Lời nói đầu 1
Chương I 2
Thương mại quốc tế và chính sách thúc đẩy xuất khẩu 2
i. thương mại quốc tế và vai trò của nó đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. 2
1- Ý nghĩa của thương mại quốc tế. 2
2. Vai trò của thương mại quốc tế đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. 2
II. Vị trí, vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển của một quốc gia. 3
1. Vị trí của xuất khẩu hàng hoá. 3
2. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với nền kinh tế quốc dân. 4
2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 5
2.2 Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển. 5
2.3 Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. 6
2.4 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước. 6
III. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu. 7
1. Vì sao phải có chính sách thúc đẩy xuất khẩu. 7
1.1 Những khó khăn của hoạt động xuất khẩu. 7
1.2 Những yêu cầu đặt ra cho hoạt động xuất khẩu. 8
1.2.1 Xuất khẩu phải ra sức khai thác có hiệu quả nguồn lực của đất nước. 8
1.2.3 Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng kim ngạch xuất khẩu. 8
1.2.4 Tạo ra những mặt hàng xuất khẩu chủ lực đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng, với chất lượng cao khối lượng lớn và có khả năng cạnh tranh cao. 8
1.3 Những nhân tố quốc tế và khu vực. 9
2. Mục tiêu của chính sách thúc đẩy xuất khẩu. 10
3. Kinh nghiệm của các nước khi áp dụng một số chính sách thúc đẩy xuất khẩu. 11
47 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1217 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Các biện pháp phát triển thị trường hàng xuất khẩu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g lực tiếp thu công nghệ và có điều kiện tạo ra nhiều việc làm mới. Tuy nhiên khoảng 68% vốn đầu tư nước ngoài là từ các nước trong khu vực như các nước NICs, Đông á, ASEAN và Nhật Bản đã chiếm 60% vốn FDI. Các nước ASEAN chiếm 24,8% trong đó Singapore chiếm 17,14%, các nước ASEAN còn lại chỉ chiếm 7,67%.
Nhóm G7 đã có 24,4% số dự án và 22,1% vốn FDI đăng ký tại Việt Nam, trong đó Nhật Bản chiếm 12% dự án và 10,2% vốn FDI, các nước G7 còn lại chỉ chiếm 12,4% dự án và 11,9% vốn FDI.
Trong giai đoạn đầu, đầu tư nước ngoài chủ yếu bao gồm các dự án vừa và nhỏ của Đài Loan, Hồng Kông nhưng sau chuyển sang các dự án có quy mô lớn hơn của các công ty đa quốc như Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ và Tây Âu.
- Các hình thức đầu tư ngày càng đa dạng hơn, việc khuyến khích đầu tư theo hình thức BOT, BTO, BT và đầu tư vào các khu công nghiệp và các khu chế xuất đã mở rộng khả năng thu hút các nguồn vốn FDI mới.
Hình thức đầu chủ yếu hiện nay là doanh nghiệp liên doanh, chiếm 61% số dự án và 70% vốn đầu tư. Do chính sách của Việt nam là đối xử công bằng giữa doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh và kèm theo là việc tin tưởng vào môi trường đầu tư ở Việt nam nên những năm gần đây đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài tăng lên . Nếu tính theo vốn đầu tư thì tính đến cuối tháng 6 năm 2001 các dự án liên doanh chiếm 70%, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 20%, 10% còn lại là các hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Nhận thức được vai trò ngày càng quan trọng của các khu chế xuất, khu công nghiệp trong việc khuyến khích đầu tư trong nước và ngoài nước, phục vụ CNH - HĐH và khuyến khích xuất khẩu. Chính phủ đã ban hành nghị quyết 36/CP ngày 24/4/1997 về quy chế KCX, KCN và khu công nghệ cao. Đến cuối tháng 7 năm 2001,Việt nam đã có 54 KCN - KCX trong đó 48 KCN - KCX đã đi vào hoạt động, phân bố rộng khắp nơi từ bắc vào nam. Trong số 54 KCN ( không kể KCN Dung Quất thuộc dạng đặc biệt ) có 20 KCN mới hiện đại, trong đó có 13 KCN hợp tác với nước ngoài để phát triển hạ tầng, 34 KCN thành lập trên cơ sở đã có một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động. Đến hết tháng 6/2001 trên các KCN đã có 609 doanh nghiệp hoạt động vốn đầu tư khoảng 5,8 tỷ USD, vốn thực hiện 3,5 tỷ USD, thu hút 120 nghìn lao động, 6 tháng đầu năm 2001 các KCN đã đạt giá trị sản xuất công nghiệp 890 triệu USD, xuất khẩu 552 triệu USD.
Bên cạnh các kết quả đạt được, đầu tư nước ngoài tại Việt nam còn có những mặt hạn chế và những vấn đề mới nảy sinh.
Một là : cơ cấu đầu tư nước ngoài tại Việt nam chưa hợp lý, 10 năm qua, các dự án ĐTNN tại Việt nam mới tập trung vào một số địa bàn và những ngành có khả năng thu hồi vốn nhanh, ít rủi ro và cơ sở hạ tầng khá.
Hai là: hiệu quả đầu tư chưa cao và không đồng đều, một số dự án đã đi vào hoạt động 3 - 4 năm nhưng vẫn bị thua lỗ. Nguyên nhân lỗ vốn có nhiều, song có yếu tố đáng cảnh báo là chi phí vật chất và khấu hao TSCĐ quá lớn do định giá máy móc thiết bị nước ngoài đưa vào liên doanh quá cao so với thực tế.
Ba là: khu vực có vốn FDI chưa phát huy được tiềm năng và thế mạnh về xuất khẩu, tỷ lệ đóng góp vào ngân sách còn hạn chế. Tuy khối lượng xuất khẩu của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu có tăng dần qua các năm nhưng vẫn nhỏ hơn nhiều so với tỷ trọng nhập khẩu của khu vực này so với tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước dẫn đến thâm hụt thương mại kéo dài.
Bốn là: mô hình KCN, KCX tuy có nhiều ưu điểm, nhưng sự phát triển trong 10 năm qua, mô hình này ở Việt nam cũng xuất hiên nhiều những yếu tố hạn chế. Trước hết, đó là xu hướng phát triển tràn lan không theo quy hoạch chạy theo số lượng mà không tính đến hiêụ quả.
Năm là: luồng vốn FDI vào Việt nam tăng qua các năm nhưng từ năm 2000 đến nay suy giảm rõ rệt do tác động của khủng hoảng kinh tế trong khu vực.
ii. các chính sách tài chính tín dụng.
Đi kèm với các biện pháp thúc đẩy đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu Chính phủ cũng khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu bằng các biện pháp tài chính và tín dụng.
Thuế:
Hàng hoá xuất khẩu là hàng hoá thuộc diện ưu đãi về thuế (luật thuế xuất khẩu). Các hàng hoá là vật tư nguyên liệu gia công cho nước ngoài rồi xuất khẩu theo hợp đồng thì không phải chịu thuế nhập khẩu hoặc phải chịu thuế rất thấp.
Nhập khẩu thiết bị máy móc phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế.
Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được hoàn lại thuế doanh thu trả cho nguyên phụ liệu và bán thành phẩm đầu vào. Các cơ sở sản xuất nếu xuất khẩu trên 50% sản phẩm hoặc có doanh thu xuất khẩu chiếm trên 50% tổng doanh thu được miễn thuế lợi tức bổ sung.
Thuế xuất khẩu gạo, cao su, than đá, thuỷ sản, được hạ xuống 0% từ ngày 1/1/2001. Thời hạn nộp thuế nhập khẩu vật tư, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu được điều chỉnh từ 3 tháng lên 9 tháng.
Quỹ thưởng xuất khẩu đã được thành lập và đi vào hoạt động theo quyết định số 764/QĐ-TTg ngày 24/8/1998 của thủ tướng Chính phủ. Đợt xét thưởng đầu tiên vào quý II năm 2002. Đối tượng xét thưởng bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để khuyến khích họ tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của ta.
Về tiêu chuẩn thưởng bộ Thương mại đã chú trọng đến việc nâng cao tỷ lệ hàng hoá có tỷ lệ chế biến và hàm lượng nội địa cao.
Chính phủ đã giao Bộ Tài chính dự thảo phương án thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu, giao ngân hàng nhà nước dự thảo đề án thành lập quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu và giao Bộ Kế hoạch và đầu tư chủ trì xây dựng cơ chế để các doanh nghiệp Việt nam thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh hoặc mạng lưới tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài.
Các ngân hàng nước ta hiện nay cũng đang làm 2 nhiệm vụ quan trọng nhằm bảo đảm cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhanh chóng có vốn, thiết bị để sản xuất đó là:
+ Bảo lãnh chứng từ thương mại là việc doanh nghiệp có thể đổi chứng từ lấy tiền mặt tại ngân hàng, thông báo L/C ngay sau khi giao hàng mà không phải đợi chuyển tiền. Việc này giúp cho các doanh nghiệp nhanh chóng có tiền để tiếp tục đầu tư vào sản xuất kinh doanh tránh tình trạng để ngưng trệ vì thiếu vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Bảo lãnh tiền vay máy móc vật tư phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là việc làm hữu hiệu tạo ra điều kiện cho các doanh nghiệp có thể nhanh chóng có được máy móc thiết bị để đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Để giảm bớt tác động do sự thay đổi tỷ giá các đồng tiền trong khu vực, Ngân hàng nhà nước Việt nam thay đổi tỷ giá chính thức xấp xỉ với tỷ giá hiện hành trên thị trường tự do và tương ứng với tỷ giá thực. Việc điều chỉnh tỷ giá này có tác dụng làm tăng thêm sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam trên thị trường thế giới
III. Chính sách tự do hoá thương mại.
Tự do hoá thương mại là một điều kiện cần thiết mà các nước muốn tham gia hội nhập kinh tế đều phải thực hiện. Tự do hoá thương mại giúp cho hệ thống trao đổi ngoại thương của toàn cầu được thông suốt. Đối với Việt nam tự do hoá thương mại có hai ý nghĩa.
Thứ nhất, Việt nam thực hiện tự do hoá thương mại để hoà nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Thứ hai, tự do hoá thương mại là một phần quan trọng của chương trình “chuyển đổi tín dụng cơ cấu mở rộng (ESAF) của IMF ” và chương trình “chuyển đổi cơ cấu (SAC) của WB ” để có thể vay tiền của các tổ chức này.
Trong hoạt động xuất khẩu, chính sách tự do hoá thương mại được thể hiện ở các mặt sau:
1. Cải cách thủ tục kinh doanh xuất nhập khẩu.
Trước đây một doanh nghiệp muốn có quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cần phải có 3 loại giấy phép: giấy phép thành lập doanh nghiệp, giấy phép kinh doanh và giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ Thương mại cấp. thủ tục làm các loại giấy phép này rất rườm rà mất nhiều thời gian.
Năm 1994-1995 số giấy phép cần thiết đã giảm xuống còn 2 loại đó là giấy phép kinh doanh và giấy phép thành lập doanh nghiệp. Nhưng cho đến nay Chính phủ đang xem xét bổ xung các điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp như không cần đăng ký thêm mặt hàng xuất khẩu chưa đăng ký tại giấy phép kinh doanh, bãi bỏ hoàn toàn giấy phép xuất khẩu chuyến. Tiến tới cho phép xuất khẩu trực tiếp hoặc tham gia các hiệp hội xuất khẩu nếu các doanh nghiệp có khả năng về vốn, thị trường, nhân sự (theo nghị quyết trung ương 4 ngày 29/12/1997)
Nghị định 57/NĐ-CP/1998 của Chính phủ đã mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu cho tất cả các doanh nghiệp nhưng hiện nay vẫn tồn tại một số vướng mắc do phạm vi kinh doanh XNK được diễn giải theo nội dung của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Ngành hàng trong giấy này được ghi hết sức khác nhau bởi rất nhiều cơ quan được quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nhưng lại không có một quy định thống nhất nào về cách ghi ngành hàng. Khi ra đến cửa khẩu, nếu không có ngành hàng phù hợp, doanh nghiệp lại phải quay về bổ sung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Việc bổ sung tuy đơn giản nhưng cũng tốn khá nhiều thời gian và gây nên những chậm trễ, phiền hà không đáng có.
Để giải quyết dứt điểm tình trạng này, trong thời gian tới Chính phủ cho phép thay đổi cách ghi ngành hàng tronh giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp Việt nam. Cụ thể, doanh nghiệp chỉ cần đăng ký kinh doanh thương mại là được quyền kinh doanh xuất nhập tất cả các mặt hàng trừ những mặt hàng mà nhà nước cấm kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện. Cách ghi này sẽ giải toả được nhiều vướng mắc ở cửa khẩu trong khi vẫn đảm bảo sự quản lý của nhà nước về phạm vi kinh doanh thương mại.
Song song với việc thay đổi cách ghi ngành hàng trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp Việt nam đề nghị Chính phủ cho phép Bộ thương mại được mở rộng thêm phạm vi được phép kinh doanh xuất khẩu cho khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cụ thể, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được quyền mua để xuất khẩu hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu tất cả các mặt hàng trừ gạo, hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường có quota, cà phê nhân và khoáng sản (những mặt hàng này vẫn chỉ được phép xuất khẩu theo giấy phép đầu tư).
2. Hạn ngạch xuất khẩu
Trong xu thế tự do hoá thương mại ngày nay, Chính phủ các nước ít sử dụng công cụ hạn ngạch. Tuy nhiên ở Việt nam vẫn có một số mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu hoặc cần có sự quản lý của nhà nước
Trước đây, số mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch lên tới 16-17 mặt hàng nhưng từ năm 1999 trở lại đây chỉ còn lại hai mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch đó là gạo và hàng dệt may( vào EU, Canada, Thổ nhĩ kỳ, Nauy..)
Trong những năm gần đây, chính sách quản lý xuất khẩu của nước ta có xu hướng: Giảm tối đa các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch; từng bước đơn giản hoá chế độ quản lý xuất khẩu bằng hạn ngạch.
3. Chính sách thuế
Để khuyến khích mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu hơn nữa, tháng 2/1998 Chính phủ đã ra quyết định về việc đổi thuế doanh thu, thuế lợi tức đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu như sau:
+ Hoàn thuế doanh thu cho doanh nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu và bán thành phẩm bán cho đơn vị khác để sản xuất hàng xuất khẩu.
+ Không thu thuế lợi tức bổ sung đối với các cơ sở sản xuất nếu xuất khẩu 50% sản phẩm sản xuất ra hoặc có doanh thu từ xuất khẩu chiếm trên 50% tổng doanh thu.
+ áp dụng thuế xuất nhập khẩu trong khung thuế suất đối với một số mặt hàng cần khuyến khích xuất khẩu như gạo, thuỷ sản, cao su, than đá..
+ Cho phép kéo dài thời hạn nộp thuế nhập khẩu đến 1 năm đối với vật tư, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Với những cố gắng trong việc thực hiện chính sách tự do hoá thương mại của Chính phủ Việt nam, các doanh nghiệp đã có một hành lang pháp lý rộng rãi hơn để thực hiện kinh doanh xuất nhập khẩu, góp phần nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu.
iv. chính sách cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Từ năm 1990 đến nay có thể xem văn kiện Đại hội Đảng VII năm 1994 là một bước quan trọng trong việc đổi mới chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Trong đó sự đổi mới quan trọng nhất là việc chuyển từ chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang chính sách chú trọng tới 3 chương trình kinh tế ưu tiên “Chương trình sản xuất lương thực và thực phẩm, chương trình phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và chương trình phát triển hàng xuất khẩu ..” Trong chính sách đổi mới này nổi bật nhất là sự điều chỉnh trong cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu. Có thể nói đây là một bước chuyển biến quan trọng từ trước tới nay và góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta trong thời gian gần đây.
Muốn tham gia thương mại quốc tế một cách có hiệu quả với các tổ chức, các khối kinh tế - là những liên minh đã thiết lập chính sách bảo hộ và thuế quan ưu đãi, Việt nam cần sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng phải đảm bảo các yếu tố như chất lượng cao, giá thành hạ, có khả năng đáp ứng nhu cầu với khối lượng lớn. Vì vậy ta phải xây dựng một chính sách cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt lựa chọn những mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
1. Nội dung của chính sách cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Chính sách mặt hàng xuất khẩu của Việt nam được thể hiện ở 3 mặt sau:
Một là, chuyển hoàn toàn, chuyển nhanh, chuyển mạnh sang hàng chế biến sâu, giảm tới mức tối đa xuất khẩu hàng nguyên liệu và giảm tới mức thấp các mặt hàng sơ chế. Bởi vì, tài nguyên thiên nhiên của ta đang cạn kiệt dần và nhóm hàng chủ lực hiện nay như gạo, cà phê, cao su, hạt điều, lạc, lâm sản, thuỷ sản, dầu thô.. sẽ không còn giữ vai trò chủ lực trong tương lai. Theo ước tính của Bộ Thương mại, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu các mặt hàng này giai đoạn 1999-2001 chỉ đạt 14%-15% năm, tăng chậm lại so với mức 18% của thời kỳ 1994-1998. với mức trên tới năm 2003 nhóm hàng nguyên liệu thô chỉ còn chiếm 30% kim ngạch xuất khẩu, 70% còn lại là hàng chế biến trong đó có các hàng chế biến sâu và các sản phẩm trí tuệ.
Hai là, phải mở ra các mặt hàng hoàn toàn mới. Chuyển từ xuất khẩu thô sang chế biến đối với các sản phẩm đã có như chuyển dầu thô và khí sang xăng, phân bón; chuyển từ nông sản thô sang nông sản chế biến; chuyển từ lắp ráp điện tử sang chế tạo và xuất khẩu linh kiện... Bên cạnh đó cần mở ra các mặt hàng hiện nay chưa có nhưng có tiềm năng và triển vọng phù hợp với xu hướng tiêu dùng quốc tế. Đó là các mặt hàng sản phẩm kỹ thuật điện tử, sản phẩm điện tử, máy công nghiệp, dịch vụ... và các sản phẩm trí tuệ như tạo phần mềm máy tính. Cần chú trọng tới các sản phẩm mà khi sản xuất có thể khai thác được các nguồn lực dồi dào sẵn có ở Việt nam.
Ba là, chuyển sang chế biến và mở ra các mặt hàng mới dạng chế biến sâu nhưng không thể thực hiện bằng “tự lực cánh sinh” do điều kiện kỹ thuật lạc hậu, thị trường tiêu thụ không lớn. Điều này có thể thực hiện được thông qua biện pháp cơ bản là hợp tác, liên doanh với nước ngoài.
Chính sách quản lý mặt hàng xuất khẩu của Việt nam các năm 2001- 2002
Chính sách mặt hàng xuất khẩu các năm của Chính phủ được thể hiện trong các danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu như:
+ Danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu
+ Danh mục hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch
+ Danh mục hàng hoá xuất khẩu theo các quy chế quản lý chuyên ngành.
2. Tác động của chính sách cơ cấu mặt hàng tới hoạt động xuất khẩu của Việt nam trong thời gian qua.
Nhìn chung các chính sách này đã phát huy được tác dụng tích cực. Cụ thể, nó khuyến khích mọi thành phần kinh tế từ doanh nghiệp quốc doanh tới các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Mọi tiềm năng kinh tế của đất nước đã được khơi dậy hình thành nên nhiều mặt hàng xuất khẩu mới có giá trị. Mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước trên thế giới ngày càng được tăng cường.
2.1 Vế tốc độ tăng trưởng.
Nhìn chung trong thời kỳ đổi mới, kim ngạch xuất khẩu của Việt nam tăng nhanh. Năm 1988, một năm sau khi thực hiện cơ chế chuyển sang kinh tế thị trường, khối lượng xuất khẩu tăng 80% so với năm 1987. Bắt đầu từ đó, Việt nam duy trì mức tăng trưởng xuất khẩu bình quân hơn 20% một năm. Hoạt động nhập khẩu trong 10 năm qua (1989-1999) cũng đi theo một xu hướng tương tự: gia tăng đều đặn nhưng tốc độ chậm hơn tăng trưởng xuất khẩu.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu thời kỳ 1994-1998 đạt 39,14 tỷ USD, tăng 2,31 lần so với thời kỳ 1986-1990, trong đó xuất khẩu là 17,01 tỷ USD, nhập khẩu là 22,13 tỷ USD. Xuất khẩu đã tăng với tốc độ bình quân 26%/ năm, gấp hơn 3 lần mức tăng bình quân của GDP và là một trong những yếu tố quan trọng góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng cao của GDP. Tuy nhiên, mức tăng này chưa đủ để bù đắp mức tăng nhập khẩu (bình quân 34% / năm ).
Năm 1999, tổng kim ngạch XNK đạt 18,399 tỷ USD, bằng 46,4% tổng kim ngạch của cả thời kỳ 1994-1998 và tăng 35% so với riêng năm 1998. Xuất khẩu dã đạt 7,255 tỷ, tăng 33,2% so với năm 1998 và chiếm xấp xỉ 30% GDP nhưng tốc độ tăng trưởng vẫn thấp hơn mức độ tăng nhập khẩu( 36,6%). Kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người đã đạt mức trên dưới 95 USD vào năm 1999, gấp hơn 3 lần so với năm 1997 (30 USD) và gần 9 lần so với năm 1986 (11 USD). Tuy nhiên, con số này còn khá khiêm tốn so với mức 170 USD được thế giới thừa nhận là mức của một nước có nền ngoại thương tương đối phát triển.
2.2 Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Trong những năm gần đây, cơ cấu cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đã có những bước hay đổi tích cực. Nhóm hàng xuất khẩu nguyên liệu thô đã giảm từ 91% trong tổng số kim ngạch xuất khẩu vào năm 1994 xuống còn 72% vào năm 1998. Rõ nét nhất là nhóm hàng chủ lực như: dầu thô, than, cao su, thuỷ sản, gạo cà phê, hạt điều, chè đạt tốc độ tăng bình quân 18%/năm, các mặt hàng khác có mức chế biến cao đạt mức tăng bình quân 41%/năm, nhờ đó tạo ra mức tăng trưởng bình quân các mặt hàng là 26%. Tăng trội hơn cả trong các mặt hàng chế biến là các mặt hàng giày dép và may mặc tăng tới 100%/năm và 50% trong năm 1998. Tỷ trọng các mặt hàng chế biến sâu (trong đó có hàng chế tạo) năm 1994 chỉ chiếm 8,5 % năm 1997 đã lên đến 25%. Năm 1999 đã tăng lên thành 30%.
Năm 2001, cơ cấu xuất khẩu tăng tuy chậm nhưng vẫn tiếp tục chyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng đã qua chế biến, nhất là chế biến sâu. Tỷ trọng của 4 nhóm hàng dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ tinh chế và điện tử trong kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 27,8% lên 31,5%, mặc dù các nhóm này đều gặp khó khăn gay gắt trong năm 2001. Nhóm nguyên liệu thô và mặt hàng sơ chế chủ lực (bao gồm dầu thô, gạo, hải sản, cà phê, cao su, điều nhân) chỉ còn chiếm 45% kim ngạch xuất khẩu (Năm 2000 chiếm 50% ). Nếu phân theo ngành kinh tế thì nhóm nông sản, thuỷ sản chỉ còn chiếm 37% kim ngạch xuất khẩu, nhóm sản phẩm công nghiệp ( kể cả của công nghiệp khai khoáng) đã chiếm tới 63%. Đây là một bước chuyển tích cực trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt nam.
2.3 Đánh giá kết quả đạt được
2.3.1 Mặt tích cực
- Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp có mức độ tăng trưởng cao nhất. Điều này thể hiện rõ nét nó sẽ là ưu thế phát triển của Việt nam trong những năm tới bởi đây là ngành tương đối dễ phát triển trong điều kiện nước ta hiện nay ( không cần công nghệ cao và thiết bị hiện đại ). Mặt khác, sản phẩm làm ra lại có sức cạnh tranh do tận dụng được nguồn nguyên liệu sẵn có ở trong nước như lao động.
- Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tuy có tăng nhưng đây sẽ không phải là ngành hàng chủ lực trong những năm tới bởi công nghiệp nặng không phải là thế mạnh của các nước đang phát triển như nước ta thêm vào đó xuất khẩu khoáng sản đem lại hiệu quả kinh tế thấp, không giúp cho nền kinh tế phát triển theo chiều sâu. Do vậy, trong những năm tới sẽ tăng giảm về tỷ lệ trong kim nghạch xuất khẩu.
- Chất lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt nam đã được nâng lên đáng kể, bước đầu tạo sức cạnh tranh của hàng Việt nam trên thị trường thế giới, đồng thời gây tác động tích cực với chất lượng sản phẩm trong nước. Nhìn chung việc sản xuất hàng xuất khẩu đã tác động lớn đến chất lượng hàng ở trong nước và hàng Việt nam đã có sức cạnh tranh với một số hàng cùng loại của một số nước khu vực và thế giới.
2.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động xuất khẩu còn nhiều điều cần phải làm rõ :
- Về quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu: mặc dù kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng qua các năm, năm 1994 kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 2087 triệu USD, năm 2001 đã đạt 9300 triệu USD. Nhưng kim ngạch xuất khẩu trên đầu người đạt rất thấp: năm 1998 là 73USD/ người-năm, năm 2000 là 116 USD/ người-năm ( trong khi chỉ số được nhiều quốc gia thừa nhận là chỉ tiêu về một nước có nền ngoại thương tương đối phát triển là 170USD/ người-năm ). Với quy mô nhỏ và tốc độ phát triển như trong các năm qua, rõ ràng ngoại thương chưa thể là chỗ dựa và là ngành mũi nhọn để đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh ngay trong những năm trước mắt.
Khi xem xét hoạt động xuất khẩu cũng cần nhìn lại về nhập khẩu bởi nó có ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu. Hoạt động nhập khẩu không hiệu quả gây thiệt hại cho xuất khẩu trên những mặt sau:
+ Nhập khẩu máy móc thiết bị đã quá lạc hậu dẫn đến việc sản xuất ra hàng hoá không có sức cạnh tranh không xuất khẩu được.
+ Nhập khẩu quá nhiều nguyên vật liệu có thể sản xuất được ở trong nước gây lãng phí ngoại tệ.
Một vấn đề nữa đó là đóng góp của các xí nghiệp liên doanh trong hoạt động xuất khẩu chưa lớn.
- Về cơ cấu hàng xuất khẩu: mặc dù cơ cấu hàng xuất khẩu có chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng chế biến và chế taọ. Nhưng tới nay, xuất khẩu nguyên liệu thô và hàng sơ chế vẫn là chủ yếu ( hàng nguyên liệu thô còn chiếm tới 70% kim ngạch xuất khẩu ). Đây là vấn đề lớn của xuất khẩu Việt nam: tài nhiên nhiên của nước ta có hạn và đã bị khai thác ở mức cao, mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng này đã bắt đầu đi xuống.
Trong nhiều báo cáo của bộ thương mại trước đây đã có nêu rõ số liệu và phân tích tài nguyên. Nhóm hàng xuất khẩu lâu nay được coi là trụ cột ( dầu thô, than, thuỷ sản, gạo, cà phê, lạc, chè, hạt điều ) thời kỳ 1994-1998 tăng trưởng 18% một năm. Các chuyên gia của Bộ Kế hoạch và đầu tư cùng Bộ Thương mại đã làm việc, tính toán và thấy rằng nhóm các mặt hàng này trong thời kỳ 1999-2003 chỉ còn tăng 14-15% trong một năm. Các nhà phân tích cũng cho thấy rằng, một nền xuất khẩu dựa trên hàng nguyên liệu thô không thể đảm bảo có mức tăng trưởng vượt bậc của kim ngạch xuất khẩu. Mặt khác nếu tiếp tục xuất khẩu nguyên liệu thô thì không thể sử dụng được lượng nhân công sẵn có trong nước, không giúp giải quyết các vấn đề xã hội và nhiệm vụ CNH - HĐH đất nước và không thể tạo đà để đuổi kịp các nước trong khu vực.
Mặc dù những năm qua chất lượng hàng xuất khẩu Việt nam không ngừng được cải thiện, song khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt nam trên thị trường thế giới vẫn còn yếu kém. Điều đó do các nguyên nhân: + Công nghệ sản xuất chế biến hàng xuất khẩu chủ yếu được hình thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã có thời gian sử dụng lâu năm không thích hợp với nền sản xuất kinh tế thị trường. Các xí nghiệp, kho tàng, bến bãi, máy móc thiết bị lạc hậu về công nghệ, hiệu quả kém bởi chịu khấu hao lớn, các định mức khấu hao nguyên vật liệu cao, sản phẩm lầm ra chất lượng thấp và số lượng không cao. Mấy năm gần đây, một số doanh nghiệp đã tích cực đổi mới công nghệ hiện đại nhưng thông thường việc đầu tư không đồng bộ và còn chắp vá do không đủ vốn đầu tư, kèm theo là tổ chức bộ máy quản lý cồng kềnh và còn có nhiều bất cập.
+ Hàng xuất khẩu chủ yếu ở dạng thô chưa tinh chế, đồng thời hàng hoá được thu gom ở nhiều nơi có vị trí địa lý khác nhau nên chất lượng hàng hoá không đồng đều, chưa chú trọng việc quy hoạch vùng sản xuất hàng xuất khẩu lớn và đồng bộ, chưa có nhiều mặt hàng chủ lực có giá trị kinh tế cao.
+ Các doanh nghiệp Việt nam vừa mới bắt đầu tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường thế giới trong điều kiện thế giới đã được phân chia, phân công lao động quốc tế đã được xác lập tương đối ổn định. Các doanh nghiệp Việt nam còn non trẻ đã phải đối đầu với cuộc cạnh tranh với các tập đoàn quốc gia có nhiều kinh nghiệm trên thương trường. Đồng thời công tác tổ chức giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các doanh nghiệp chưa tốt, chưa kịp thời. Các cơ quan nhà nước chưa quan tâm đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc phát triển sản xuất, tạo nguồn hàng, hướng dẫn và đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường xuất khẩu. Trình độ tổ chức quản lý điều hành hoạt động xuất khẩu, trình độ tiếp thị của các doanh nghiệp còn yếu.
- Về tác động khủng hoảng kinh tế - tài chính của các nước Châu á tới hoạt động xuất khẩu của Việt nam
Kim ngạch xuất khẩu tăng thấp trong năm 2001, như đã trình bầy ở trên, chủ yếu là do tác động của khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế trong khu vực.
Trước những khó khăn vô cùng nghiêm trọng như vậy, việc xuất khẩu của Việt Nam tăng được 2,4% trong năm 2001 thực sự là một thành tích đáng khích lệ.
V. Chính sách lựa chọn thị trường xuất khẩu.
Mục tiêu thị trường trong tương lai của chúng ta là biến đổi cơ cấu khu vực và cơ cấu bạn hàng hiện nay theo hướng “ đa phương hoá thị trường, đa dạng hoá bạn hàng ”. Xác định mục tiêu như vậy chính là nhằm vận dụng đúng đặc điểm thời đại, đó là xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại, tham gia hội nhập khu vực và thế giới.
Để đạt được cơ cấu thị trường này v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0465.doc