Chuyên đề Bộ trang phục truyền thống của người Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai

Trong quan niệm của người Mông ở Cát Cát, đồ trang sức không chỉ có chức năng thẩm mỹ hay biểu hiện cho sự giầu sang mà còn có tác dụng ngăn chặn ma tà, dịch bệnh, bảo vệ sức khoẻ cho người mang trang sức.

Đồ trang sức cổ truyền của người Mông ở Cát Cát chủ yếu làm bằng bạc, gần đây một số nơi mới sử dụng đồ trang sức bằng hợp kim nhôm, kẽm, đồng. Bộ đồ trang sức của người Mông ở Cát Cát thường có khuyên tai (câux nhas), vòng cổ, (pâux chax đangz), vòng tay (pâux tês), bộ xà tích (lăngx hliaz), nhẫn (ntir blaiz) và răng vàng (nar cul).

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3133 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Bộ trang phục truyền thống của người Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cm, không trang trí hoa văn, gấp làm tư và quấn quanh đầu theo chiều quấn từ trái qua phải. Tuy nhiên, ngày nay, nam giới người Mông ở Cát Cát không dùng khăn đội đầu trong những ngày thường mà chỉ dùng trong những dịp đại sự hay hội hè. - Áo: tiếng Mông gọi là yao. Áo thường phục của nam giới người Mông ở Cát Cát có 2 loại là áo ngắn dài tay và áo khoác cộc tay. + Áo ngắn dài tay: tiếng Mông gọi là yao tês zơưs. Đây là loại áo ngắn nhuộm chàm mầu đen sẫm, dài tay, có viền vải xanh ở cổ tay, xẻ nách, không có cổ, có khuy cài bên cạnh sườn. Áo không có trang trí hoa văn. Ở mặt trong của áo, người ta may thêm một chiếc túi nhỏ với tiết diện ≈ 8 x 10 cm để người mặc cất tiền hay những vật nhỏ gọn. Vị trí may túi là ở thân trước phía bên trái, ngang tầm giữa ngực và bụng người mặc. + Áo khoác cộc tay: tiếng Mông gọi là yao khuôv. Chiếc áo này giống với chiếc áo khoác nữ đã mô tả ở phần trên. Ngày thường, nam giới người Mông ở Cát Cát ít mặc mà chủ yếu mặc vào mùa đông giá rét, mặc đi chơi và mặc vào những dịp đại sự, hội hè. - Quần: tiếng Mông gọi là tris. Quần của nam giới người Mông ở Cát Cát là loại quần may kiểu chân què, cạp rộng kiểu lá toạ, đũng thấp và được may bằng vải lanh nhuộm chàm sẫm nên có mầu đen (đen chàm). Do cạp rộng nên khi mặc được co lại cho vừa với kích cỡ vòng eo của người mặc, phần thừa được giắt sang một bên rồi dùng dây lưng thắt lại cho chặt. - Dây lưng: tiếng Mông gọi là hlangz tris dùng để thắt cạp quần. Nam giới người Mông ở Cát Cát trước kia dùng một dải vải lanh nhỏ mầu đen chàm, có tua ở hai đầu như dây lưng loại mặc hàng ngày của phụ nữ. Nhưng hiện nay họ hầu như không dùng loại dây lưng này nữa mà dùng dây lưng bằng da hoặc giả da mua ở chợ. - Dép: tiếng Mông gọi là khâu. Dép của nam giới người Mông ở Cát Cát cũng giống như dép của nữ giới đã mô tả ở phần trên. 2.2.2. Lễ phục: - Lễ phục mặc trong ngày cưới: Trong ngày cưới, chú rể người Mông ở Cát Cát mặc giống như ngày thường, những là quần áo mới và bắt buộc phải mặc thêm áo khoác ra bên ngoài áo ngắn dài tay. Đầu cuốn khăn 2 lớp: lớp khăn bên trong bằng vải lanh trắng; lớp khăn bên ngoài bằng vải lanh nhuộm chàm đen giống khăn của cô dâu nhưng vành khăn nhỏ hơn, tay cầm khăn mặt. Phù rể ăn mặc giống chú rể. Cũng giống như chú rể, chủ hôn (là đàn ông) và bố chú rể cũng mặc giống như ngày thường nhưng phải là quần áo mới và khoác thêm áo khoác cộc tay ra bên ngoài áo ngắn dài tay. Riêng ông chủ hôn nhà trai còn phải mang theo một cái ô có buộc khăn, trước kia là buộc vải lanh trắng, hiện nay buộc khăn tổ ong tượng trưng cho người con dâu (ý là răn dạy người con dâu sau này sẽ phải chăm chỉ dệt may quần, váy, áo cho chồng và gia đình nhà chồng) và một cái điếu cày tượng trưng cho người con trai (vì con trai sau này sẽ trở thành chủ gia đình và thường phải tiếp khách). Nếu cô dâu trong ngày cưới là gái tân (chưa lấy chồng lần nào) hoặc đã bỏ chồng thì trong lễ hỏi, ông mối nhà trai phải hỏi có cần phải mang ô không. Trường hợp cô dâu trong ngày cưới là người đã từng có chồng và chồng trước đã mất (cô dâu đi tái giá) thì chủ hôn không cần phải mang ô theo. Ngoài ra, chiếc ô còn phải là vật làm tin. Trong lễ ăn hỏi và đám cưới nếu giữa hai họ nhà trai và nhà gái đi đến sự thống nhất, ông chủ hôn nhà gái sẽ nhận chiếc ô do chủ hôn nhà trai trao cho và treo ở bên vách gian giữa phía bàn thờ tổ tiên, gần bên bếp lò; còn nếu không đồng ý thì sẽ treo ở phía đối diện. Khi về đến nhà trai, chiếc ô lại tiếp tục đợc treo như vật ở nhà chú rể cho đến khi tổ chức xong đám cưới những là gần bên bếp khách. - Lễ phục mặc trong đám tang (mặc cho người chết): Khi người đàn ông chết, ông ta vẫn được mặc áo ngắn dài tay ở bên trong, quần, dây lưng như ngày thường nhưng bên ngoài phải mặc áo nữ dài tay (loại áo có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong; tạp dề đen; chân quấn vải lanh trắng (dài một sải rưỡi), đi giày may bằng vải lanh, đế giày được lót bằng mo cau giống như hình cái thuyền, trên đầu có trang trí và thêm biểu tượng mào gà. Mặt có thể đắp khăn đen, đỏ hoặc trắng hoặc không đắp tuỳ từng dòng họ; đầu gối khăn gối đầu. Theo quan niệm về kiếp luân hồi của người Mông, khi người đàn ông chết sẽ lại trở thành đàn bà; ngược lại đàn bà sau khi chết lại trở thành đàn ông nên đàn ông lúc chết phải mặc áo, tạp dề của đàn bà. Theo sự giải thích của cụ Má A Trư, sinh năm 1927, trú tại đội III, thôn Cát Cát thì ngày xưa trong chiến tranh giữa người Hán và người Mông, người Hán chỉ giết đàn ông chứ không giết đàn bà nền đàn ông người Mông khi chết phải cải trang thành đàn bà, mặc áo và để tóc dài như đàn bà để khi đi đường về với tổ tiên mới không bị ma người Hán làm hại. Vì thế cho nên ngày nay đàn ông người Mông ở Cát Cát khi chết vẫn mặc chiếc áo và chiếc tạp dề của phụ nữ. 2.2.3. Trang phục trẻ em: Từ khi đứa trẻ sinh ra cho đến 3 ngày sau - trước khi làm lễ đặt tên, đứa trẻ chưa được mặc áo vì người ta quan niệm lúc này đứa trẻ mới chỉ có xác mà hồn chưa về (Đó là lý do tại sao những đứa trẻ mới sinh ra đã chết thì không được tổ chức đám tang). Trong những ngày này, trẻ sơ sinh được ủ trong một cái tã cắt ra từ cái tạp dề cũ của mẹ mình. Đến ngày thứ ba, gia đình tổ chức lễ đặt tên – ru hồn (gênh plì) cho trẻ. Sau đó đặt tên và mặc áo do người mẹ may cho đứa trẻ. Từ đây, đứa trẻ chính thức là một con người. Nếu chẳng may bị chết cũng được làm đám tang. Nếu có người lạ đến nhà trước khi có người đẻ, sau 3 ngày người đó sẽ được mời đến dùng bữa cơm trong lễ gọi hồn và phải cho đứa bé một sợi dây lanh buộc vào cổ tay để bảo vệ cho đứa bé khoẻ mạnh. Khi đứa trẻ đầy tháng, phải làm lại lễ ru hồn như trên một lần nữa. Lúc này, ông bà ngoại sẽ mang tặng cho vợ chồng con gái một cái địu (nếu bố mẹ không có thì chị gái phải cho). Việc tặng địu chỉ diễn ra một lần khi con gái sinh con đầu lòng; còn những lần sinh tiếp sau thì do người khác tặng hoặc người mẹ tự làm lấy. Khi đứa con được tròn 1 tuổi, vợ chồng con cái phải mổ con lợn khoảng 50 kg mời bố mẹ đẻ đến để làm lễ cảm ơn, mời họ hàng hai bên đến ăn mừng cho đứa trẻ; lễ này được gọi là lễ tạ ơn cái địu (tav hlang nhax). Thầy cúng được mời về nhà làm lễ trước bàn thờ (xưv cangz). Khi có đứa con đầu lòng, người đàn ông mới được công nhận là trưởng thành và được đặt cho tên đệm mới. Lễ đặt tên đệm mới (tên già) của người cha vào dịp con đầu lòng tròn một tuổi và trong lễ tạ ơn cái địu. “Tên già” của người cha sẽ do ông bà ngoại đặt cho. - Địu: tiếng Mông gọi là hlangz nhas hoặc nhas âur nhuôs. Địu của người Mông ở Cát Cát gồm có hai nửa ghép lại với nhau, nửa nhỏ hình chữ nhật rộng khoảng 35 – 37 cm, cao khoảng 25 cm. Nửa to hình vuông rộng khoảng 40 cm, có dây buộc ở phía trên nửa nhỏ hơn. Mỗi nửa gồm hai lớp; lớp ngoài cả hai nửa đều được thêu hoặc in sáp ong, xung quanh viền ghép vải: nửa trên ghép vải đen, nửa dưới ghép vải đỏ. Ở lớp trong: nửa trên là một mảnh vải đen không trang trí hoa văn, nửa dưới có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong giống như nửa dưới lớp ngoài. Khi trời lạnh có thể kéo nửa dưới lớp ngoài đè lên nửa trên lớp ngoài của địu để giữ ấm cho đứa trẻ. Tuỳ theo sự khéo léo của người mẹ mà địu được trang trí các hoa văn khác nhau. Chiếc địu ngoài việc sử dụng để địu con thì trong quan niệm của người Mông ở Cát Cát, nó còn là tượng trưng cho cái kén. Vì thế cho nên trên địu trang trí rất nhiều hoa văn khác nhau như một cái kén bảo vệ cho đứa bé ở bên trong, không để cho con ma làm hại đứa trẻ. Trong thời gian dưới 1 tuổi này, trẻ em người Mông ở Cát Cát còn được làm cho một cái mũ đội đầu và chỉ mặc áo, tã lót, không mặc quần (nếu là con trai) hay váy (nếu là con gái). - Mũ: tiếng Mông gọi là maov. Mũ của trẻ em người Mông được may bằng những mảnh vải nhuộm chàm đen hình tam giác xếp lại với nhau, phần trên chụm lại tạo thành hoa văn chóp mũ. Thân mũ có thêu hoa văn và ghép các đồng xu, hạt cườm. Nếu đứa bé không được khoẻ, bà nội bé còn làm cho bé một cái mũ với trang trí những đồng xu nhỏ bằng bạc, râu dê và túi thuốc hình tam giác may bằng vải – trong túi thuốc có hạt kê, hạt tiêu rừng, thảo quả và nhiều loại hạt khác mà chỉ có người làm túi mới biết (mỗi người có cách sử dụng các loại hạt khác nhau để làm túi thuốc)… Đồng bào cho rằng làm như thế ma nhìn thấy sẽ sợ mà không dám làm hại trẻ con. Trên 1 tuổi, trẻ em người Mông ở Cát Cát mới được cho mặc quần, áo. Từ 3 tuổi trở lên, yếu tố giới tính mới được thể hiện qua trang phục. Theo đó, các em trai được cho mặc áo, quần; các em gái được cho mặc áo, váy và tạp dề. Trang phục của các em hoàn toàn được phỏng theo trang phục của người lớn. Chỉ khác là kích cỡ nhỏ hơn và hoa văn trang trí đơn giản hơn trang phục của người lớn rất nhiều. 2.2.4. Trang phục của thầy cúng: Người Mông ở Cát Cát ngoài tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng đa thần và vạn vật hữu linh còn rât phổ biến loại hình tín ngưỡng phù thuỷ - saman giáo. Thầy saman là những người hành nghề cúng bái mà gọi theo tiếng Mông là chí nênh. Theo quan niệm của người Mông ở Cát Cát, khi cúng (uô nênh), người hành nghề thầy cúng có khả năng đưa mình vào trạng thái hôn mê mà chúng ta vẫn gọi là hiện tượng xuất hồn. Khi đó, thầy cúng có khả năng trực tiếp giao tiếp được với các thế lực siêu nhiên. Thầy cúng có thể là đàn ông hoặc đàn bà. Họ không có bộ y phục riêng khi hành lễ mà vẫn mặc như trong sinh hoạt hàng ngày nhưng có thêm hoặc không có thêm khăn che mặt làm bằng vải đen hoặc giấy bản tuỳ theo họ thuộc loại thầy cúng nào dưới đây: - Thầy cúng trùm khăn (nênh sâu trông hoặc nênh trứ dềnh): Đây là dạng thầy dúng có khả năng nhìn thấy và giao tiếp được với các thế lực siêu nhiên khi che một tấm vải đen hoặc một tờ giấy bản trước mắt trong lúc cúng. Tấm vải hoặc tờ giấy này có tác dụng đưa người thầy cúng thoát ra khỏi thế giới trần tục để đi vào thế giới siêu nhiên. Thầy cúng ở dạng này thường truyền nghề trong nội bộ gia đình từ đời này sang đời khác (cha truyền con nối). Điều đó có nghĩa là trong một gia đình nào đó nếu thế hệ trước có ít nhất một người làm thầy cúng thì thế hệ sau trong gia đình đó thế nào cũng có ít nhất một người kế tục. Trong trường hợp một người nào đó đang bình thường mà tự nhiên rung lên bần bật, hai chân đập mạnh xuống đất và tạo ra những âm thanh như tiếng vó ngựa, mắt nhắm nghiền lại và miệng nói liên hồi những lời không ai hiểu là gì và không thể nào dừng lại được kể cả khi có ai đó đập mạnh vào người thì có nghĩa là người ấy đang bị hồn của thầy cúng đã mất về rủ đi làm thầy cúng và đó cũng là hồn thầy cúng đã mất đang dạy cho người đó cách làm cúng. Trường hợp người này cứ tái diễn như vậy nhiều lần chứng tỏ hồn thầy cúng đã mất quyết chí chọn người này làm người kế nghiệp của mình. Gặp trường hợp như vậy, người “có duyên” phải mời thầy cúng về làm lễ, lập bàn thờ và trở thành thầy cúng, hướng dẫn cho “người mới vào nghề” về thế giới siêu nhiên. - Thầy cúng không trùm khăn: tiếng Mông gọi là nênh mùa đơ hoặc nênh cớ công. Thầy cúng ở dạng này không có khả năng nhìn thấy linh hồn và các thế lực siêu nhiên nên khi cúng không được dùng khăn hoặc giấy bản để che mặt. Họ biết nghề là do học được ở những thầy cúng trùm khăn. Họ có thể được nâng thêm cấp bậc theo thời gian nhưng không bao giờ có thể trở thành thầy cúng trùm khăn được. 3. ĐỒ TRANG SỨC Trong quan niệm của người Mông ở Cát Cát, đồ trang sức không chỉ có chức năng thẩm mỹ hay biểu hiện cho sự giầu sang mà còn có tác dụng ngăn chặn ma tà, dịch bệnh, bảo vệ sức khoẻ cho người mang trang sức. Đồ trang sức cổ truyền của người Mông ở Cát Cát chủ yếu làm bằng bạc, gần đây một số nơi mới sử dụng đồ trang sức bằng hợp kim nhôm, kẽm, đồng. Bộ đồ trang sức của người Mông ở Cát Cát thường có khuyên tai (câux nhas), vòng cổ, (pâux chax đangz), vòng tay (pâux tês), bộ xà tích (lăngx hliaz), nhẫn (ntir blaiz) và răng vàng (nar cul). 3.1. Khuyên tai: Khuyên tai - gọi theo tiếng Mông là câux nhas. Đây là loại trang sức chỉ dành riêng cho phụ nữ. Khuyên tai của người Mông khá to, hình tròn hoặc gần tròn, chu vi khoảng 12 – 15 cm, tiết diện bẹt, có 2 đầu, to bản ở giữa và một đầu; còn đầu bên kia thì hẹp. Khuyên tai của người Mông ở Cát Cát có 5 loại: - Loại có hình dáng như dấu hỏi gọi là “…”: Loại này có dáng cách điệu, thanh mảnh nên thường được các thiếu nữ ưa chuộng, đặc biệt là với những người có khuôn mặt bầu tròn khi đeo loại khuyên tai có hình dáng này sẽ làm cho khuôn mặt trông có vẻ thon dài, cân đối hơn. Loại này nếu được mua ở chợ huyện sẽ có giá là …/đôi (đối với loại làm bằng bạc) và …/đôi (đối với loại làm bằng nhôm). - Loại khuyên tai có 3 đường xoắn ốc giống kiểu ốc xên gọi là “…”: Đây cũng là loại khuyên tai cách điệu nên cũng được các thiếu nữ thường dùng. Ngược lại với loại trên, loại khuyên tai này do có dạng chảy dài nên phù hợp với những khuôn mặt có dạng thon dài nên khi đeo, nó sẽ làm cho khuôn mặt người đeo trở lên tròn, mập hơn. Loại này được bán ở chợ huyện với giá …/đôi (đối với loại làm bằng bạc) và …/đôi (đối với loại làm bằng nhôm). - Loại khuyên tai có hình trăng lưỡi liềm gọi là “…”: Loại khuyên tai này được cả các thiếu nữ và phụ nữ trung niên ưa dùng bởi nó phù hợp với nhiều dạng khuôn mặt ở các lứa tuổi từ 25 – 40. Loại này được bán ở chợ huyện với giá …/đôi (đối với loại làm bằng bạc) và …/đôi (đối với loại làm bằng nhôm). - Loại khuyên tai có hình tròn, mỏng, mặt có khắc hoa văn hình học gọi là “…”: Loại này không được giới trẻ ưa chuộng nhưng lại được các phụ nữ trung niên ưa dùng vì trông nó chững trạc, đứng đắn. Hơn nữa, nó lại làm tôn thêm vẻ lịch lãm, mặn mà của người đeo. Loại này được bán ở chợ huyện với giá …/đôi (đối với loại làm bằng bạc) và …/đôi (đối với loại làm bằng nhôm). - Loại khuyên tai hình tròn có gắn thêm miêng bạc đánh theo hình chìa khoá có treo một số vòng xích gọi là “…”: Đây là loại khuyên tai thường được sử dụng bởi những người phụ nữ trên 40 tuổi trở lên. Loại khuyên tai này thường nặng nên khi đeo, nó kéo xệ rái tai của người đeo xuống. Có những cụ bà người Mông đeo khuyên tai này lâu ngày, rái tai xệ xuống đến gần ngang má làm cho khuôn mặt càng thêm phần phúc hậu. Loại khuyên tai này được bán ở chợ huyện với giá …/đôi (đối với loại làm bằng bạc) và …/đôi (đối với loại làm bằng nhôm). Đặc điểm chung nhất của các loại khuyên tai kể trên là khuyên tai để hở và có móc ở hai đầu; đầu lớn có 2 móc: một móc ngoặc ra ngoài vòng tròn và một móc ngoặc vào trong giống như hai con ốc xoáy theo chiều từ nhỏ đến lớn. Đường kính vòng lớn thường khoảng 1 cm, còn đường kính vòng nhỏ chỉ khoảng 0,2 – 0,3 cm để có thể dễ dàng luồn vào lỗ sâu khuyên ở dái tai. Đầu nhỏ đeo vào tai, khi đeo người ta thường xâu từ phía sau ra phía trước. Người Mông ở Cát Cát quan niệm rằng nếu người phụ nữ không đeo khuyên tai là tự làm mất đi vẻ đẹp của mình. Bé gái khi mới được 2 – 3 tuổi đã được bố mẹ xâu lỗ tai. Đến khoảng 7 – 8 tuổi sẽ bắt đầu đeo khuyên tai. Trẻ em chưa đến tuổi trưởng thành thường chỉ đeo một đôi khuyên tai. Đến tuổi trưởng thành, mỗi phụ nữ Mông có thể đeo từ 2 – 4 đôi khuyên tai, tuỳ theo điều kiện kinh tế và sở thích của từng người. 3.2. Vòng cổ: Vòng cổ - gọi theo tiếng Mông là pâux chax đangz. Đây là loại trang sức dùng cho cả phụ nữ và nam giới; gồm có nhiều loại như: loại vòng có 2 đầu chim mỏ dài được khắc hoạ đặc tả ở cặp mắt, mỏ. Loại vòng cổ hình trăng lưỡi liềm được khắc hình con bướm, hình xoáy ốc… Mỗi chiếc vòng cổ thường có tiết diện rộng từ 3 – 5 cm, đường kính chu vi khoảng từ 45 – 50 cm. Trên mặt nhiều chiếc vòng được khắc mô típ xoáy ốc ở trung tâm, các hoa lá ở hai bên và các rìa cạnh hoa văn, khắc vạch hình tam giác. Xung quanh chiếc vòng có gắn thêm các sợi tua bạc hình hoa bí. Nhiều vòng cổ còn có dây xích toòng teng gắn xung quanh. Đặc biệt xưa kia có người còn đeo loại dây xích dài đến tận thắt lưng. Thường ngày, đàn ông ít khi đeo vòng cổ, phụ nữ chỉ đeo một chiếc. Đôi khi trong các dịp lễ tết, cưới xin cả đàn ông và đàn bà thường đeo từ 2 – 7 chiếc. Vòng cổ được người Mông ở Cát Cát đeo trên cổ suốt cả ngày lẫn đêm. Vòng đeo thường ngày chỉ có một chiếc, còn vòng đeo vào ngày hội hay tết có từ hai đến bảy chiếc. Cả con gái lẫn con trai đều đeo vòng như nhau. Vì vậy, vòng cổ được coi là thứ đồ trang sức cả ngày thường lẫn ngày hội của người Mông ở Cát Cát. 3.3. Vòng tay: Vòng tay - tiếng Mông gọi là pâux tês. Đây cũng là loại trang sức dành cho cả đàn ông và đàn bà, người già và người trẻ cũng như cả trẻ em. Vòng tay truyền thống của người Mông ở Cát Cát có hai loại: loại vòng bản dẹt và loại vòng có tiết diện tròn. Loại vòng tay bản dẹt có bề mặt vòng rộng khoảng 1,5 – 2 m, trên mặt vòng khắc hình hoa lá, hình con bướm… theo lối tả thực. Loại vòng tay này được sử dụng ít hơn loại có tiết diện tròn. Loại vòng tay có tiết diện tròn được đeo nhiều và ngày càng phổ biến hơn. Trong những ngày thường, người phụ nữ Mông thường chỉ đeo một đôi vòng tay, còn trong ngày lễ họ có thể đeo 2 – 3 đôi. Vòng tay đa dạng hơn so với vỏng cổ và được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau: bạc, đồng đỏ, đồng thau và nhôm. Trong đó, vòng bạc trước đây phổ biến hơn cả. Nay do nguyên liệu bạc khan hiếm, vòng nhôm và đồng đỏ, đồng thau dần chiếm ưu thế. Vòng bằng đồng được đúc một cách cầu kỳ hơn, trên bề mặt nhấp nhô và không trơn như vòng bạc. Vòng tay bằng đồng cũng thường do người thợ Mông tự làm (nếu không là người trong thôn thì cũng là người ở các thôn lân cận). Do quan niệm đeo vòng không chỉ cho đẹp mà còn có tác dụng trừ ma nên người phụ nữ Mông khi có thai thường đeo để không cho ma tà xâm nhập làm hại thai nhi. Ngoài ra, người Mông ở Cát Cát cũng có loại vòng đồng rất mỏng, thường chỉ đeo cho đẹp. Vòng tay bằng nhôm cũng được người Mông ưa thích, những vòng tay này do các thợ người Mông tự làm hoặc mua của người Kinh ở chợ. 3.4. Nhẫn: Nhẫn - tiếng Mông gọi là ntir blaiz là loại trang sức được cả nam giới và nữ giới người Mông ở Cát Cát ưa chuộng. Nhẫn được làm bằng bạc, đồng, nhôm và cá biệt có cả nhẫn làm bằng vàng. Đồng bào thường đeo nhẫn ở ngón tay trỏ của bàn tay trái. Nhẫn của người Mông ở Cát Cát có 2 loại là loại nhẫn có tiết diện tròn và loại nhẫn có tiết diện dẹt. Trong đó: - Loại nhẫn có tiết diện tròn là dấu hiệu của những người còn độc thân (trai chưa vợ, gái chưa chồng) hoặc đã goá vợ/chồng và đang có ý định tái giá. Người phụ nữ có chồng thường đeo hai nhẫn trên một ngón tay. - Loại nhẫn có tiết diện dẹt chỉ dành riêng cho phụ nữ. Mặt nhẫn là một miếng bạc hình thoi dài khoảng 3 – 4 cm, trên mặt nhẫn có trạm khắc trang trí hình hoa lá, con bướm theo lối tả thực giống như loại vòng tay bản dẹt. 3.5. Răng vàng: Nam nữ người Mông ở Cát Cát nhìn chung thích trồng răng vàng, kể cả những thanh niên nam nữ. Gọi là răng vàng vì răng có ánh màu vàng, nhưng trên thực tế đó chỉ là một thứ hợp kim được pha chế từ nhiều kim loại khác nhau rồi được đúc giống như một chiếc răng thực nhưng rỗng ở giữa để lắp (bọc) vào răng thật. Người Mông ở Cát Cát khi đến tuổi trưởng thành mới bọc răng vàng. Họ thường thích bọc hai chiếc răng vàng ở hai phía đầu hàm răng trên. Do trong cộng đồng người Mông ở Cát Cát cũng như ở các thôn, xã lân cận không có người làm nghề trồng răng nên đồng bào thường phải ra thị trấn hoặc xuống thành phố để trồng răng vàng. 3.6. Vòng chân: Đối với người Mông ở Cát Cát, vòng chân thực tế không phải là vật trang sức thuần tuý (mặc dù nó cũng có chức năng làm đẹp nhưng đó chỉ là chức năng phụ ngoài ý muốn của người đeo). Đây là loại trang sức liên quan đến hệ thống tín ngưỡng của người Mông, chỉ dùng để đeo cho người ốm trong trường hợp thầy cúng xem bói xong và phán là người ốm phải đeo vòng chân mới hết bệnh. Lúc đó, gia đình người ốm mới đi đặt làm vòng chân về để thầy cúng (thầy saman) làm lễ cúng chữa bệnh cho người ốm. Vòng chân của người Mông ở Cát Cát có hai loại: Loại thứ nhất được làm bằng đồng và nhôm hoặc đồng và bạc xoắn lại với nhau. Họ làm vậy để cho chiếc vòng có nhiều mầu khác nhau giống như hình con rắn. Theo quan niệm dân gian của người Mông ở Cát Cát, chiếc vòng như vậy có tác dụng trừ ma và khi đeo vào chân sẽ làm thay đổi hình dạng người ốm, ma không nhớ được người đó. Do vậy mà không làm hại người đeo vòng được. Loại thứ hai được làm bằng bạc hoặc nhôm, đánh thành các vòng tròn nhỏ, móc vào nhau như sợi dây xích, dùng để đeo khi bị đau chân hay mắc các bệnh tê thấp. Vòng không rộng, chỉ vừa khít chân của người ốm. Trước khi đeo vòng chân, người ta phải làm lễ cúng, có thầy saman đuổi ma ra khỏi nhà, sau đó tự tay thầy saman sẽ đeo vòng vào chân của người bị ốm. 3.7. Vòng vía: Vòng vía của người Mông ở Cát Cát được dùng để đeo cho trẻ sơ sinh, khi trẻ bị ốm và cho người lớn. Vòng vía cho người lớn và trẻ bị ốm thường là vòng được làm từ ba dây: đồng, bạc và sắt xoắn lại với nhau. Theo quan niệm của người Mông ở Cát Cát, ma quỷ thường đi theo đường thẳng, nếu đeo vòng xoắn thì ma quỷ sẽ không xâm nhập vào cơ thể được mà chúng sẽ bị mắc lại trong những chỗ xoắn của vòng vía. Căn cứ vào vị trí đeo vòng, chúng ta có thể phân chia vòng vía của người Mông ở Cát Cát thành 3 loại là vòng chân, vòng cổ và vòng tay. Căn cứ vào cách đeo vào hay tháo ra của vòng, chúng ta chia vòng vía của người Mông ở Cát Cát thành 2 loại là vòng kín và vòng hở. Vòng kín là loại vòng không có chỗ mở; khi đeo phải chui qua cơ thể người ở bộ phận đeo vòng (cổ, cổ tay hoặc cổ chân). Vòng hở là loại vòng có thể mở ra, đóng vào. Hai đầu vòng được buộc bằng những sợi vải khác nhau và cũng được làm xoắn lại. Khi đeo phải cởi dây vải ra và luồn vào cổ, cổ tay hoặc cổ chân người ốm. Khi đã luồn xong mới buộc dây lại. Lúc này, vòng hở trở thành vòng kín, ma không xâm nhập được vào cơ thể để làm hại người ốm và hồn vía người ốm không đi ra ngoài được. Người ốm không được tự đeo vòng vía cho mình mà phải mời thầy cúng về làm lễ và đeo vòng cho. Vòng vía cho những đứa trẻ sơ sinh được làm bằng bạc trắng với kiểu dáng giống vòng của người lớn nhưng kích thước nhỏ hơn. Một sự khác biệt cơ bản nữa của vòng vía của trẻ sơ sinh so với vòng vía của người lớn là vòng của trẻ bao giờ cũng có thêm những túi vải nhỏ hình tam giác bằng vải chàm đen, trong có chứa một số loại hạt mà chỉ có người làm túi đó mới biết bên trong đó là những hạt gì và không bao giờ người ta nói ra. Túi này được người ta quan niệm là túi thuốc, túi vía, túi đựng hồn. Túi này được buộc vào vòng vía cho trẻ nhỏ. Những người bị ốm đau nặng đôi khi cũng được đeo những chiếc vòng vía có buộc những cái túi như vậy nếu như thầy cúng phán là phải đeo. Ngoài ra, một số người khi đi chơi hội, đi chơi chợ, đi đám cưới còn đeo thêm một bộ xà tích bên hông (Xà tích gọi theo tiếng Mông là lăngx hliaz). Đó là một tổ hợp gồm vài dây xích, một con dao nhỏ, vài dây toòng teng, nhíp kim loại và vài cái “tăm” kim loại… Xà tích trước đây chủ yếu làm bằng bạc. Nay được thay thế nhiều bằng nhôm hoặc inox. Hoa văn trên đồ trang sức của người Mông ở Cát Cát rất đa dạng với nhiều kiểu loại. Vòng cổ có các kiểu: loại có 2 đầu chim mỏ dài được khắc hoạ đặc tả ở cặp mắt, mỏ. Loại có hình trăng lưỡi liềm được khắc hình con bướm, hình xoắn ốc. Một số khác khắc hình hoa lá, hình tam giác ở hai bên và rìa cạnh. Khuyên tai có trang trí giống như hình dấu hỏi, hoặc hình ốc ở đầu. Trên khuyên tai thường khắc hình quạt, đồi núi, lá cây hoặc hình mặt trăng, mặt trời… Vòng tay thường khắc hình hoa lá, hình con bướm cách điệu. Loại vòng tay tiết diện tròn phổ biến hơn nhưng lại không có hoa văn trang trí. Nhẫn của phụ nữ thường được chạm khắc hình hoa lá, hình con bướm… còn nhẫn của nam giới lại thường để trơn, không tra trí. 4. Ý NGHĨA CỦA VIỆC SỬ DỤNG TRANG PHỤC TRONG MỘT SỐ NGHI LỄ ĐẶC BIỆT CỦA NGƯỜI MÔNG Ở CÁT CÁT Việc chế tác trang phục cổ truyền của người Mông ở Cát Cát là một hoạt động nội tại trong đời sống tộc người, mang nội dung văn hoá phong phú, đa dạng; tạo ra những vật phẩm mang yếu tố văn hoá cộng đồng. Đó là thành quả của quá trình lao động lâu dài, bền bỉ, khéo léo, là một phần trong quá trình tạo ra những giá trị văn hoá của đồng bào trong môi trường tự nhiên và không gian xã hội cụ thể. 4.1. Trang phục trong cơ cấu kinh tế cổ truyền Trang phục là kết quả cuối cùng của một quy trình sản xuất với các công đoạn kỹ thuật khác nhau, được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp thủ công. Trang phục có thể tạm tính được bằng công thức như sau: Trang phục = nguyên liệu + Công cụ thủ công + Sức lao động cơ bắp và khoa học + Kỹ năng được rèn luyện qua thực tiễn. Trong cơ cấu kinh tế truyền thống của người Mông ở Cát Cát, các nghề thủ công tuy không phải là ngành nghề chính, chỉ mang tính chất bổ trợ nhưng lại chúng nằm trong một chỉnh thể, có vai trò quan trọng và không thể thiếu được. Các thành viên của cộng đồng người Mông nơi đây, đặc biệt là những người phụ nữ, vừa là những người nông dân thực thụ giỏi việc nương rẫy, lại vừa là thợ thủ công lành nghề. Thông qua trang phục của họ, chúng ta có thể thấy ở họ về trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, nghệ thuật tài hoa và những ý tưởng mà họ gửi gắm thông qua các hoạ tiết hoa văn trang trí trên trang phục. CŨng như nhiều ngành thủ công các, các kỹ năng làm ra trang phục, cách sử dụng và nghệ thuật trang trí trang phục được các thế hệ người Mông trao truyền, tiếp nối. Đây chính là một hình ảnh của mô hình giá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTrang phục truyền thống của người Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.doc
Tài liệu liên quan