Chuyên đề Đánh giá kết quả của cải cách hành chính và các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính ở nước ta

Thời gian qua, đặc biệt là từ năm 1994 đến nay, Đảng và Nhà nớc ta chủ trơng đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhằm đạt đợc mục tiêu và yêu cầu nớc ta có một nền hành chính dân chủ, vì nhân dân phục vụ. Triển khai chủ trương này, thời gián qua nhằm hớng tới một nền hành chính dân chủ, vì nhân dân phục vụ, trong cải cách nền hành chính chúng ta đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ sau:

- Về phương diện pháp luật tạo ra khung pháp lý cho nền hành chính dân chủ, vì nhân dân phục vụ, Đảng và Nhà nớc đã ban hành các văn bản pháp luật sau:

+ Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 18/03/1998 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.

+ Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của chính phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã.

+ Nghị định số 71/1998 ngày 8/4/1940 của Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động ở cơ quan.

 

doc316 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2115 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá kết quả của cải cách hành chính và các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trình độ, năng lực của cán bộ quản lý tài chính mà yếu kém hoặc không đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới này thì sẽ rất khó khăn cho quá trình hội nhập quốc tế và khu vực hoặc nếu hội nhập thì cũng khó tránh khỏi những thua thiệt hoặc bất lợi. - Thứ hai, Nếu đưa vấn đề quản lý tài sản công vào Luật Ngân sách Nhà nước - xuất phát từ những yêu cầu đòi hỏi cấp bách của vấn đề, thì điều này đặt ra yêu cầu đòi hỏi của việc xem xét mối quan hệ giữa Luật Ngân sách Nhà nước với các đạo luật khác như về đất đai, tài nguyên, khoáng sản, rừng các công trình thuỷ lợi, giao thông v.v. nhằm đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất của sự điều chỉnh pháp luật của hệ thống pháp luật, trong đó có các vấn đề cần được luận giải như các khái niệm tài sản công, công sản; tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, thuộc sở hữu toàn dân; quản lý tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, quản lý tài chính đối với tài nguyên quốc gia, tài sản thuộc sở hữu Nhà nước v.v.. từ đó có sự hoạch định, ban hành các quy định pháp luật, các quy chế quản lý, phân công, phân nhiệm, phân cấp quản lý thích hợp và đồng bộ. Điều này cũng có ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc có được và giải ngân các khoản tài chính và tín dụng quốc tế, vì rằng các tổ chức tài chính quốc tế và khu vực khi cung cấp các khoản tài chính, tín dụng hỗ trợ cho đầu tư, phát triển ở nước ta đều trông chờ và yêu cầu là các nguồn vốn và tài sản quốc gia phải được quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí và tham nhũng. - Thứ ba, Trước mắt một số quy định của Luật sẽ được thực hiện bằng các giải pháp mang tính chất quá độ, trong tương lai sẽ phải được đổi mới và hoàn thiện, ví dụ như: về kiểm toán ngân sách nhà nước. Theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, cơ quan kiểm toán nhà nước thực hiện việc kiểm toán xác định tính đúng đắn, hợp pháp của các số liệu kế toán, báo cáo quyết toán củâ các cơ quan Nhà nước, các đơn vị có nhiệm vụ thu chi ngân sách và kiểm toán bắt buộc phải được áp dụng đối với các báo cáo quyết toán ngân sách. Nhưng trên thực tế, trong điều kiện và khả năng hiện có thì việc kiểm toán chưa thể thực hiện được một cách đều khắp và do vậy cũng cần phải được áp dụng với bước đi thích hợp chẳng hạn tập trung kiểm toán các quyết toán ngân sách tỉnh, ngân sách trung ương, các công trình đầu tư trọng điểm của nhà nước hay các chương trình quốc gia. Về mặt tổ chức kiểm toán nhà nước hiện tại là cơ quan của Chính phủ nhưng về lâu dài sẽ phải là cơ quan độc lập hoặc trực thuộc Quốc hội. Xét về vấn đề này, cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Theo chúng tôi, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán nhà nước nói riêng có một vị trí quan trọng phục vụ công tác quản lý kinh tế tài chính, góp phần đảm bảo sự lành mạnh trong nền tài chính quốc gia. Hoạt động của kiểm toán nhà nước (KTNN) góp phần đảm bảo phân bổ, quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, công quỹ và tài sản nhà nước một cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả, ngăn ngừa các hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí ngân sách nhà nước (NSNN), công quỹ và tài sản nhà nước. ở nhiều nước trên thế giới kiểm toán đã hình thành và phát triển từ hàng trăm năm nay. Lịch sử hình thành và phát triển loại hình cơ quan kiểm toán nhà nước ở nhiều nước đã cho thấy: Đây cũng là một trong những công cụ hữu hiệu giúp cho việc kiểm soát các hoạt động tài chính của nhà nước. ở nước ta, ngay từ đầu những năm 90, xuất phát từ nhu cầu cần thiết của việc sớm ban hành các qui định pháp luật về hoạt động kiểm toán, các văn bản pháp luật trên lĩnh vực này lần lượt được ban hành. Kiểm toán nhà nước được thành lập và hoạt động trên cơ sở Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ về việc thành lập cơ quan Kiểm toán nhà nước, Quyết định số 61/TTG ngày 24/1/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban bành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước, Luật Ngân sách nhà nước và một số văn bản pháp luật khác. Các qui định pháp luật này đã có những tác động tích cực, góp phần tạo lập trật tự kỷ cương trong các hoạt động kinh tế - tài chính, phát hiện những vấn đề bất hợp lý trong bản thân chế độ, chính sách và kiến nghị với Nhà nước sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách quản lý kinh tế- tài chính. Tuy nhiên, cũng có thể thấy rằng các quy định này còn có nhiều điểm hạn chế, bất cập lại nằm ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau, thiếu tính đồng bộ và chưa thể hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nước. Trên cơ sở thực tiễn thi hành các quy định pháp luật hiện hành, có xét đến những yêu cầu, điều kiện và mức độ phát triển kinh tế xã hội cũng như đòi hỏi của việc hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay, chúng tôi thấy rằng việc tạo lập sự đồng bộ của hệ thống pháp luật nói chung và trên lĩnh vực về kiểm toán nói riêng bằng việc ban hành Luật Kiểm toán nhà nước là một bước đi cần thiêt cho quá trình cải cách tài chính công. Xuất phát từ bản chất, chức năng của tổ chức kiểm toán là tổ chức có đội ngũ cán bộ có “tay nghề”, trình độ chuyên môn cao, có uy tín và chuyên tiến hành làm các công việc kiểm tra, đánh giá và cho ý kiến xác nhận tính đúng đắn, trung thực, hợp pháp , hợp lệ của các thông tin, số liệu thể hiện trên sổ sách, chứng từ, hồ sơ, báo cáo tài chính, cũng như tính kinh tế, tính tuân thủ pháp luật trong các hoạt động kinh tế, quản lý, sử dụng tài chính và tài sản của đơn vị được kiểm toán, thì Kiểm toán nhà nước là cơ quan chuyên môn thuộc Quốc hội để thực hiện kiểm toán đối với các đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước và báo cáo kết quả kiểm toán cho Quốc hội. Mặc dù vậy, điều cần nhấn mạnh là Kiểm toán nhà nước không thuộc loại cơ quan có và thực thi chức năng quản lý nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước (Kiểm toán nhà nước không có chức năng thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật, ra các quyết định quản lý, xử lý vi phạm pháp luật như các cơ quan quản lý nhà nước). Chính vì lẽ đó Luật Kiểm toán nhà nước đã xác định rõ Kiểm toán nhà nước là cơ quan chuyên môn thuộc Quốc hội. Cơ quan này cũng có thể mở rộng phạm vi hoạt động tiến hành cung cấp các dịch vụ kiểm toán về các hoạt động kinh tế của nền kinh tế thị trường, khi có yêu cầu hoặc đơn đặt hàng. báo cáo kiểm toán của KTNN sẽ được sử dụng làm căn cứ cho việc quyết toán hoặc phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước, có nghĩa là tính đúng đắn, trung thực, hợp pháp , hợp lệ của các thông tin, số liệu thể hiện trên sổ sách, chứng từ, hồ sơ, báo cáo tài chính , cũng như tính kinh tế, tính tuân thủ pháp luật trong các hoạt động kinh tế, quản lý, sử dụng tài chính và tài sản của đơn vị đã được kiểm toán và báo cáo kiểm toán này sẽ không thể bị nghi ngờ hay bãi bỏ hoặc không sử dụng, chừng nào không có những bằng chứng rõ ràng chứng minh có những sai sót hoặc vi phạm pháp luật trong Báo cáo kiểm toán của Kiểm toán nhà nước. Mặt khác, cần nhấn mạnh việc phân định chức năng, nhiệm vụ và sự phối hợp giữa cơ quan Kiểm toán nhà nước với các cơ quan thanh tra, kiểm tra khác cũng như giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán và trách nhiệm thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước. Trong hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể trưng cầu Kiểm toán nhà nước và trong trường hợp đã được kiểm toán bởi Kiểm toán nhà nước thì báo cáo kiểm toán của Kiểm toán nhà nước sẽ được sử dụng làm căn cứ cho việc thanh tra, kiểm tra, trừ trường hợp báo cáo kiểm toán của Kiểm toán nhà nước bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết luận là có sai sót hoặc vi phạm pháp luật. Về trách nhiệm thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước: Trước hết, xuất phát từ vị trí, chức năng của Kiểm toán Nhà nước không phải là cơ quan thanh tra hay cơ quan quản lý nhà nước, cho nên không thể coi Báo cáo kiểm toán của Kiểm toán nhà nước là một trong những loại quyết định của cơ quan quản lý nhà nước. Vì thế các kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước chỉ có thể mang tính chất khuyến nghị đối với đơn vị được kiểm toán. Đơn vị được kiểm toán sẽ có nghĩa vụ và trách nhiệm thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước theo quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. 3. Những cải cách trên lĩnh vực thuế Thực trạng thuế và pháp luật về thuế ở nước ta hiện nay cho thấy: Trên lĩnh vực thuế - nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, Đại hội Đảng VIII đã xác định những yêu cầu của việc "tiếp tục đổi mới các chính sách thuế theo hướng vừa bảo đảm nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, vừa khuyến khích sản xuất kinh doanh và thúc đẩy thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng để tăng tích luỹ" Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, sách đã dẫn... trang 237. . Cho đến nay, pháp luật về thuế đã có những bước phát triển quan trọng. Các đạo luật về thuế lần đầu tiên được ban hành vào năm 1990 đã đánh dấu một bước phát triển, một sự đổi mới về chất của hệ thống thuế cũng như pháp luật về thuế ở nước ta. Trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật về thuế đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần, nhưng cho đến nay nhất là trước những đòi hỏi của việc hợp tác và hội nhập quốc tế, pháp luật về thuế cũng bộc lộ một số điểm hạn chế, nhược điểm của hệ thống thuế hiện hành cần được khắc phục và đổi mới theo hướng đơn giản hoá hệ thống thuế, nâng tính ổn định của thuế, tránh trùng lắp, nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của sự phát triển kinh tế xã hội. Theo những yêu cầu đó hệ thống pháp luật về thuế đã được từng bước tiếp tục đổi mới theo 3 hướng chính sau đây: a) Cải cách các sắc thuế hiện hành (như thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu tục đặc biệt, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất) và sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật tương ứng; b) Ban hành các Luật thuế mới như: Thuế trị giá gia tăng; thuế thu nhập doanh nghiệp, Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân; và sắp tới phải tính đến Luật thuế tài sản(thay cho lệ phí trước bạ) và c) Thể chế hoá bằng pháp luật các khoản thu về phí và lệ phí cho Ngân sách Nhà nước, tiến tới xây dựng Luật về các loại lệ phí Nhà nước. Để thực hiện những yêu cầu đòi hỏi nói trên, cũng như những yêu cầu đòi hỏi của việc hội nhập quốc tế và khu vực về công khai chính sách thuế, đối xử quốc gia và tối huệ quốc về thuế đang đặt ra một loạt các vấn đề cần được xem xét, nghiên cứu và giải quyết. Trước hết là vấn đề hệ thống hoá, pháp điển hoá các quy định pháp luật về thuế; đảm bảo sự công khai và tính dễ tìm thấy các văn bản pháp luật về thuế và đặc biệt là trong từng sắc thuế hiện hành. Kế đó là các vấn đề như: Thời điểm phát sinh, phạm vi các nghĩa vụ thuế cần được quy định rõ ràng hơn; khắc phục những điểm còn bị bỏ ngỏ như nguyên tắc không hồi tố của Luật thuế; nguyên tắc hoàn thuế, thoái thu thuế; hiểu thế nào là "công bằng" và "bình đẳng" trên lĩnh vực về thuế giữa các chủ thể, thành phần kinh tế, cơ chế giải quyết khiếu nại, tranh chấp và xử lý vi phạm về thuế sao cho thực sự đảm bảo yêu cầu nhanh, gọn, triệt để, công bằng, chính xác và nhất quán. Việc cải cách toàn diện và đồng bộ các Luật thuế trong hệ thống chính sách và pháp luật hiện hành là cần thiết, tuy không thể thực hiện đồng thời ngay một lúc nhưng cũng cần có một quá trình thực hiện từng bước phù hợp với khả năng, điều kiện thực tế của cả việc xây dựng, ban hành Luật và tổ chức thi hành Luật cũng như tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực. Nhìn lại tiến trình cải cách pháp luật về thuế chúng tôi thấy rằng: Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta, pháp luật về kinh tế nói chung và pháp luật về tài chính, trong đó có pháp luật về thuế nói riêng đã được đổi mới vĩ mô trọng yếu của Nhà nước. Cho đến nay, pháp luật về thuế, sau khi tiến hành cải cách thuế bước 2, đã có được những bước tiến quan trọng. Các đạo luật về thuế lần đầu tiên được ban hành vào năm 1990 được coi là cải cách thuế bước 1 đã đánh dấu một bước phát triển, một sự thay đổi về chất của hệ thống thuế cũng như pháp luật về thuế trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trước những yêu cầu đòi hỏi cải cách tài chính công ở nước ta hiện nay, vấn đề đặt ra là cần xem xét các Luật thuế có liên quan, trọng đó có các sắc thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt (được gọi là thuế gián thu), thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân (được gọi là thuế trực thu). Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được ban hành lần đầu tiên ở nước ta vào ngày 29/12/1989 với tên gọi là Luật về thuế xuất nhập khẩu mậu dịch và thuế “hàng hoá xuất nhập khẩu phi mậu dịch”. Cho đến cuối những năm 80, ở nước ta thực hiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu tập trung dưới quan niệm Nhà nước độc quyền về ngoại thương và do đó về mặt tài chính chúng ta thực hiện chế độ thu bù chênh lệch ngoại thương và thu kết hối ngoại tệ đối với hoạt động xuất nhập khẩu (khoảng từ 5% đến 20% tuỳ theo nhóm hàng). Luật thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu ra đời năm 1987 nhằm đáp ứng nhu cầu của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại ở cả khu vực I (các nước XHCN lúc bấy giờ) và khu vực II (các nước khác) cũng như khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu ở trung ương và địa phương. Đầu năm 1989, bãi bỏ thuế hàng hoá nhập khẩu mậu dịch, chỉ còn thuế xuất, nhập khẩu hàng mậu dịch và thuế hàng hoá xuất, nhập khẩu phi mậu dịch. Việc thu kết hối đối với hoạt động xuất nhập khẩu cũng được bãi bỏ và thay đó là việc mua bán ngoại tệ qua ngân hàng ngoại thương. Trên cơ sở đánh giá kết quả trong việc thực hiện chính sách mới về thuế xuất, nhập khẩu cũng như việc đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước về hoạt động xuất, nhập khẩu, trong đó có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, đồng thời có chú ý đến tình hình quốc tế lúc bấy giờ đã có nhiều thay đổi (khu vực I không còn tồn tại). Ngày 26/12/1991 Quốc hội đã thông qua Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thay thế cho đạo luật tương ứng được ban hành vào ngày 29/12/1987 cũng như bãi bỏ Điều 32 của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt về hàng xuất nhập khẩu phi mậu dịch. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ban hành ngày 26/12/1991 được sửa đổi bổ sung năm 1993 (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày 5/7/1993) nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất, nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước và góp phần động viên cho ngân sách Nhà nước. Điểm đáng lưu ý về một số mốc thời gian là: + Năm 1994 Việt Nam trở thành quan sát viên của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT; + Năm 1995 Việt Nam gia nhập ASEAN; + Năm 1996 Việt Nam thông qua danh mục những mặt hàng thuộc AFTA; + Năm 1997 bắt đầu đàm phán xin gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Trong bối cảnh đó Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được sửa đổi bổ sung một lần nữa vào ngày 20/5/1998. Theo đó, biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được sửa đổi, bổ sung thành 3 cấp độ: + Thuế suất thông thường áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước không có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại đối với Việt Nam, thuế suất này cao hơn 50% so với thuế suất ưu đãi; + Thuế suất ưu đãi áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước có thoả thuận về đối xử tối thuệ quốc trong quan hệ thương mại đối với Việt Nam; + Thuế suất ưu đãi đặc biệt được áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước mà Việt Nam và nước hoặc khối nước đó đã thoả thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu theo thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh quan thuế hoặc để tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới. Một trong những trường hợp áp dụng thuế mất ưu đãi đặc biệt là việc công bố chương trình giảm thuế nhập khẩu của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN (Nghị quyết số 292/NQ-UBTVQH9 ngày 8/11/1995 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội) và theo đó Chính phủ đã ban hành Danh mục hàng hoá và thuế suất các mặt hàng của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN áp dụng cho từng năm. (Ví dụ Danh mục hàng hoá và thuế suất của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN cho năm 1999 ban hành kèm theo Nghị định của Chính phủ số 14/1999/NĐ-CP ngày 23/3/1999. Điều dễ nhận thấy ở đây là thuế suất ưu đãi đặc biệt phần lớn chỉ bằng 1/2 thuế suất ưu đãi và thuế suất ưu đãi chỉ bằng 1/2 thuế suất thông thường. Như vậy trong xu hướng hội nhập Việt Nam đứng trước một thử thách của việc phải giảm mạnh thuế nhập khẩu. Trong hệ thống thuế gián thu được ban hành năm 1990 là Luật thuế doanh thu (8/8/1990). Ưu điểm của luật thuế này là quy định thuế suất thấp (để khắc phục một phần đánh trùng thuế qua nhiều khâu), nhiều mức thuế suất phân biệt theo ngành nghề, mặt hàng, linh hoạt dễ sửa đổi, thu thuế dứt điểm từng lần bán hàng, phù hợp với việc điều tiết ngân sách Nhà nước. Nhưng bên cạnh đó cũng là những nhược điểm cơ bản là thu thuế trùng lắp qua mỗi khâu lưu thông bán hàng; mặt khác cùng một mặt hàng nếu tổ chức sản xuất kinh doanh khác nhau thì số thuế nộp sẽ khác nhau, không phù hợp với cơ chế thị trường. Nhằm khắc phục những nhược điểm này và nhằm làm cho hệ thống thuế của nước ta từng bước tiến tới tương đồng với thuế các nước cũng như phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác, giao lưu kinh tế giữa các nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới, trong cải cách bước hai hệ thống chính sách thuế, luật thuế giá trị gia tăng đã được Quốc hội thông qua ngày 10/5/1997 có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999 thay thế cho Luật Thuế doanh thu. Một trong những mục tiêu của luật thuế giá trị gia tăng là hoàn thiện hệ thống chính sách thuế cho phù hợp với nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện hoà nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiêm trong quá trình gần 1 năm thực hiện luật này cho đến nay đã phát sinh không ít những vấn đề mà Chính phủ phải có những biện pháp xử lý mang tính chất tình huống (như tạm thời chưa thu hoặc giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng đối với một số mặt hàng) do những nguyên nhân và điều kiện khác nhau của việc áp dụng thuế giá trị gia tăng. Ngoài ra thuế tiêu thụ đặt biệt được áp dụng đầu tiên theo luật thuế tiêu thụ đặc biệt ngày 30/6/1990 và sửa đổi bổ sung bởi luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt ngày 5/7/1993. Theo đó thuế tiêu thụ đặc biệt được áp dụng đối với tất cả các tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Điểm đáng lưu ý là Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 05/1998/QH10 ban hành ngày 20/5/1998 đã mở rộng đối tượng (mặt hàng và dịch vụ) chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và ngoài cơ sở sản xuất hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, thì cơ sở nhập khẩu hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hoá này ở khâu nhập khẩu; cơ sở kinh doanh dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt cung ứng cho các đối tượng tiêu dùng. Dường như ở đây còn có những vấn đề đang là đối tượng của các cuộc tranh luận về cơ sở của việc xác định đối tượng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (ví dụ như tại sao lại xếp ô tô dưới 24 chỗ ngồi, xăng các loại, điều hoà nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trở xuống vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt). Đối với loại thuế trực thu, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 10/5/1997 có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999 và thay thế cho Luật thuế lợi tức lần đầu tiên vào năm 1990, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế lợi tức. Đây có thể coi là một bước tiến trong qúa trình cải cách thuế ở nước ta, có tính đến yêu cầu của việc hội nhập và phù hợp với thông lệ quốc tế và các nước trong khu vực. Từ 3 loại thuế suất: 25% (áp dụng cho công nghiệp nặng); 35% (áp dụng cho công nghiệp nhẹ); 35% (áp dụng cho thương nghiệp, ăn uống và dịch vụ các loại) nay được áp dụng chung một thuế suất là 32%. ý tưởng ban đầu trong Tờ trình cải cách bước 2 hệ thống chính sách về thuế là dự định thuế thu nhập doanh nghiệp và sẽ áp dụng chung cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; trên cơ sở đó bãi bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài nhằm bảo đảm bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Nhưng khi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được thông qua vẫn giữ lại sự phân biệt về thuế thu nhập doanh nghiệp giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đối với thuế thu nhập cá nhân, lần đầu tiên được ban hành vào năm 1990 (Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao được sửa đổi bổ sung vào các năm 1991, 1992, 1993, 1994 và cho đến tháng 10/1996 trong Tờ trình Quốc hội về cải cách bước 2 hệ thống chính sách thuế, Chính phủ đề nghị nâng lên thành Luật thuế thu nhập cá nhân. Dự thảo Luật được trình Quốc hội nhưng chưa được thông qua. Vì vậy thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao một lần nữa được sửa đổi bằng Pháp lệnh sửa đổi một số điều của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (ngày 6/2/1997 và ngày 30/6/1999). Mặc dù vậy, việc thực thi các quy định pháp luật trên thực tế hiện cũng đang gặp nhiều khó khăn do chưa quản lý hết được các đối tượng có nghĩa vụ thuế. Mặc dù, trong thời gian qua trên lĩnh vực thuế đã đạt được những kết quả đáng kể đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, điều tiết sản xuất, điều tiết thu nhập và tiêu dùng nhằm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, nhưng trong bối cảnh cải cách tài chính công tất yếu đòi hỏi phải có những cải cách hành chính thuế sao cho hoạt động này có hiệu quả cao hơn. Trên thực tế cho thấy tồn tại cả hai hiện tượng: lạm thu thuế và ẩn lậu, trốn thuế bằng nhiều phương thức thủ đoạn khác nhau. Những bất cập trong quản lý hành chính thuế về các mặt tổ chức bộ máy và cán bộ, cơ chế quản lý điều hành công tác thu, nộp thuế là một trong những điều kiện thuận lợi cho việc làm phát sinh những hiện tượng tiêu cực này. 4. Kết luận Như đã trình bày ở trên, giữa hành chính với tài chính công có mối quan hệ qua lại biện chứng với nhau. Những yếu kém, bất cập trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước có phần xuất phát từ những yếu kém, bất cập trong hoạt đông của tài chính công. Xét trong mối quan hệ đó, điều này thể hiện ở một số điểm sau đây: - Việc thực thi hoạt động của bộ máy nhà nước chưa gắn liền và được đảm bảo bởi cơ chế và nguồn lực tài chính chi trả cho các hoạt động đó; - Việc phân cấp quản lý hành chính chưa thật sự dựa trên cơ sở của việc phân cấp tương ứng về quản lý ngân sách nhà nước để đảm bảo kinh phí tài chính cho hoạt động có hiệu quả ở mỗi cấp và ngược lại hoạt động tài chính công chỉ có thể đạt được hiệu quả trên cơ sở của một nền hành chính và bộ máy quản lý nhà nước hợp lý; - Chưa phải mọi cấp chính quyền trong bộ máy quản lý hành chính đều đã có trách nhiệm và quyền hạn quyết định nhất định trong việc quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính thuộc phạm vi quản lý của mình; - Tỉ trọng và cơ chế chi tiêu ngân sách nhà nước cho đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước có tác động quan trọng đến việc phát huy năng lực và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước còn có nhiều điểm bất hợp lý; - Việc giám sát đối với mọi hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước thông qua tài chính công chưa thật sự được quan tâm đúng mức và thực hiện một cách hữu hiệu. Từ những mỗi quan hệ biện chứng hữu cơ nói trên, xét cho cùng, vấn đề đặt ra cho việc cải cách tài chính công là ở chỗ: khắc phục những tồn tại yếu kém hiện có nhằm đảm bảo sao cho các hoạt động thu và chi ngân sách nhà nước có hiệu quả hơn, qua đó tác động đến toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ trên các lĩnh vực cũng như tạo ra sự tác động một cách tích cực và trực tiếp của tài chính công tới bản thân bộ máy hành chính nhà nước, tới cách thức tổ chức bộ máy, cơ cấu, tổ chức, phân cấp quản lý trong bộ máy nhà nước, cơ chế tài chính bên trong bộ máy nhà nước, tiền lương công chức … Phần III Những mục tiêu cần đạt được của cải cách hành chính trong thời gian tới. Xây dựng nền hành chính dân chủ; Tăng cường tính chuyên nghiệp trong nền hành chính; Xây dựng nền hành chính công khai, minh bạch; Xây dựng nền hành chính trong sạch; Xây dựng nền hành chính hiện đại I. xây dựng Nền hành chính chuyên nghiệp 1. Nền hành chính chuyên nghiệp và tiêu chí xác định nền hành chính chuyên nghiệp Việt Nam 1.1. Nền hành chính chuyên nghiệp Chuyên nghiệp là khái niệm được hiểu là chuyên làm một nghề hay lấy một việc, một hoạt động nào đó làm nghề chuyên môn. Chuyên nghiệp cũng được sử dụng để phân biệt với các công việc, hoạt động được thực hiện có tính nghiệp dư. Các nghĩa vừa nêu của khái niệm “chuyên nghiệp” đã phản ánh đúng nội dung thực chất của nền hành chính chuyên nghiệp. Theo đó, nền hành chính chuyên nghiệp được hiểu là nền hành chính mà hoạt động quản lý các công việc quốc gia thể hiện tính nghề nghiệp chuyên môn rõ rệt. Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động đa dạng, phong phú trên nhiều lĩnh vực và do nhiều loại cơ quan khác nhau, nhiều người có các chuyên môn khác nhau thực hiện; do đó, nền hành chính nhà nước có tính chuyên môn ở đây được hiểu là tất cả các lĩnh vực quản lý, các cơ quan và những ngư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBaocaochyende3.doc
Tài liệu liên quan