệp dù trong biên độ nhỏ “0-7%” (lợi
dụng biên độ này DN sẽ xé nhỏ ra để tăng giá ). Nếu còn tình trạng 1 doanh nghiệp áp
đảo thị phần như vậy thì Nhà nước phải là người quyết giá, định giá, chỉ có Nhà nước
mới đảm bảo được nguyên tắc hài hòa lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và người
tiêu dùng.
Thực tiễn cho thấy rằng, để thu được lợi nhuận độc quyền cao, gián tiếp làm
giảm hiệu quả kinh tế chung, các doanh nghiệp độc quyền thường đẩy giá bán cao hơn
(đối với doanh nghiệp độc quyền bán) và giảm giá mua đầu vào thấp hơn (đối với các
doanh nghiệp độc quyền mua) so với mức giá tối ưu, tại đó hiệu quả kinh tế đạt mức
cao nhất.
Mức giá tối ưu này chính là mức giá mà cạnh trạnh có thể tạo ra. Độc quyền đã
cản trở việc hình thành mức giá này. Để nâng cao hiệu quả kinh tế, Nhà nước với vai
trò là người quản lý chung của nền kinh tế, phải có trách nhiệm tìm ra mức giá này và
ấn định bằng luật bắt buộc các doanh nghiệp độc quyền phải thi hành. Việc quy định
giá độc quyền này của Nhà nước là thể hiện việc thực hiện cơ chế thị trường, chứ
không phải là cơ chế hành chính mệnh lệnh. Đây là một trong những biểu hiện tập
trung của vai trò điều tiết trong “cơ chế thị trường, có quản lý của Nhà nước”. Về lý
thuyết cũng như thực tiễn về chính sách giá đó được minh chứng trong nền kinh tế thị
trường là : “Chính sách can thiệp trực tiếp về giá cả đối với doanh nghiệp độc quyền
là giải pháp tốt thứ hai sau giải pháp cạnh tranh hoá mà khoa học và thực tiễn kinh tế
thế giới đã tìm ra cho đến nay, mặc dù giải pháp này có khiếm khuyết lớn là vẫn chưa
loại trừ được khả năng nảy sinh quan hệ tiêu cực giữa doanh nghiệp độc quyền và cơ
quan đảm trách việc định giá.”
Dựa trên kinh nghiệm của các nước trong khu vực và thế giới, căn cứ vào tình
hình thực tiễn ở nước ta. Có thể có những biện pháp sau để kiểm soát giá sản phẩm
độc quyền.
Một là, ban hành và thực hiện nghiêm ngặt chính sách và kiểm soát giá cả sản
phẩm độc quyền, hay nói cụ thể hơn là chính sách định giá sản phẩm độc quyền (bao
gồm cả giá bán và giá mua).
Hai là, có thiết chế cơ quan độc lập, hay bộ phận độc lập của Bộ, có nghiệp vụ
chuyên môn về giá cả, nghiệp vụ sâu về kinh doanh loại sản phẩm độc quyền đó, có
thẩm quyền pháp lý thực hiện chính sách định giá sản phẩm độc quyền, quan trọng
nhất là kiểm soát, nắm bắt chính xác được chi phí sản xuất và trên cơ sở xác định và
quy định được giá tối ưu sẽ do cơ quan hoặc bộ phận tư vấn trình Chính phủ ban hành.
Ba là, trong giai đoạn trước mắt, cần nhanh chóng chấm dứt việc giao quyền tự
định giá cho các doanh nghiệp độc quyền hoặc ngành độc quyền. Việc chấm dứt này
185
không căn cứ vào ý nghĩa kinh tế hay độ lớn của giá trị sản phẩm, dịch vụ mà phải căn
cứ vào tính độc quyền của sản phẩm.
Bốn là, nhanh chóng rà soát và xác định các loại sản phẩm, dịch vụ độc quyền
trong nền kinh tế quốc dân để làm căn cứ xác định đối tượng chịu sự điều chỉnh của
chính sách định giá sản phẩm độc quyền. Cần tập trung lưu ý đặc biệt với loại hình độc
quyền mua. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và sự ra đời của các khu
công nghiệp và khu chế xuất, Nhà nước nhận thức rằng loại hình độc quyền này sẽ
ngày một hình thành nhanh chóng.
Hoạt động trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp một mặt tuân thủ theo quy
luật cạnh tranh, mặt khác hàng ngày, hàng giờ tìm cách tạo ra cho mình sự độc quyền
riêng có bằng nhiều cách, kể cả tạo ra năng lực độc quyền bằng nhiều thủ đoạn, trong đó
có thủ đoạn dùng giá cả hòng thu lợi nhuận độc quyền cao, làm giảm hiệu quả kinh tế.
Chống việc hình thành độc quyền và kiểm soát độc quyền vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ
vừa là quyền của Nhà nước, Nhà nước cần có chính sách hoặc đồng bộ các chính
sáchkiểm soát độc quyền. Một trong những giải pháp thường được sử dụng đó là Nhà
nước kiểm soát chi phí sản xuất của doanh nghiệp độc quyền nhằm kiểm soát và hạn chế
những tác động tiêu cực trên thị trường độc quyền.
Các doanh nghiệp độc quyền tối đa hoá lợi nhuận bằng cách giảm sản lượng và
tăng giá bán sản phẩm lên mức cao hơn so với giá trên thị trường cạnh tranh.
Việc để cho các doanh nghiệp độc quyền tự định giá bán gây ra những ảnh
hưởng tiêu cực đến giá cả, sản lượng, phân phối thu nhập quốc dân và tiến bộ kỹ thuật,
cụ thể là:
+ Doanh nghiệp độc quyền tối đa hoá lợi nhuận bằng cách tăng giá bán, chứ
không bằng cách tối thiểu hoá chi phí sản xuất. Doanh nghiệp độc quyền toàn quyền
quyết định giá bán, nên họ không có động lực giảm chi phí sản xuất thông qua cải tiến
công nghệ, cải tiến sản phẩm như trong trường hợp cạnh tranh. Xu hướng cơ bản của
độc quyền là hạn chế sự tăng trưởng kinh tế.
+ Giá độc quyền tạo ra sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập quốc dân qua
giá. Cụ thể là, một phần thu nhập của người tiêu dùng bị chuyển sang thành phần thu
nhập của doanh nghiệp độc quyền. Doanh nghiệp độc quyền giàu lên bằng cách tước
đoạt một phần thu nhập của người tiêu dùng, điều này hoàn toàn khác với trường hợp
doanh nghiệp hoạt động trong môi trường tự do cạnh tranh.
Xã hội lãng phí một lượng của cải do doanh nghiệp độc quyền giảm sản lượng tối
ưu (sản lượng tự do cạnh tranh) về sản lượng không tối ưu để thu lợi nhuận độc quyền.
Doanh nghiệp độc quyền không có xu hướng định giá theo chi phí cận biên. Do
đó, giá cả và sản lượng của doanh nghiệp độc quyền không tối ưu cho người tiêu dùng
186
và cho xã hội. Nói cách khác, giá cả độc quyền đã đưa ra tín hiệu sai lệch cho người
tiêu dùng khi lựa chọn cơ cấu tiêu dùng tối ưu.
Từ những hậu quả tiêu cực trên đây của doanh nghiệp độc quyền, việc Nhà
nước kiểm soát chi phí sản xuất, can thiệp vào giá bán sản phẩm của doanh nghiệp là
tất yếu. Mục đích của sự can thiệp này là lập lại trạng thái cân bằng, bình đẳng vốn có
trong điều kiện tự do cạnh tranh.
Nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong quá trình đó, yêu cầu kiểm soát chi phí sản
xuất, giá cả của các doanh nghiệp độc quyền thuộc khu vực kinh tế Nhà nước cần
được đặt ra.
Nguồn xăng dầu tiêu thụ trong nước phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nhập khẩu
(70%) và trong điều kiện hội nhập kinh tế thì giá xăng dầu nội địa lại càng phải phù
hợp với sự vận động của giá thị trường xăng dầu thế giới.
Cần chuyển đổi cơ chế điều tiết giá xăng dầu nước ta cho phù hợp với giá thị
trường xăng dầu quốc tế; từ bỏ hẳn cơ chế bao cấp, định giá trái với cách thức quản lý
giá của nền kinh tế thị trường, quản lý theo kiểu hành chính đối với kinh doanh xăng
dầu. Cần có chính sách điều tiết giá phù hợp với cách thức quản lý giá của sản
phẩm độc quyền trong nền kinh tế thị trường. Dù giá xăng dầu thế giới biến động
hàng ngày, hàng giờ nên thị trường xăng dầu trong nước cần được điều hành linh hoạt
các yếu tố của cơ cấu giá xăng dầu, để đảm bảo giá xăng dầu ổn định phù hợp với giá
thế giới. Không định giá xăng dầu trong nước cố định một cách cứng nhắc tách rời giá
xăng dầu thế giới.
Những tranh luận liên quan đến giá xăng dầu hiện nay sẽ khó chấm dứt khi mấu
chốt vấn đề nằm ở chính sách giá xăng dầu chưa tuân thủ theo cách thức quản lý cơ
bản quản lý giá của nền kinh tế thị trường.
2- Cần tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường kinh doanh xăng dầu ở
nước ta, bằng cách tổ chức lại các doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu và kinh doanh
xăng dầu, để tạo ra các doanh nghiệp có năng lực và mặt bằng xuất phát điểm tương
đương nhau, xóa dần sự khác biệt về lợi thế hạ tầng kỹ thuật, vị trí kho cảng và thị
phần như hiện nay. Đây là điều kiện tiên quyết để có một thị trường xăng dầu cạnh
tranh thực sự ở nước ta. Đây là việc làm nếu không có quyết tâm cao thì rất khó vì cơ
quan quản lý ngại động chạm, về phía doanh nghiệp không phải tất cả đều ủng hộ mặc
dù biết rằng thay đổi sẽ là rất tốt, nếu không có sự sắp xếp lại về lâu dài tất yếu sẽ dẫn
đến hệ quả những doanh nghiệp ở “đẳng cấp” thấp hơn sẽ thua lỗ kéo dài và nhiều
nguy cơ có thể xảy ra v.v nhưng do tâm lý ngại thay đổi vì vậy chưa quyết tâm cao
trong đề xuất, kiến nghị v.v Nhưng nếu không làm được điều này, trên thị trường
xăng dầu vẫn tồn tại sự độc quyền và làm tổn thất một nguồn lực đáng kể. Từ đó đặt ra
187
vấn đề cần tái cấu trúc lại các điều kiện kinh doanh xăng dầu của các doanh nghiệp và
phải quy hoạch bố trí sắp xếp lại nhằm tập trung nguồn lực và sử dụng hiệu quả vốn
đầu tư và tài nguyên Nhà nước. Cần xem xét cụ thể về các điều kiện của các doanh
nghiệp đầu mối nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu, không để phân tán như hiện nay,
nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp, sử dụng có hiệu quả cơ sở hạ
tầng kinh doanh xăng dầu. Có định hướng, đẩy mạnh cổ phẩn hóa doanh nghiệp để thu
hút vốn, tăng khả năng cạnh tranh, và tiến tới hình thành tập đoàn kinh tế đa sở hữu
trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu, hiện nay có 11 đầu mối nhập khẩu, có một vài
doanh nghiệp đang tiến hành cổ phần hóa nhưng vốn nhà nước vẫn chiếm phần lớn,
như vậy thực chất vẫn chưa có một thị trường xăng dầu cạnh tranh thục sự.
Theo các chuyên gia, cần chia nhỏ Petrolimex thành nhiều đơn vị độc lập để giúp
thị trường có sự cạnh tranh đúng nghĩa. Ngoài ra, có thể xem xét mở cửa cho doanh
nghiệp nước ngoài tham gia. Để thị trường xăng dầu cạnh tranh đúng nghĩa, cần chia
tách Petrolimex thành các loại hình doanh nghiệp: xuất nhập khẩu, phân phối và bán
lẻ, hoạt động tách rời, hoạch toán riêng. Cùng với đó có thể đẩy mạnh việc cổ phần
hóa Petrolimex với sự tham gia của các doanh nghiệp có kinh nghiệm quốc tế như
hãng Shell chẳng hạn. Với bề dày kinh nghiệm kinh doanh ở nhiều thị trường quốc tế,
khi có các đối tác quốc tế lớn tham gia hội đồng quản trị của doanh nghiệp xăng dầu sẽ
giúp được rất nhiều việc trong việc thay đổi quản trị.
3- Cần có sự kiểm tra, giám sát thường xuyên, chặt chẽ hoạt động đối với các
doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu.
Từ kết quả kiểm toán vào đầu tháng 12/2009, Kiểm toán Nhà nước đã công bố
kết quả kiểm toán việc cấp bù lỗ kinh doanh các mặt hàng xăng dầu giai đoạn 2006-
2008 tại 10 doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu xăng dầu. Qua đó thấy còn nhiều lỗ hổng
trong công tác quản lý cấp ngân sách nhà nước để thất thoát hàng tỷ đồng cần được
chấn chỉnh kịp thời.
Việc Kiểm toán Nhà nước kiến nghị thu hồi cho ngân sách hơn 1.000 tỷ đồng từ
các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu xăng dầu là bằng chứng cho thấy còn có
những sơ hở cần được chấn chỉnh trong việc điều hành giá xăng dầu của liên Bộ Tài
chính - Công Thương.
Hơn 1.000 tỷ đồng phải thu hồi cho ngân sách nhà nước mà chủ yếu từ khâu
quản lý quyết toán việc cấp bù lỗ cho các doanh nghiệp đặc quyền được phép nhập
khẩu xăng dầu chủ yếu của năm 2008 là không nhỏ. Việc ngân sách nhà nước phải bù
lỗ trái quy định cho các doanh nghiệp xăng dầu của các đơn vị, cá nhân thuộc ngành
tài chính phụ trách công việc này cũng cần phải xử lý nghiêm. Từ vụ việc này Bộ
Công Thương và Bộ Tài chính cần phối hợp trong việc xác định nhu cầu dự trữ lưu
thông, dự trữ quốc gia xăng dầu, cân đối sản lượng nhập khẩu để cấp hạn ngạch phù
188
hợp, xác định chính sách giá bán trên nguyên tắc thị trường nhưng không gây tác động
quá lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân.
4- Điều hành giá xăng dầu trong bối cảnh giá xăng dầu thế giới luôn biến động
phức tạp, trong từng thời kỳ cơ quan quản lý cần phải biết điều tiết linh hoạt, kịp thời
các yếu tố trong cơ cấu giá bán xăng dầu. (Trong cơ cấu giá cơ sở bao gồm: giá CIF;
các khoản thuế “Nhập khẩu, Tiêu thụ đặc biệt, VAT”; thuế môi trường; chi phí định
mức; quỹ bình ổn; lợi nhuận định mức). Tùy từng thời kỳ cụ thể, cơ quan chức năng
chủ động điều tiết tăng, giảm hoặc giữ ổn định các yếu tố của cơ cấu giá bán lẻ xăng
dầu: thuế, phí, quỹ bình ổn, lợi nhuận định mức để điều tiết giá bán lẻ xăng dầu làm
giảm áp lực tăng giá bán thực hiện các mục tiêu lớn trong mỗi thời kỳ: như kiềm chế
lạm phát, tháo gỡ khó khăn hoặc nâng cao khả năng cạnh tranh của DN, khoan sức dân
v.v... Bởi vì trong cơ cấu giá bán lẻ xăng dầu các yếu tố thuế, phí chiếm một tỷ trọng
khá lớn.
Hiện nay có quan điểm cho rằng, trong cơ cấu giá bán lẻ xăng dầu, mỗi lít xăng,
phải gánh chịu một tỷ lệ thuế, phí khá lớn. Do vậy, cần xem xét lại thuế tiêu thụ đặc
biệt - loại thuế dành cho hàng hóa xa xỉ, hàng hóa không khuyến khích, hàng hóa hạn
chế nhập khẩu. Có không ít ý kiến phàn nàn rằng việc đánh loại “thuế hạn chế” này
đối với mặt hàng không ai không dùng, mặt hàng liên quan trực tiếp đến đời sống của
gần 90 triệu dân là cực kỳ vô lý. Khi dự thảo Luật thuế này, Thứ trưởng Bộ Tài chính
lý giải một cách hết sức mơ hồ và thiếu thuyết phục là nhằm “như một nỗ lực thúc đẩy
tiết kiệm năng lượng”. Chúng ta cần xem xét lại loại thuế này đối với xăng dầu.
Xăng dầu là hàng hoá có vai trò đặc biệt trong sản xuất và đời sống nên giá xăng
dầu cần có cơ chế điều tiết bảo đảm ổn định thị trường, cân đối cung - cầu về xăng dầu
cho nền kinh tế. Việc điều tiết cần được hình thành bằng một hệ thống chính sách và
công cụ kinh tế để phát huy vai trò quản lý của Nhà nước và vai trò tự chủ kinh doanh
của các doanh nghiệp, trước hết là đối với những doanh nghiệp lớn trong sản xuất, xuất
- nhập khẩu và phân phối xăng dầu, Nhà nước chỉ điều tiết ở thời điểm cần thiết. Quản
lý thuế nhập khẩu, các khoản phụ thu và giá bán xăng dầu là một nội dung quan trọng
của quản lý giá của Nhà nước. Bất kỳ Nhà nước nào cũng coi xăng dầu là một mặt
hàng chủ yếu đem nguồn thu lớn cho ngân sách qua thu thuế, bao gồm (thuế nhập khẩu,
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thuế môi trường, v.v...). Thông qua các quy
định về thuế, phí, các khoản thu khác, v.v làm công cụ để điều tiết giá bán xăng dầu,
không gây biến động lớn cho nền kinh tế, đồng thời tạo quyền chủ động kinh doanh
cho các doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu; giải quyết hài hoà
lợi ích giữa các bên: Nhà nước, doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu và người tiêu dùng.
Để đảm bảo coi thuế là công cụ hữu hiệu điều tiết giá bán, ổn định được nguồn thu mà
không phụ thuộc vào sự tăng giảm đột biến của giá thế giới, đòi hỏi cơ quan quản lý
Nhà nước sớm ban hành một cơ chế quản lý giá xăng, dầu phù hợp hơn.
189
Trong quá trình điều hành giá xăng dầu, cũng cần so sánh với giá xăng dầu của
các nước trong khu vực và một số nước có nền kinh tế thị trường phát triển, để tránh
hiện tượng buôn lậu qua biên giới và tạo điều kiện khả năng cạnh tranh của doanh
nghiêp trong hội nhập. Tuy nhiên, việc so sánh giá với các nước là tương đối, bởi vì
mỗi nước có những sự khác nhau về mục tiêu trong giá bán xăng dầu. Ví dụ giá xăng
dầu của châu Âu bao giờ cũng cao hơn Mỹ nhiều, bởi vì họ thu thuế môi trường vào
thuế xăng dầu rất cao.
5- Cần rà soát, kiểm tra lại các yếu tố cấu thành giá cơ sở, và định mức hao hụt
của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Nên đưa lợi nhuận định mức ra khỏi công
thức tính giá cơ sở; khống chế mức thù lao cho tổng đại lý và các đại lý xăng dầu; xác
định lại chi phí kinh doanh cho hợp lý. Thời gian tính giá bình quân 30 ngày là chưa
hợp lý. Bởi vì giá xăng dầu thế giới diễn biến phức tạp và biến động thường xuyên.
Theo Luật Doanh nghiệp và các văn bản khác quy định chức năng xây dựng các
định mức kinh tế kĩ thuật thuộc về các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có
hội đồng quản trị. Trên thực tế hiện nay nhiều doanh nghiệp có những định mức hao
hụt khác nhau. Nếu các định mức kinh tế kỹ thuật xây dựng không hợp lý, sẽ làm cho
chi phí tăng lên, ảnh hưởng tới giá bán.
6- Quỹ bình ổn giá xăng dầu là cần thiết, bởi lẽ trong nền kinh tế thị trường hoạt
động kinh doanh luôn biến động và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Song, việc hình thành nguồn
quỹ bình ổn này cần xem xét và nghiên cứu lại. Theo chúng tôi không chỉ hình thành
lấy từ người tiêu dùng thông qua việc trích nộp lại trong giá bán, mà còn phải lấy từ
một tỷ lệ nhất định trong lợi nhuận của doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Vì cần
phải có sự đóng góp công bằng của người tiêu dùng và doanh nghiệp khi có khó khăn.
Cần có sự kiểm tra việc quản lý, sử dụng quỹ này một cách chặt chẽ. Có biện pháp sử
dụng nguồn quỹ này làm sao có hiệu quả như các doanh nghiệp bảo hiểm, không để
quỹ này “nằm chết”. Quỹ này chỉ thực hiện khi giá xăng dầu thế giới xuống thấp hoặc
ở mức trung bình. Trong thời kỳ giá thế giới tăng cao không nên thu vào quỹ này.
Như vậy, việc sửa đổi Nghị định 84/NĐ-CP trong bối cảnh hiện nay là một yêu
cầu cấp thiết.
7- Cần thành lập một bộ phận có đủ năng lực, tin cậy theo dõi sát, kịp thời diễn
biến giá xăng dầu thế giới, đồng thời phân tích, dự báo ngắn, trung và dài hạn giá xăng
dầu thế giới để phục vụ cho việc điều hành giá xăng dầu của Nhà nước.
3- Giá nhà đất
3.1- Thực trạng giá nhà đất
Trong phạm vi của bài này, chúng tôi chỉ đi tập trung vào giá nhà, đất đô thị.
Đây là một vấn đề có tính cấp bách và còn nhiều bất cập.
190
Sau khi ban hành Luật đất đai năm 1993 và được sửa đổi vào năm 1998 và
2003, cùng với việc ban hành nhiều văn bản pháp lý và chính sách cụ thể liên quan đến
đất đai, nhà ở, tạo lập mặt bằng cho sản xuất, tạo lập quỹ phát triển hạ tầng đô thị, quỹ
phát triển nhà ở, v.v đã tạo cơ sở cho sự phát triển thị trường nhà đất ở nước ta.
Theo dõi hoạt động của thị trường nhà đất có thể đánh giá thực trạng về diễn biến giá
nhà, đất ở nước ta thời gian qua và hiện nay như sau:
1- Giá nhà đất ở nước ta thời gian qua biểu hiện rõ nét tính chất đầu cơ, là giá đầu
cơ. Nhà nước chưa có biện pháp hữu hiệu để điều tiết.
Trong những năm qua, Nhà nước chưa có những biện pháp hữu hiệu để ngăn
chặn các hoạt động đầu cơ nhà, đất, để hoạt động này diễn ra khá phổ biến, nhất là ở các
khu đô thị, ven đô thị ở các thành phố lớn. Trong các dự án phát triển n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chinh_sach_dieu_tiet_gia_nhung_hang_hoa_quan_trong_thiet_yeu.pdf