Chuyên đề Cây thuốc bổ ích

Cây nghệ

Phụ nữ có thai bị ra máu, đau bụng (dọa sẩy) có thể lấy nghệ vàng, đương quy, thục địa, ngải cứu, lộc giác giao (sừng hươu) mỗi vị 1 lạng, sao khô vàng, tán nhỏ, mỗi lần uống 4 đồng cân (khoảng 40 g). Dùng gừng tươi 3 lát, táo 3 quả, sắc với nước, uống trước bữa ăn khi thuốc còn ấm.

Củ nghệ vàng còn có các tên gọi như khương hoàng, vị cay đắng, tính bình, có tác dụng hành khí, hoạt huyết, làm tan máu, tan ứ và giảm đau. Uất kim (củ con của cây nghệ) vị cay ngọt, tính mát, làm mát máu, an thần, tan máu ứ, giảm đau.

Sách Đông y bảo giám cho rằng khương hoàng có tác dụng phá huyết, hành khí, thông kinh, chỉ thống (giảm đau), chủ trị bụng chướng đầy, cánh tay đau, bế kinh, sau đẻ đau bụng do ứ trệ, vấp ngã, chấn thương, ung thũng. Nhật hoa tử bản thảo cho khương hoàng có tác dụng trị huyết cục, nhọt, sưng, thông kinh nguyệt, vấp ngã máu ứ, tiêu sưng độc, tiêu cơm.

Một số phương thuốc dùng nghệ trong Nam dược thần hiệu :

- Phòng và chữa các bệnh sau đẻ: Dùng 1 củ nghệ nướng, nhai ăn, uống với rượu hay đồng tiện (nước tiểu trẻ em khỏe mạnh).

- Chữa lên cơn hen, đờm kéo lên tắc nghẹt cổ, khó thở: Dùng nghệ 1 lạng, giã nát, hòa với đồng tiện, vắt lấy nước cốt uống.

- Chữa trẻ em đái ra máu hay bệnh lậu đái rắt: Dùng nghệ và hành sắc uống.

- Trị chứng điên cuồng, tức bực lo sợ: Nghệ khô 250 g, phèn chua 100 g, tán nhỏ, viên với hồ bằng hạt đậu, uống mỗi lần 50 viên với nước chín (có thể uống mỗi lần 4-8 g), ngày uống 2 lần.

- Chữa đau trong lỗ tai: Mài nghệ rỏ vào.

- Chữa trị lở, lòi dom: Mài nghệ bôi vào.

 

doc28 trang | Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 2261 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Cây thuốc bổ ích, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
   Cây,Rau,Củ,Quả trị bệnh Cây rau khúc  Rau khúc còn có tên gọi là rau khúc vàng, thử khúc thảo... Đây là cây cỏ sống hằng năm, cao 40-50 cm. Thân đứng, có lông như bông. Lá nguyên, mọc so le, thuôn hình dải, tù và có mũi cứng ở đỉnh, thon hẹp dài lại ở gốc, hơi men theo cuống, dài 4-7 cm, rộng 5-15 mm, có lông mềm. Đầu hoa màu vang ánh, tập hợp thành ngũ, với nhiều lá bắc có lông như bông ở mặt lưng. Quả bế thuôn hình trứng, có mào lông gồm những tơ sợi tóc. Rau khúc nhân bổ ở vùng Viễn Đông, từ Ấn Độ tới Trung Quốc, Nhật bản sang Philippin. Ở nước ta rau khúc rất phổ biến ở những nơi đất trống các ruộng bỏ hoang, nhiều nhất là các tỉnh phía Bắc. Còn có một lòai khác là rau khúc tẻ hay rau khúc Ấn Độ Một số bài thuốc Nam có rau khúc thường dùng: - Chữa cảm sốt: Rau khúc 30 g, gừng tươi 5 lát, hành 2 củ. Sắc uống ngày một thang. - Chữa ho, viêm họng: Rau khúc 30 g, củ rẻ quạt 5 g, diếp cá 50 g. Sắc uống ngày một thang. - Chữa hen suyễn: Rau khúc 30 g, lá bồng bồng 20 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần. - Chữa tăng huyết áp: Rau khúc 30 g, lá dâu 20 g. Nấu canh ăn hằng ngày. - Chữa chấn thương đụng dập: Rau khúc lượng vừa đủ, giã nát, băng đắp nơi sưng đau. - Chữa rắn cắn: Lá rau khúc tươi giã nát, đắp rịt vào chỗ rắn cắn. Cây nghệ  Phụ nữ có thai bị ra máu, đau bụng (dọa sẩy) có thể lấy nghệ vàng, đương quy, thục địa, ngải cứu, lộc giác giao (sừng hươu) mỗi vị 1 lạng, sao khô vàng, tán nhỏ, mỗi lần uống 4 đồng cân (khoảng 40 g). Dùng gừng tươi 3 lát, táo 3 quả, sắc với nước, uống trước bữa ăn khi thuốc còn ấm. Củ nghệ vàng còn có các tên gọi như khương hoàng, vị cay đắng, tính bình, có tác dụng hành khí, hoạt huyết, làm tan máu, tan ứ và giảm đau. Uất kim (củ con của cây nghệ) vị cay ngọt, tính mát, làm mát máu, an thần, tan máu ứ, giảm đau. Sách Đông y bảo giám cho rằng khương hoàng có tác dụng phá huyết, hành khí, thông kinh, chỉ thống (giảm đau), chủ trị bụng chướng đầy, cánh tay đau, bế kinh, sau đẻ đau bụng do ứ trệ, vấp ngã, chấn thương, ung thũng... Nhật hoa tử bản thảo cho khương hoàng có tác dụng trị huyết cục, nhọt, sưng, thông kinh nguyệt, vấp ngã máu ứ, tiêu sưng độc, tiêu cơm... Một số phương thuốc dùng nghệ trong Nam dược thần hiệu : - Phòng và chữa các bệnh sau đẻ: Dùng 1 củ nghệ nướng, nhai ăn, uống với rượu hay đồng tiện (nước tiểu trẻ em khỏe mạnh). - Chữa lên cơn hen, đờm kéo lên tắc nghẹt cổ, khó thở: Dùng nghệ 1 lạng, giã nát, hòa với đồng tiện, vắt lấy nước cốt uống. - Chữa trẻ em đái ra máu hay bệnh lậu đái rắt: Dùng nghệ và hành sắc uống. - Trị chứng điên cuồng, tức bực lo sợ: Nghệ khô 250 g, phèn chua 100 g, tán nhỏ, viên với hồ bằng hạt đậu, uống mỗi lần 50 viên với nước chín (có thể uống mỗi lần 4-8 g), ngày uống 2 lần. - Chữa đau trong lỗ tai: Mài nghệ rỏ vào. - Chữa trị lở, lòi dom: Mài nghệ bôi vào. Củ riềng làm thuốc  Để chữa đầy bụng, nôn mửa, lấy riềng củ, gừng khô, củ gấu phơi khô lượng bằng nhau đem tán nhỏ, rây lấy bột mịn. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 4-6 g. Củ riềng (còn có tên là cao lương khương) và quả hột riềng đều vị cay, tính ấm, làm ấm bụng, chống khí lạnh, thường được dùng để chữa đau bụng, nôn mửa, nấc. Liều dùng 3-10 g đối với củ, hoặc 2-6 g đối với quả. Một số bài thuốc Nam được dùng trong dân gian: - Chữa đau bụng lạnh, nôn mửa, tiêu chảy: Riềng, củ gấu, gừng khô liều lượng bằng nhau, tán nhỏ, uống mỗi lần 6 g, ngày uống 3 lần. - Chữa sốt rét cơn, ăn không tiêu, buồn nôn hoặc đau bụng thổ tả: Hạt riềng tán nhỏ, uống 6-10 g. - Chữa hắc lào: Củ riềng già 100 g, giã nhỏ, ngâm với 200 ml rượu hoặc cồn 70 độ. Chiết ra dùng dần, khi dùng, bôi dung dịch cồn nói trên vào chỗ tổn thương, ngày bôi vài lần. - Chữa ho, viêm họng, tiêu hóa kém: Riềng củ thái lát mỏng, đem muối chua, khi dùng có thể ngậm với vài hạt muối hoặc nhai nuốt dần. Chữa bệnh của nước cà rốt  Cà rốt 250 g cạo vỏ, thái miếng; dâu tây 250 g bỏ cuống, dùng máy ép hai thứ lấy nước cốt, hòa với 5 ml nước ép chanh và 2-3 miếng đường phèn, chia uống vài lần trong ngày. Dùng cho những người bị cao huyết áp, viêm thận, tiểu đường, táo bón mạn tính, phụ nữ da thô và khô... Cà rốt là một trong những thực phẩm rất giàu chất dinh dưỡng, đặc biệt là vitamin. Sách Bản thảo cương mục viết: "Cà rốt có tác dụng hạ khí bổ trung, làm lợi cho cơ hoành và tràng vị, làm yên ngũ tạng và giúp ăn khỏe". Sách Y lâm cải yếu cho rằng cà rốt có khả năng "nhu nhuận tạng thận, làm khỏe dương khí, ấm hạ bộ, trừ hàn thấp". Sách Nhật dụng bản thảo xem cà rốt là thứ thuốc "có thể chữa chứng quáng gà, suy dinh dưỡng, trẻ em còi xương, không muốn ăn, khô tròng mắt".  Các nghiên cứu hiện đại cho thấy, cà rốt rất giàu dinh dưỡng, ngoài protid, lipid, glucid và chất xơ còn có nhiều nguyên tố vi lượng và các vitamin, nhất là carotene. Về tác dụng dược lý, cà rốt có khả năng điều tiết cơ năng sinh lý của cơ thể, tăng cường thể chất, nâng cao năng lực miễn dịch, kháng khuẩn, giải độc, làm hạ đường máu, dự phòng tích cực các bệnh lý do thiếu vitamin A, cao huyết áp, xơ vữa động mạch, đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim. Gần đây, nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh cà rốt còn có tác dụng chống lão hóa và dự phòng tích cực bệnh lý ung thư. Từ cà rốt, có thể tạo ra các loại đồ uống thơm ngon vừa có tác dụng giải khát bổ dưỡng vừa giúp phòng chống bệnh tật. Sau đây là một số công thức: - Cà rốt 150 g, mật ong 50 g, nước chín để nguội vừa đủ. Cà rốt rửa sạch, cạo vỏ, thái thành miếng nhỏ rồi dùng máy ép lấy nước (nếu không có máy ép thì giã thật nát rồi dùng vải bọc lại, vắt lấy nước cốt), cho mật ong và chế thêm nước vừa đủ, quấy đều rồi uống. Dịch thể thu được có màu quất chín rất hấp dẫn, mùi vị thơm ngon tự nhiên. Nước có công dụng bổ dưỡng, nâng cao năng lực miễn dịch của cơ thể, giúp phòng chống bệnh cao huyết áp. - Cà rốt 150 g, táo tây (loại táo quả to nhập từ Trung Quốc hoặc châu Âu) 150 g, nước ép chanh 15 ml, mật ong 10 ml. Cà rốt và táo rửa sạch, thái miếng rồi dùng máy ép lấy nước (với táo nên ép ngay vì để lâu sẽ bị biến màu, nếu cần thì ngâm trong dung dịch nước muối 2-3%), cho mật ong và nước chanh vào quấy thật kỹ và uống hàng ngày. Đây là loại thức uống giàu chất dinh dưỡng, có tác dụng nâng cao sức đề kháng và giúp phục hồi sức khỏe rất tốt. - Cà rốt 500 g, lê tươi 500 g, nước chín để nguội 1.000 ml, mật ong 20 ml. Lê rửa sạch để ráo nước, ngâm với nước muối 3% trong 15 phút, sau đó thái miếng, dùng máy ép lấy nước; cà rốt rửa sạch, cạo vỏ thái miếng, dùng máy ép lấy nước. Hòa hai thứ nước ép với nhau, chế thêm mật ong, quấy đều rồi chia uống vài lần trong ngày. Đây cũng là một loại đồ uống rất giàu chất dinh dưỡng, có tác dụng cường thân kiện lực, bồi bổ sức khỏe, làm đẹp da và râu tóc, phòng chống tích cực bệnh lý ung thư, đặc biệt thích hợp với những người ở tuổi trung và lão niên. - Cà rốt 100 g, mía 500 g, chanh quả 80 g, nước chín để nguội vừa đủ. Cà rốt rửa sạch, cạo vỏ, thái miếng, đem hầm thật nhừ, đánh nhuyễn rồi dùng vải lọc lấy nước; mía róc vỏ, chẻ nhỏ, dùng máy ép lấy nước. Hòa nước cà rốt và nước mía với nhau, vắt chanh, quấy đều rồi chia uống vài lần trong ngày. Dịch thể thu được có màu hồng vàng, mùi thơm, vị ngọt, dùng làm nước giải khát và bổ dưỡng khá tốt. Theo các nhà dinh dưỡng học Trung Quốc, loại đồ uống này có tác dụng phòng chống ung thư. - Cà rốt 250 g, quất 100 g, chuối tiêu chín 150 g, đường phèn vài miếng. Cà rốt rửa sạch, cạo vỏ, thái miếng, dùng máy ép lấy nước; quất vắt lấy nước cốt. Chuối tiêu bóc vỏ, đánh nhuyễn rồi đổ nước cà rốt và nước quất vào, quấy thật đều, chế thêm đường phèn, chia uống vài lần trong ngày. Loại nước này có mùi thơm khá đặc biệt, dễ uống và giá trị bổ dưỡng rất cao, đặc biệt thích hợp cho những người bị cao huyết áp và chán ăn. - Cà rốt 1.000 g, trám tươi 250 g, đường trắng vừa đủ. Cà rốt rửa sạch, thái chỉ; trám bỏ hạt, thái lát mỏng. Hai thứ đem ép lấy nước rồi đun sôi lên, chế thêm đường trắng, chia uống vài lần trong ngày. Đây là loại nước giải khát và bổ dưỡng rất hữu ích, đặc biệt thích hợp cho những người bị viêm họng, viêm phế quản, viêm amiđan, viêm gan... Đan sâm trong điều trị bệnh tim mạch  Đan sâm có tác dụng chữa trị sự rối loạn tuần hoàn tim và não. Loại thảo dược này còn hiệu nghiệm trong điều trị chứng hồi hộp, đau nhói và thắt ngực, mất ngủ, vàng da và có tác dụng an thai. Công dụng của đan sâm: - Giảm rối loạn tuần hoàn vi mạch, làm giãn các động mạch và tĩnh mạch nhỏ, mao mạch, tăng tuần hoàn vi mạch. - Giảm mức độ nhồi máu cơ tim. Khi tiêm dẫn chất tanshinon II natri sulfonat, trong đó tanshinon II là một hoạt chất của đan sâm, vào động mạch vành sẽ làm giảm nhồi máu cơ tim cấp tính. Kích thước vùng thiếu máu mất đi hoặc giảm đáng kể. - Ổn định màng hồng cầu, làm tăng sức kháng của hồng cầu nhờ dẫn chất tanshinon II natri sulfonat. Hồng cầu ủ với cao đan sâm có thể tăng khả năng kéo giãn và phục hồi hình dạng nhanh hơn so với hồng cầu không ủ với thuốc. - Ức chế sự kết hợp tiểu cầu, chống huyết khối nhờ các hoạt chất miltiron và salvinon của đan sâm. - Bảo vệ cơ tim, chống lại những rối loạn về chức năng và chuyển hóa gây ra bởi thiếu hụt oxy. - Chống oxy hóa, loại bỏ các gốc tự do có hại cho cơ thể. Một số bài thuốc với đan sâm: 1. Chữa đau tức ngực, đau nhói vùng tim: - Đan sâm 32 g, xuyên khung, trầm hương, uất kim, mỗi vị 20 g. Hồng hoa 16 g, xích thược, hương phụ chế, hẹ, qua lâu, mỗi vị 12 g. Đương quy vĩ 10 g. Sắc uống ngày một thang. - Đan sâm 32 g, xích thược, xuyên khung, hoàng kỳ, hồng hoa, uất kim, mỗi vị 20 g. Đảng sâm, toàn đương quy, trầm hương, mỗi vị 16g. Mạch môn, hương phụ, mỗi vị 12 g. Sắc uống ngày một thang. 2. Chữa suy tim:- Đan sâm 16 g, đảng sâm 20 g, bạch truật, ý dĩ, xuyên khung, ngưu tất, trạch tả, mã đề, mộc thông, mỗi vị 16 g. Sắc uống ngày một thang. - Đan sâm, bạch truật, bạch thược, mỗi vị 16 g. Thục linh, đương quy, mã đề, mỗi vị 12 g. Cam thảo, can khương, nhục quế, mỗi vị 6 g. Sắc uống ngày một thang. 3. Chữa tim hồi hộp, chóng mặt, nhức đầu, hoa mắt, ù tai: đan sâm, sa sâm, thiên môn, mạch môn, thục địa, long nhãn, đảng sâm, mỗi vị 12 g. Toan táo nhân, viễn chí, bá tử nhân, mỗi vị 8 g. Ngũ vị tử 6 g. Sắc uống ngày một thang. 4. Chữa viêm tắc động mạch chi: - Đan sâm, hoàng kỳ, mỗi vị 20 g. Đương quy vĩ 16 g, xích thược, quế chi, bạch chỉ, nghệ, nhũ hương, một dược, hồng hoa, đào nhân, tô mộc, mỗi vị 12 g. Sắc uống ngày một thang. - Đan sâm, huyền sâm, kim ngân hoa, bồ công anh, mỗi vị 20 g, sinh địa, đương quy, hoàng kỳ, mỗi vị 16 g. Hồng hoa, diên hồ sách, mỗi vị 12 g. Nhũ hương, một dược, mỗi vị 8 g. Cam thảo 4 g. Sắc uống ngày một thang. 5. Chữa thần kinh suy nhược, nhức đầu, mất ngủ: - Đan sâm, bạch thược, đại táo, hạt muồng sao, mạch môn, ngưu tất, huyền sâm, mỗi vị 16 g. Dành dành, toan táo nhân, mỗi vị 8 g. Sắc uống ngày một thang. - Đan sâm, liên tâm, táo nhân sao, quả trắc bá, mỗi vị 8 g, viễn chí 4 g. Sắc uống ngày một thang. 6. Chữa viêm khớp cấp kèm theo tổn thương ở tim: - Đan sâm, kim ngân hoa, mỗi vị 20 g, đảng sâm, hoàng kỳ, bạch truật, mỗi vị 16 g. Đương quy, long nhãn, liên kiều, hoàng cầm, hoàng bá, mỗi vị 12 g. Táo nhân, phục linh, mỗi vị 8 g. Mộc hương, viễn chí, mỗi vị 6 g. Sắc uống ngày một thang.  - Khi có loạn nhịp: Đan sâm 16 g, sinh địa, kim ngân, mỗi vị 20 g. Đảng sâm 16 g, chích cam thảo, a giao, mạch môn, hạt vừng, đại táo, liên kiều, mỗi vị 12 g. Quế chi 6 g, gừng sống 4 g. Sắc uống ngày một thang. Chế độ ăn cho người bị gan nhiễm mỡ  Ngô, rau cần, nấm hương có tác dụng hạ cholesterol trong máu và tế bào gan. Ngoài ra còn có một số loại trà giúp giải độc, hạ mỡ máu và giảm béo. Những thực phẩm này đặc biệt thích hợp cho bệnh nhân gan nhiễm mỡ.  Một số món ăn: Ngô: chứa nhiều các acid béo không no, có khả năng thúc đẩy quá trình chuyển hóa của chất béo nói chung và cholesterol nói riêng. Theo dinh dưỡng học cổ truyền, ngô có vị ngọt tính bình, công dụng điều trung kiện vị lợi niệu, thường được dùng cho những trường hợp tì vị hư yếu, chán ăn, thủy thấp đình trệ, tiểu tiện bất lợi, phù thũng, rối loạn lipid máu, thiểu năng mạch vành. Nhộng tằm: vị ngọt mặn, tính bình, giúp ích tì bổ hư, trừ phiền giải phát. Nhộng còn có tác dụng làm giảm cholesterol huyết thanh và cải thiện chức năng gan. Nhộng thường dùng dưới dạng các món ăn hoặc tán thành bột để uống. Kỷ tử: có tác dụng ức chế quá trình tích tụ chất mỡ trong tế bào gan, thúc đẩy sự tăng sinh tế bào gan và cải thiện chu trình chuyển hóa chất béo. Nấm hương: chứa những chất có tác dụng làm giảm cholesterol trong máu và tế bào gan. Thường dùng dưới dạng thực phẩm để chế biến các món ăn. Lá trà: có khả năng giảm trừ các chất bổ béo. Trà có khả năng làm tăng tính đàn hồi thành mạch, giảm cholesterol máu và phòng chống sự tích tụ mỡ trong gan. Lá sen: giảm mỡ máu, giảm béo và phòng chống sự tích tụ mỡ trong tế bào gan. Lá sen được dùng dưới dạng hãm với nước sôi uống thay trà hoặc nấu cháo lá sen. Rau cần: chứa nhiều vitamin, tác dụng mát gan, hạ cholesterol trong máu, thúc đẩy quá trình bài tiết các chất phế thải và làm sạch huyết dịch. Ngoài ra, người bệnh gan nhiễm mỡ nên bổ sung các loại rau tươi như cải xanh, cải cúc, rau muống... có công dụng giải nhiệt làm mát gan. Cà chua, cà rốt, măng bí đao, mướp, dưa gang, dưa chuột... thanh nhiệt, thông phủ, hành khí, lợi tiểu. Các loại dầu thực vật như dầu lạc, dầu vừng, dầu đậu tương... chứa nhiều acid béo không no có tác dụng làm giảm cholesterol máu; các loại thịt, cá ít mỡ và các thức ăn chế biến từ đậu tương, đậu xanh, đậu đen... Một số loại trà tốt cho bệnh nhân gan nhiễm mỡ: - Trà khô 3 g, trạch tả 15 g. Hai vị hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút thì được. Trà này có công dụng bảo vệ gan, tiêu mỡ, lợi niệu, giảm béo. Trạch tả có tác dụng điều chỉnh rối loạn lipid máu, làm hạ cholesterol, triglycered và lipoprotein có tỷ trọng thấp, góp phần phòng chống tình trạng xơ vữa động mạch. - Trà khô 2 g, uất kim 10 g (có thể thay bằng nghệ vàng), cam thảo sao vàng 5 g, mật ong 25 g. Tất cả thái vụn, hãm với nước sôi, uống trong ngày... Thức uống này có công dụng làm cho gan thư thái, tiêu trừ tích trệ và lợi niệu. Đặc biệt uất kim có tác dụng điều chỉnh hội chứng rối loạn lipid máu khá tốt. - Trà khô 3 g, cát căn (sắn dây thái phiến) 10 g, lá sen 20 g. Tất cả thái vụn hãm uống thay trà có công dụng giải độc, hạ mỡ máu, giảm béo. Cần dùng lá sen tươi hoặc khô thái vụn hãm uống thay trà hàng ngày. - Rễ cây trà 30 g, trạch tả 60 g, thảo quyết minh 12 g. Tất cả thái vụn hãm uống hàng ngày. Những vị này có công dụng làm giảm mỡ máu và phòng chống béo phì. Loại trà này rất thích hợp với những người bị nhiễm mỡ gan kèm theo tình trạng rối loạn lipid máu, bệnh lý mạch vành. - Trà 30 g, sinh sơn tra 10-15 g. Hai vị hãm nước sôi uống hằng ngày, giúp tiêu mỡ giảm béo. Sơn trà có tác dụng điều chỉnh rối loạn lipid máu rất tốt và góp phần thúc đẩy quá trình chuyển hóa chất đường và chất béo trong gan. - Hoa trà 2 g, trần bì 2 g, bạch linh 5 g. Ba thứ thái vụn hãm với nước trong bình kín, sau 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Trà có công dụng kiện tì hóa thấp, lợi niệu trừ đàm.  Bệnh nhân gan nhiễm mỡ cần kiêng kị những thực phẩm và đồ ăn quá béo bổ như mỡ động vật, lòng đỏ trứng, não và gan gia súc, bơ... Các thứ quá cay và nóng như gừng, tỏi, ớt, hạt tiêu, rượu, cà phê, trà đặc... Bắp ngô bài thuốc nam chữa suy nhược cơ thể/Cây, củ, rau trị bệnh  Suy nhược cơ thể là trạng thái mệt mỏi, làm việc kém hiệu quả... Bệnh thường gặp ở người bị căng thẳng thần kinh kéo dài, người mắc bệnh mạn tính, phụ nữ sau sinh mất nhiều máu... Dưới đây là một số bài thuốc nam và món ăn chữa bệnh hiệu quả.  Bài 1: Chữa suy nhược cơ thể sau viêm đại tràng, loét dạ dày - tá tràng, rối loạn tiêu hóa kéo dài. Bài thuốc gồm: bố chính sâm 16 g, bạch truật 12 g, củ mài 12 g, biển đậu 12 g, ý dĩ 12 g, vỏ quýt 6 g, hạt sen 12 g, hạt cau 10 g, nam mộc hương 6 g. Ngày 1 thang, sắc uống làm 2 lần.  Bài 2: Chữa suy nhược cơ thể sau viêm phế quản mạn, lao phổi. Cần thục địa 12 g, mạch môn 12 g, thiên môn 12 g, vỏ rễ dâu 12 g, củ mài 16 g, quy bản 10 g, mạch nha 10 g, vỏ quýt 6 g, bán hạ chế 8 g. Ngày 1 thang, sắc uống làm 2 lần.  Bài 3: Trị suy nhược cơ thể ở người già. Dùng thục địa 12 g, hà thủ ô 12 g, củ mài 12 g, củ súng 12 g, nam đỗ trọng 20 g, ba kích 12 g, cao quy bản 10 g, cao ban long 10 g, phụ tử chế 8 g, nhục quế 4 g. Ngày 1 thang, sắc uống làm 2 lần. Riêng cao ban long và cao quy bản, sau khi sắc thuốc chắt ra mới cho vào, hoặc tán bột, làm viên hoàn, uống ngày 20-30 g với nước sôi nguội hoặc nước muối loãng.  Bài 4: Dùng cho phụ nữ sau sinh, thiếu máu hoặc người mắc một số bệnh về máu gây thiếu máu. Bài thuốc gồm: quả dâu chín 16 g, hà thủ ô 12 g, long nhãn 12 g, hạt sen 12 g, đỗ đen sao 12 g, lá vông 12 g. Ngày 1 thang, sắc uống làm 2 lần.  Bài 5: Chữa suy nhược cơ thể sau một số bệnh truyền nhiễm gây sốt cao, viêm khớp dạng thấp, tăng huyết áp. Cần rau thai nhi 1 cái, đảng sâm (hoặc bố chính sâm) 16 g, thục địa 16 g, đỗ trọng 12 g, ngưu tất 16 g, hoàng bá 8 g, thiên môn 12 g, mạch môn 12 g, bạch linh 12 g, quy bản 12 g. Tán bột, nhào với mật ong làm viên, uống 20g mỗi ngày, chia làm 2 lần.  Các món ăn chữa suy nhược cơ thể:  Bài 1: Chữa suy nhược do tăng huyết áp. Cần râu ngô hoặc bắp ngô non 30 g, móng giò 1 cái, gừng 5 g, hành và gia vị vừa đủ. Tất cả ninh nhừ. Cách ngày ăn 1 lần, ăn trong 3 tuần liền.  Bài 2: Chữa suy nhược cơ thể ở người gầy yếu và phụ nữ sau sinh. Dùng gà trống non (7-8 lạng): 1 con, quy thân 10 g, đảng sâm 15 g, thục địa 15 g, kỷ tử 10 g, hạt sen 20 g, ngải cứu 20 g, gừng, hành, gia vị vừa đủ. Tất cả hầm nhừ, 1 tuần ăn 2 lần, ăn trong 4 tuần liền.  Bài 3: Chữa viêm suy nhược do phế quản mạn, hen phế quản. Cần chim cút 1 con, cát cánh 15 g, mạch môn 12 g, sa sâm 12 g, đại táo 7 quả, gừng, hành, rượu, gia vị vừa đủ. Tất cả hầm nhừ, cách ngày ăn 1 lần, trong 4 tuần liền. Chữa bệnh bằng hạt bí ngô/Cây, củ, rau trị bệnh  Ngoài một hàm lượng lớn các khoáng chất và dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể, hạt bí ngô còn chứa delta 7-phytosterol, một hoạt chất sterol đặc hiệu giúp phòng ngừa và điều trị chứng rối loạn lipid máu, đồng thời làm chậm tiến triển bệnh xơ vữa động mạch... Hạt bí ngô có đủ các protein và khoáng chất như sắt, Mg, Ca, Zn, Selen..., chất xơ; các axit béo không no như omega-3 và omega-6; vitamin E; beta caroten; tiền chất prostaglandin; và một số axit amin khác như axit glutamic, arginine... Đặc biệt, chất delta7-phytosterol chỉ được tìm thấy trong hạt bí ngô mà không có ở bất kỳ loại dầu thực vật nào khác. Chính delta7-phytosterol quyết định khả năng phòng ngừa và điều trị bệnh của hạt bí ngô, song hàm lượng của nó lại phụ thuộc phần lớn vào điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng và thời vụ gặt hái... Tác dụng của hạt bí ngô: - Giảm các triệu chứng của bệnh phì đại tiền liệt tuyến như hạn chế số lần tiểu tiện ban đêm, giảm thể tích nước tiểu tồn dư, cải thiện chứng khó tiểu, đi tiểu buốt và nhiều lần. - Làm dịu tình trạng hoạt động quá mức của bàng quang - nguyên nhân gây tiểu són, tiểu rát và đái dầm thường gặp ở người già hai giới. - Phòng ngừa và điều trị chứng rối loạn lipid máu, làm chậm tiến triển chứng xơ vữa động mạch. Hiện nay, thành phần delta7-phytosterol đặc hiệu với hàm lượng cao của hạt bí ngô có thể được điều chế dưới dạng viên nang mềm Peponen. Người dân châu Âu, Mỹ đang sử dụng phổ biến dung dịch này như một dạng bổ sung dinh dưỡng quan trọng Trâm bầu - vị thuốc hay tẩy giun đũa  Loại cây này còn có tên là chưng bầu, chân bầu, tim bầu, tên khoa học là Combretum quadrangulare Kuz. Hạt, chất nhầy ở vỏ và cành non trâm bầu có tác dụng tẩy giun. Ngoài ra, nó còn có thể chữa đau bụng và tiêu chảy (hay dùng phối hợp với lá mơ tam thể). Trâm bầu là loại cây nhỡ, có thể cao 12 m. Cành non có 4 cạnh, lá mọc đối, hình trứng dài, chóp tù hay nhọn. Hai mặt lá đều có lông, mặt dưới lông nhiều hơn. Chiều dài của lá 3-7,5 cm, rộng 1,5-4 cm. Cụm hoa gồm một bông mọc ở kẽ lá và nhiều hoa nhỏ ở đầu cành, màu vàng nhạt. Quả dài 18-20 mm, rộng 7-8 mm, có 4 cành mỏng. Hạt hình thoi, rộng 4 mm, có rìa. Các bộ phận dùng làm thuốc là hạt (thu hái vào tháng 1-2), quả, vỏ cây. Trâm bầu thường mọc hoang ở miền kênh rạch Đông Nam Bộ, sống ở đất phèn, trũng, có độ ẩm cao. Nhiều người trồng trâm bầu để nuôi kiến cánh đỏ. Hạt cây trâm bầu có nhiều tinh dầu (12%), tanan, axit axalic, canxi và các axit béo palmitic, linoleic. Vỏ lá chứa nhiều tanan, flavonoit. Để điều trị giun, mỗi ngày ăn 10-15 hạt trâm bầu bỏ vỏ (trẻ em dùng 5-10 hạt, tùy theo độ tuổi). Có thể nướng qua hạt cho thơm, kẹp vào quả chuối chín để dễ ăn. Điều trị trong 3 ngày. Ngoài việc chữa giun, nhân dân một số nơi còn hái lá trâm bầu phơi khô, phối hợp với lá nhân trần để làm trà nhuận gan. Vỏ cam quýt giảm cholesterol  Nhai vỏ cam có thể khiến bạn nhăn mặt, song thực chất nó rất tốt cho sức khỏe. Theo một nghiên cứu mới đây của Mỹ, chiết xuất từ vỏ cam, quít có khả năng hạn chế gan xuất tiết loại cholesterol độc hại LDL - thủ phạm gây ra các bệnh tim mạch. Hợp chất từ vỏ cam quít có tên khoa học là polymethoxylated flavones (PMF) - thực chất là những yếu tố chống oxy hóa tích cực thuộc nhóm flavonoid, tiến sĩ Elzbieta Kurowska làm việc cho một công ty dược của Canada tại Mỹ có tên là KGK Synergize, cho biết. Nhóm flavonoid tập trung trong các loại rau quả, lá chè và rượu vang đỏ. Trong phần thịt của hoa quả chua cũng chứa các chất PMF, song chỉ ở một lượng rất nhỏ do hợp chất này không hòa tan trong nước. Trong khi đó, vỏ của chúng lại tập trung PMF nhiều gấp 20 lần. Cơ thể con người rất dễ hấp thu và chuyển hóa các chất này. Trong nghiên cứu, Kurowska và cộng sự đã vỗ béo cho những con chuột đồng bằng một chế độ dinh dưỡng giàu cholesterol, rồi cho chúng hấp thu hợp chất PMF từ vỏ cam, quít. Kết quả cho thấy, chỉ 1% PMF trong khẩu phần ăn hằng ngày cũng làm giảm tới 40% lượng cholesterol LDL ở số chuột trên. Nhóm nghiên cứu cũng thử nghiệm hai chất flavonoid đặc trưng khác là hesperetin và naringenin trên một số con chuột có cholesterol cao, và tác dụng hạ cholesterol LDL cũng được ghi nhận. Tuy nhiên, hai chất này phải cần tới một lượng lớn gấp 3 lần hợp chất PMF từ vỏ cam, quít mới cho hiệu quả tương tự. Theo Kurowska, PMF có thể đã khống chế khả năng phân tiết cholesterol LDL của gan. Nhóm đang tính đến việc tăng cường hiệu quả chống loại cholesterol độc hại này bằng việc kết hợp PMF với vitamin E. Tuy nhiên, để giảm cholesterol, người ta không thể trông cậy hoàn toàn vào vỏ cam quít. Lời khuyên đáng tin cậy nhất vẫn là năng vận động cơ thể, ăn nhiều rau quả và hạn chế tối đa chất béo no Tác dụng chữa bệnh của tỏi  Sức mạnh của gia vị này đã được biết từ mấy nghìn năm trước. Những người xây Kim tự tháp đã ăn tỏi để lấy sức mạnh. Các chiến binh La Mã ăn tỏi để chữa bệnh cúm. Các vận động viên Olympic Hy Lạp cổ đại cũng dùng nó để cải thiện sức bền. Còn trong Thế chiến 1, nhiều người lính sử dụng tỏi như thuốc kháng sinh. Các nhà nghiên cứu cho rằng, tỏi giúp phục hồi allicin, một hợp chất tự nhiên trong cơ thể, có tác dụng chống ung thư, giảm cholesterol và giảm huyết áp. Trong vòng 20 năm qua, có hơn 700 nghiên cứu về tác dụng của tỏi. Viện Ung thư (Mỹ) phát hiện thấy tỏi giúp làm giảm nguy cơ ung thư dạ dày. Nhiều nghiên cứu khác kết luận tỏi hạn chế nguy cơ tắc động mạch vành và giảm nồng độ cholesterol có hại. Một công trình của Đại học Ohio (Mỹ) cho thấy, phụ nữ và đàn ông ở độ tuổi 50-80 nếu ăn khoảng 300 mg tỏi mỗi ngày trong 2 năm sẽ giảm 15% nguy cơ tắc động mạch chủ so với những người không ăn. Theo một nghiên cứu khác, tỏi có thể giết hoặc làm chậm sự phát triển của 60 loại nấm và 20 loại vi khuẩn. Nó cũng có ích với phụ nữ mãn kinh vì rất giàu oestrogen thực vật, giúp giảm nguy cơ ung thư và hạn chế những tác động của hội chứng mãn kinh. Các chuyên gia cho rằng, ở bất kỳ dạng nào, tỏi cũng đều an toàn. Khoảng 1 hoặc 2 nhánh tỏi (hoặc 600-900 mg) mỗi ngày là liều lượng phổ biến và rất tốt cho sức khỏe. Bạn có thể thêm tỏi tươi hay tỏi bột vào các món súp, thịt, rau hay salad, thậm chí ăn sống cũng tốt. Nếu tỏi tươi làm bạn khó chịu, bạn có thể chọn tỏi chín, tỏi bột hay dầu tỏi. Tỏi bột thực tế là tỏi sấy khô nghiền ở nhiệt độ cao, giảm mùi hắc những vẫn duy trì được tác dụng. Nếu bạn khó chịu bởi mùi tỏi, hãy chọn loại già ngày; sử dụng những chất khử mùi như kẹo cao su, hoa quả chua. Một số bài thuốc từ tỏi  Để trị cảm, viêm họng, sổ mũi, nên dùng cồn tỏi nhỏ mũi hoặc giã tỏi cho ngửi. Cũng có thể giã tỏi, đổ cồn 70 độ, đốt cháy rồi trùm chăn xông cho ra mồ hôi. Theo Đông y, tỏi vị cay, tính ôn, hơi độc, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát trùng, chữa khí hư, tiểu tiện khó, bụng đầy chướng, tiêu nhọt, đờm và hạch ở phổi, tẩy uế. Lưu ý: Tỏi kỵ mật (mật ong, mật mía). Một số bài thuốc có vị tỏi: - Trị cảm lạnh, ho gà, hen phế quản: Giã nát tỏi, xoa ngực cho nóng lên. Ngày làm 2-3 lần.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCây thuốc bổ ích.doc