Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2008, chỉ riêng khu vực giáo dục chuyên nghiệp và đại học cả nước đã thành lập 192 cơ sở mới với 63 trường đại học, 92 trường cao đẳng và 37 trường trung cáp chuyên nghiệp. Nếu năm 2000 cả nước có 97 trường đại học, 104 trường cao đẳng và 246 trường trung cấp chuyên nghiệp thì năm 2007 số lượng các trường đại học là 158, 196 trường cao đẳng và 279 trường trung cấp chuyên nghiệp. Ngoài ra, còn có hàng chục trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề mới được hình thành. Số các cơ sở đào tại ngoài công lập cũng tăng nhanh (từ 22 trường đại học và cao đẳng ngoài công lập năm 2000, đến nay cả nước đã có 60 trường đại học và cao đẳng tư thục với 36 trường đại học và 24 trường cao đẳng). Vốn ngân sách đã được thực hiện đầu tư phát triển các trường đại học có trọng điêmr (Đại học Huế, Đaị học Thái Nguyên, Đại học Đà Nẵng, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Kinh Tế Quốc Dân, Đại học kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, Đại học Cần Thơ), các trường sư phạm (Trường đại học Quy Nhơn, Đại học sư phạm Đồng Tháp, Cao đẳng sư phạm Trung Ương 3, Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên, Đại học sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh) và các trường thuộc khu vực kinh tế khó khắn (Đại học Tây Bắc, Đại học Tây Nguyên).Trong đó, nguồn vốn sẽ được tập trung vào các công trình sẽ được đưa vào sử dụng theo đúng kế hoạch và chú trọng hỗ trợ phát triển cho các vùng dân tộc, vung khó khăn nhằm đảm bảo cho việc tăng quy mô đào tạo tai chỗ cho các vùng này; đã đưa vào sử dụng 231.060,5 m2 nhà lớp học, thư viện, nhà luyện tập và thi đấu thể thao, ký túc xá sinh viên phục vụ tốt cho việc giảng dậy và học tập của các khu vực.
61 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2143 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam từ năm 2001 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng khu vực, xây dựng thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo, lòng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, năng lực vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Bậc tiểu học, tăng tỷ lệ huy động học sinh đến trường từ 95 % năm 2000 lên 97% năm 2005 và 99 % năm 2010, bổ sung cơ sở sở vật chất cho hoạt động dạy và học cho giáo viên và học sinh trong trường, nhằm hỗ trợ dự án đổi mới nội dung sách giáo khoa. Đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở ở các thành phố, đô thị, vùng kinh tế phát triển vào năm 2005, và cố gắng đến năm 2010 đạt phổ cập trong cả nước. Tăng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi từ 74 % năm 2000 lên năm 80% năm 2005 và 90 % vào năm 2010. Thực hiện chương trình phân ban hợp lý nhằm đảm bảo cho học học sinh có học vấn phổ thông trung học, cơ bản theo một chuẩn thống nhất, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy năng lực của mỗi học sinh, giúp học sinh có những hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân luồng sau trung học phổ thông, để học sinh chọn ngành nghề phù hợp sau khi tốt nghiệp, tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào trung học phổ thông từ 38% năm 2000 lên 45% năm 2005 và 50 % vào năm 2010.
Đối với bậc học đại học cao đẳng, đây là bậc học có lượng vốn đầu tư lớn nhất so với các bậc học khác, đây là bậc học đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao, phù hợp với cơ cấu kinh tế - xã hội của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác bình đẳng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng giáo dục sau trung học thông qua việc đa dạng hóa chương trình đào tạo trên cơ sở xây dựng một hệ thống liên thông phù hợp với cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền của nhân lực và năng lực của các cơ sở đào tạo. Tăng cường năng lực thích ứng với việc làm trong xã hội, năng lực tự tạo việc làm cho mình và cho người khác. Nâng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân từ 118 năm học 2000 – 2001 lên 200 vào năm 2010, tăng quy mô đào tạo thạc sĩ từ 11.727 học viên năm 2000 lên 18.504 năm 2008, và ước đạt 38.000 học viên năm 2010..
2.1.3. Nội dung đầu tư:
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư cho giáo dục, NSNN phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn vốn đầu tư.
Về phát triển quy mô giáo dục và đào tạo.
Giáo dục mầm non: Từ sau khi có quyết định 161/ 2002/ QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ, giáo dục mầm non đã có bước phát triển, cơ bản đã giải quyết được khó khăn cho các xã trắng về giáo dục mầm non, mạng lưới và loại hình trường, nhất là mầm non dân lập và tư thục được mở rộng, số trẻ huy động đến trường, lớp mầm non ngày càng gia tăng, nhất là mẫu giáo 5 tuổi. Trong năm học 2004 – 2005 chỉ còn 13 xã trắng về giáo dục mầm non tập trung ở các tỉnh miền núi khó khăn như Hà Giang, Lai Châu, Bình Định… trong năm học này có 514.200 cháu nhà trẻ, tăng 24,3 % so với năm học 2003 – 2004; 2.499.000 học sinh mẫu giáo tăng 12,7 % so với năm học 2003 – 2004; đến năm học 2007 - 2008 con số này là 481.909 cháu nhà trẻ và 2.596.768 số học sinh mẫu giáo.
Giáo dục phổ thông, trong đó quy mô học sinh tiểu học tiếp tục giảm và đang dần đi vào ổn định, năm học 2004 – 2005 có 7.947.600 học sinh, giảm 402, 5 nghìn so với năm học 2003 – 2004, năm học 2007- 2008 là 6.871.795 học sinh . Đối với bậc trung học cơ sở , số học sinh THCS chưa ổn định, năm học 2004 – 2005 có 6.972.000 học sinh THCS tăng 2,7 % so với năm học 2003 – 2004, năm học 2007 – 2008 là 5.858.484 học sinh giảm 3% so với năm học 2006 – 2007, tỷ lệ huy động đi học trong độ tuổi tăng đạt 92 %. Tuy đang trong giai đoạn thực hiện phổ cập nhưng số học sinh THCS giảm do ảnh hưởng giảm hàng năm của số học sinh lớp 5, hiệm tượng giảm đã dừng và tăng dần trở lại tiếp cân với số dân số của độ tuổi sau khi cả nước đạt được phổ cập giáo dục đúng độ tuổi. Đối với bậc trung học phổ thông, các tỉnh thuộc vùng kinh tế phát triển vẫn giữ được mức tuyển sinh vào lớp 10 ổn định, năm học 2004 – 2005 có 2.847.300 học sinh phổ thông tăng 8,8 % so với năm học 2003 – 2004, năm học 2007 – 2008 là 3.070.023 học sinh tăng 0,5 % so với năm học 2005 - 2006.
Giáo dục đại học cao đẳng, trong thời gian qua giáo dục đại học tăng nhanh về số lượng và chất lượng giảng dậy, hàng năm đều đạt được các chỉ tiêu về quy mô như kế hoạch, các chỉ tiêu tăng thêm chủ yếu là do có thêm các trường đại học, cao đẳng mới thành lập, nên số chỉ tiêu tăng thêm chủ yếu dành cho các trường này.
Về phát triển mạng lưới trường lớp
Bảng 2.3: Số lượng trường của các cấp học giai đoạn 2001 – 2008
Đơn vị: trường
Năm học 2001-2002
Năm học 2002-2003
Năm học 2003-2004
Năm học 2004-2005
Năm học 2005-2006
Năm học 2006-2007
Năm học 2007-2008
Tổng số trường học
35.192
35.973
36.945
37.293
37.185
37.743
37.895
1. Mầm non
9.528
9.715
10.104
10.400
10.730
10.658
10.790
Nhà trẻ
251
157
129
135
125
100
98
Trường mẫu giáo
3.165
3.117
2.872
2.890
2.732
2.689
2.676
Trường mầm non
6.112
6.441
7.103
7375
7873
7871
8016
2. GD phổ thông
25.221
25.881
26.359
26.364
26.479
26.465
26.753
Trường tiểu học
13.897
14.163
14.346
14.350
14.420
14.502
14.573
Trường PTCS
1.270
1.197
1.139
1.156
1.162
1.201
1.212
Trường THCS
8.092
8.396
8.734
8.741
8.776
8.617
8.781
Trường TH cấp 2-3
569
523
455
398
378
347
315
Trường THPT
1.393
1.532
1.685
1.701
1.743
1.798
1.872
3.Trường THCN
252
245
286
290
302
310
327
4.Trường CĐ và ĐH
191
202
214
239
274
310
325
ĐH, trường ĐH, học viện
77
81
87
105
120
125
145
Trường CĐ
114
121
127
134
154
185
180
Nguồn: Kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo năm 2009 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Mạng lưới trường học phát triển theo xu hướng phù hợp với nhu cầu đào tạo của xã hội, số lượng các nhà trẻ và trường mẫu giáo có xu hướng giảm và dần thay thế là các trường mầm non với cơ sở vật chất khang trang, đảm bảo đủ khuân viên vui chơi, học tập cho các học sinh mầm non. Số lượng các trường tiểu học, phổ thông cơ sở, trung học cơ sở cũng có xu hướng tăng và phân bố đồng đều ở các địa phương, phường, xã, đảm bảo nhu cầu học của từng phường, xã quận, tránh tình trạng các trường cấp học phổ thông bị quá tải, học sinh phải học trái phường. Các trường đại học cao đẳng được thành lập mới chủ yếu là các trường ở các địa phương, và là trường dân lập, không tập trung xây dựng ở các khu đô thị lớn như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, điều này nhằm giảm sự quá tải ở các thành phố lớn, và giảm chi phí ăn ở, đi lại cho người học.
Chi đầu tư xây dựng cơ bản: Trong giai đoạn 2001 đến năm 2008 vốn đầu tư xây dựng cơ bản được bố trí tăng qua các năm, điêu này có thể thấy thông qua bảng sau:
Bảng 2.4: Vốn chi đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN năm 2001 đến năm 2008
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Ước tính 2009
Vốn đầu tư XDCB
4.165
5.647
5.746
4.900
8.027
11.385
14.584
18.844
21.320
Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Vụ Đầu Tư – Bộ Tài chính về vốn NSNN giành cho giáo dục giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Biểu đồ 2.2: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN năm 2001 đến năm 2008
Đơn vị: Tỷ đồng
Việc phân bổ vốn đầu tư cho các dự án được thực hiện từ ngay đầu năm kế hoạch theo đúng quyết định giao chỉ tiêu kế hoạch và dự toán ngân sách nhà nước của Thủ tướng chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính; được thực hiện công khai, đúng quy định, theo hướng dẫn; các đơn vị, dự án đều thực hiện kế hoạch vốn đầu tư được giao đúng nội dung, địa điểm và đúng cơ cấu vôn đầu tư, các dự án hoàn thành được sử dụng có hiệu quả phát huy tác dụng đối với nhiệm vụ giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học
Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2008, chỉ riêng khu vực giáo dục chuyên nghiệp và đại học cả nước đã thành lập 192 cơ sở mới với 63 trường đại học, 92 trường cao đẳng và 37 trường trung cáp chuyên nghiệp. Nếu năm 2000 cả nước có 97 trường đại học, 104 trường cao đẳng và 246 trường trung cấp chuyên nghiệp thì năm 2007 số lượng các trường đại học là 158, 196 trường cao đẳng và 279 trường trung cấp chuyên nghiệp. Ngoài ra, còn có hàng chục trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề mới được hình thành. Số các cơ sở đào tại ngoài công lập cũng tăng nhanh (từ 22 trường đại học và cao đẳng ngoài công lập năm 2000, đến nay cả nước đã có 60 trường đại học và cao đẳng tư thục với 36 trường đại học và 24 trường cao đẳng). Vốn ngân sách đã được thực hiện đầu tư phát triển các trường đại học có trọng điêmr (Đại học Huế, Đaị học Thái Nguyên, Đại học Đà Nẵng, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Kinh Tế Quốc Dân, Đại học kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, Đại học Cần Thơ), các trường sư phạm (Trường đại học Quy Nhơn, Đại học sư phạm Đồng Tháp, Cao đẳng sư phạm Trung Ương 3, Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên, Đại học sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh) và các trường thuộc khu vực kinh tế khó khắn (Đại học Tây Bắc, Đại học Tây Nguyên).Trong đó, nguồn vốn sẽ được tập trung vào các công trình sẽ được đưa vào sử dụng theo đúng kế hoạch và chú trọng hỗ trợ phát triển cho các vùng dân tộc, vung khó khăn nhằm đảm bảo cho việc tăng quy mô đào tạo tai chỗ cho các vùng này; đã đưa vào sử dụng 231.060,5 m2 nhà lớp học, thư viện, nhà luyện tập và thi đấu thể thao, ký túc xá sinh viên… phục vụ tốt cho việc giảng dậy và học tập của các khu vực.
Trong phần vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản vốn ODA chiếm một tỷ lệ lớn, góp phần quan trọng vào quá trình hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dậy của các cấp học. Tiến độ giải ngân thực tế so với kế hoạch năm 2008: Tổng số vốn ODA giải ngân là 50,22 triệu USD (kế hoạch là 56,85 triệu USD), so với kế hoạch đạt 88%. Tổng số vốn đối ứng giải ngân là 12,66 triệu USD tương đương 202.624 triệu đồng (kế hoạch là 12,66 triệu USD tương đương 202.624), so với kế hoạch đạt 100%. Lũy kế tỷ lệ giải ngân thực tế đến năm 2008: So với tổng số vốn đã ký kết của 9 chương trình, dự án ODA do Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai thực hiện, lũy kế giải ngân đến năm 2008 là 136,23 triệu USD, so với tổng vốn của 9 dự án, chương trình là 275,40 triệu USD, tỷ lệ đạt 49%. Riêng vốn đối ứng lũy kế giải ngân đến năm 2008 là 30,91 triệu USD, so với tổng vốn cam kết 62,96 triệu USD, đạt 49%. Sau 10 năm sử dụng nguồn vốn ODA trong giáo dục, số dự án cho giáo dục tiểu học chiếm khoảng 47%, trung học 33%, đại học 19%. Những dự án, chương trình này đã giúp Việt Nam giải quyết vấn đề cấp thiết nhất là nâng cao chất lượng giáo dục và thực hiện công bằng giáo dục, năng lực làm kế hoạch, quản lý. Tình hình quản lý các chương trình, dự án ODA của Bộ Giáo dục và Đào tạo đều được triển khai, thực hiện tốt. Các hoạt động đều sát với nội dung đã đàm phán ký kết, công tác quản lý tài chính, công tác đấu thầu trong mua sắm trang thiết bị và các công trình xây dựng, tuyển dụng tư vấn đã được thực hiện đầy đủ theo các quy định của nhà nước và nhà tài trợ. Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2008, nhìn chung các dự án đều được tiến hành giải ngân và đã tương đối đảm bảo tiến độ, trong đó có một số công trình quan trọng đã hoàn thành như:
Dự án Giáo dục tiểu học thực hiện bằng vốn vay của WB tổng mức đầu tư cho dự án là 71 triệu USD thực hiện từ năm 1995, hoàn thành 31/12/2002, riêng phần vốn XDCB 46,3 triệu USD (nhà nước: 40,8 triệu USD; tư nhân : 5,5 triệu USD); xây dựng tại 35 tỉnh thành phố với 6.991 phòng học được xây dựng mới và sửa chữa (6513 phòng học xây dựng mới, 478 phòng sửa chữa) tương đương với 445.185 m2 sử dụng và trang thiết bị đồ gỗ, máy tính, đào tạo giáo viên, nâng cao chất lượng quản lý cho hiệu trưởng, xây dựng mạng lưới bản đồ trường học cho các trường tiểu học vùng núi và đồng bằng sông Cửu Long. Dự án này được dánh giá là thực hiện rất tốt phần XDCB. Hoàn thành được toàn bộ kế hoạch của dự án đề ra.
Dự án phát triển giáo dục Trung học cơ sở: thực hiện bằng nguồn vốn vay ADB tổng mức đầu tư là 71,5 triệu USD, riêng phần XDCB là 13,6 triệu USD, tương đương 212 tỷ đồng. Tổng số trường học đã được xây dựng là 366 trường với tổng số 2482 phòng học tương đương 161.300 m2 phòng học, đến ngày 31/12/2004 đã hoàn thành toàn bộ các phòng học và đưa vào sử dụng.
Dự án xây dựng các trường tiểu học vùng bão giai đoạn I thực hiện bằng nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng xong 203 trường tiêu học, gồm 2330 phòng học kiên cố ở 17 tỉnh ven biển từ Quảng Ninh đến Bình Thuận
Dự án cải tạo cơ sở vật chất cho giáo dục miền núi phía Bắc, với tổng vốn đầu tư là 216 tỷ đồng (thực hiện bằng nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của chính phủ Nhật Bản là 212 tỷ đồng đối ứng 3,5 tỷ đồng). Xây dựng 61 điểm trường với diện tích sàn là 26.710 m2.
Năm 2008, Bộ Giáo dục và đào tạo có tất cả 10 dự án triển khai hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Trong đó có 8 dự án vay nợ (gồm cả dự án vay nợ có thành phần viên trợ) và 2 dự án viện trợ. Tổng nguồn vốn xây dựng cơ bản được giao năm 2008 là 1.112,192 triệu đồng, bao gồm chủ yếu là vốn vay 906.150 triệu đồng (chiếm 81,47%) và vốn đối ứng 202.624 triệu đồng (chiếm 18,22%), vốn viện trợ đóng góp phần nhỏ là 3.418 triệu đồng (o,31%). Căn cứ vào các báo cáo của dự án thì ước thực hiện năm 2008 đạt 1.023.560 triệu đồng, bao gồm vốn vay 801.700 triệu đồng (chiếm 78,32 %), vốn đối ứng 220.624 triệu đồng chiếm (21,5%), vốn viện trợ 1.798 triệu đồng (0,18%). So sánh tình hình thực hiện năm 2008 với kế hoạch vốn được giao cho thấy về tổng thể thì kế hoạch vốn XDCB được thực hiện khá triệt để, đạt 92%.Trong đó, vốn vay đạt 88%, vốn viện trợ đạt 53% và vốn đối ứng đạt 109%.Vốn viên trợ đạt tỷ lệ không cao (53 %) bởi Dự án hỗ trợ kỹ thuật mở rộng cơ hội học tập cho thanh niên dân tộc thiểu số bắt đầu được thực hiện năm 2008 là năm đầu tiên, đây cũng là tình trạng chung của các dự án mới bắt đầu được triển khai. Vốn đối ứng đạt 109% chứng tỏ khối lượng xây dựng cơ bản hoang thành của các dự án lớn hơn số vốn được giao kế hoạch. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do sự thiếu hụt trầm trọng về vốn đối ứng của dự án giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, tỷ lệ của vốn đối ứng của dự án này lên đến 167% vượt 67% so với kế hoạch được giao. Trong khi đó, các dự án vay còn lại đều đạt tỷ lệ tương đương hoặc thấp hơn kế hoạch được giao: Dự án phát triển Giáo dục trung học cơ sở II đạt 62%, Dự án hỗ trợ và Phát triển đào tạo ĐH &SĐH về CNTT&TT đạt 25%...
Chi thường xuyên, phần vốn giành chi thường xuyên bao gồm: chi thường xuyên cho giáo dục đào tạo, chi sự nghiệp nghiên cứu khoa học, chi sự nghiệp đảm bảo xã hội, chi sự nghiệp kinh tế, chi sự nghiệp bảo vệ môi trường, chi quản lý hành chính, chi trợ giá báo chí.
Chi thường xuyên cho giáo dục đào tạo: đây là phần chi đào tạo cho các đối tượng học sinh, sinh viên hàng năm, bồi dưỡng công chức. Với quy mô đào tạo ngày càng tăng của tất cả các bậc học, chi phí thường xuyên cũng ngày càng tăng để đáp ứng yêu cầu của người học.
Bảng 2.5: Chi thường xuyên cho đào tạo năm 2008
Cấp học, trình độ đào tạo
Quy mô đào tạo hệ chính quy
(học sinh, sinh viên)
Mức chi NSNN cấp bình quân/hs,sv chính quy
(triệu đồng/người/năm)
Đào tạo sau đại học (nghiên cứ sinh, cao học, chuyên khoa 1,2).
29.998
2,3
Đại học, cao đẳng:
482.260
1,99
Dự bị đại học, dân tộc nội trú, năng khiếu.
7.369
12,9
Trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề.
22.414
1,53
Nguồn: Kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo năm 2009 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Với quy mô đào tạo qua các năm với tỷ lệ tăng rất cao năm 2001 so với 2000 là 70 %, năm 2002 so với năm 2001 là 82%,.., năm 2007 so với năm 2008 là 101%, dự kiến năm 2009 so với năm 2008 là 105,6 %. Về quy mô đào tạo, quy mô đào tạo tăng trung bình khoảng 5% một năm, có thể thấy năm học 2006 – 2007, tổng số sinh viên đại học và cao đẳng tăng hơn 63 % so với năm học 2000 – 2001 (từ 918.300 sinh viên tăng lên 1.503.800 sinh viên). Trong cùng thời kỳ, quy mô học sinh trung cấp chuyên nghiệp tăng xấp xỉ 2,02 lần (từ 255.300 tăng lên 515.700); học sinh học nghề dài hạn tăng 2,26 lần (từ 195.300 tăng lên 442.000) và học sinh học nghề ngắn hạn tăng 63% (từ 662.000 lên 1.080.000). Hàng năm NSNN vẫn tiếp tục thực hiện tăng hỗ trợ kinh phí đào tạo cho các bậc học. Tuy nhiên mức chi phí đào tạo bình quân của học sinh, sinh viên còn khá eo hẹp so với quy mô đào tạo và so với chi phí cho các học sinh sinh viên được cử đi học ở các nước hiệp định (năm 2008 là 56,53 triệu đồng/ sinh viên), chi phí đào tạo quá thấp sẽ rất khó khăn cho các trường thực hiện đổi mới nội dung phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng.
Chi sự nghiệp nghiên cứu khoa học: Bộ Giáo dục đào tạo chỉ đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ khoa học công nghệ trong điểm cấp Bộ; tập trung nghiên cứu những vấn đề khoa học giáo dục, nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo, đổi mới công tác chỉ đạo, quản lý giáo dục và đào tạo. Triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng các thành tự khoa học công nghệ phục vụ phát triển giáo dục và đào tạo của Ngành và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghiên cứu khoa học của các trường đại học hướng mạnh vào việc nâng cao năng lực nghiên cứu của giảng viên, gắn với đào tạo sau đại học (đào tạo tiến sĩ), nâng cao hiệu quả phục vụ xã hội. Tăng cường đầu tư nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của các trường về nhân lực, cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, hệ thống thông tin khoa học. Đẩy mạnh hợp tác với các doanh nghiệp nghiên cứu khoa học, xây dựng hệ thống nhận đặt hàng nghiên cứu khoa học, xây dựng hệ thống đặt hàng nghiên cứu, phẩn bổ kinh phí nghiên cứu khoa học có tiêu chí rõ ràng, gắn với đào tạo tiến sĩ, ưu tiên hỗ trợ nghiên cứu sinh và đẩy mạnh hình thức đồng tài trợ nghiên cứu khoa học, tăng cường phân cấp quản lý đối với các trường đại học. Một số đề tài nghiên cứu khoa học quan trọng đã được thực hiện trong thời gian qua, đã phát huy được hiệu quả đáng kể. Đề tài độc lập cấp Nhà nước: gồm 5 đề tài với tổng kinh phí 6.100 triệu đồng. Số lượng đề tài độc lập cấp Nhà nước giao (thông qua tuyển chọn, đấu thầu) của các đơn vị và cá nhân trực thuộc Bộ Giáo dục và đào tạo ngày càng tăng về số lượng, quy mô và kinh phí. Chương trình khoa học và công nghệ cấp Bộ: “Phát triển giáo dục và đào tạo Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế”. Chương trình gồm 7 đề tài cấp Bộ, đến nay các chủ nhiệm đề tài đang trong quá trinh hoàn thiện để đánh giá nghiệm thu. Kết quả chương trình là nghiên cứu tổng thể về phát triển giáo dục và đào tạo của đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế, xác định những cơ hội và thách thức, dự báo nhu cầu nhân lực của sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2011 – 2010. Chương trình đã có những đóng góp về lý luận và thực tiễn giải quyết một số vấn đề tồn tại của giáo dục và đào tạo trong quá trình hội nhập quốc tế như: cơ cấu đào tạo giáo dục, cơ cấu trình độ, chi phí đào tạo đại học…Trong năm 2008, các đơn vị trực thuộc Bộ Giáo dục và đào tạo được giao 5.440 triệu đồng để triển khai thực hiện 135 nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên. Các đề tài khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Bộ được tuyển chọn theo quy trình quy định tại quyết định về quản lý đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ, tập trung theo các hướng trọng điểm, ưu tiên phục vụ nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo cao học, nghiên cứu, có sản phẩm rõ ràng, địa chỉ ứng dụng cụ thể. Đối với các dự án sản xuất thử nghiệm cấp Bộ, trong năm 2008 đã triển khai 10 dự án sản xuất thử nghiệm, với tổng số kinh phí là 2.400 triệu đồng. Trong đó có 8 dự án chuyển từ năm 2007 sang năm 2008 và 2 dự án bắt đầu thực hiện từ năm 2008. Dự án sản xuất thử nghiệm cấp Bộ đã thực hiện đạt được các mục tiêu là triển khai kết quả nghiên cứu, các kỹ thuật tiến bộ để hoàn thiện quy trình công nghệ, tạo sản phẩm mới có chất lượng và tính cạnh tranh cao đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội, tạo thêm việc làm, kích thích một số ngành nghề phát triển, tiết kiệm và tận dụng nguồn tài nguyên và nhân lực trong nước, thay thế nhập khẩu, bảo vệ môi trường. Góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học và chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
Chi sự nghiệp kinh tế: thực hiện điều tra cơ bản, quy hoạch ở các lĩnh vực cấp thiết của ngành nhằm phục vụ chỉ đạo, quản lý và xây dựng chính sách, các đề án đã triển khai điều tra cơ bản thực trạng và khiến nghị giải pháp về mô hình quản lý tài chính đối với các trường đại học công lập do trường Đại học kinh tế quốc dân thực hiện, nâng cao hiệu quả đầu tư ở các Đại học vùng do Đại học Huế thực hiện, điều tra thực trạng quản lý tài chính do Đại học Sư phạm Hà Nội thực hiện…Tổ chức thực hiện các chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động, trong năm 2008 với 1.450 triệu đồng triển khai thực hiện ở 6 trường: Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học sư phạm thể dục thể thao Hà Tây, ĐH Nông nghiệp I, Đại học xây dựng, Đại học Thái Nguyên và ĐH SP Hà Nội. Một số chương trình Hợp tác Giáo dục đào tạo, nghiên cứu các chính sách đầu tư nước ngoài và môi hình đầu tư giáo dục nước ngoài tại Việt Nam. Nhìn chung, các dự án nghiên cứu đã đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dục, giúp các nhà quản lý, các cấp nghiên cứu xây dựng chính sách phát triển cụ thể, và có chất lượng tốt.
Chi Chương trình mục tiêu quốc gia:
Bảng 6: Vốn ngân sách chi chương trình mục tiêu quốc gia
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
Ngân sách chi Chương trình mục tiêu quốc gia
1.250
2.500
2.763
3.365
3.480
Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Vụ Đầu Tư – Bộ Tài chính về vốn NSNN giành cho giáo dục giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Chi Chương trình mục tiêu quốc gia tập trung vào các nội dung chủ yếu:
Dự án đổi mới chương trình, nội dung sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy. Với yêu cầu cấp thiết của thời kỳ mới, nội dung hệ thống sách giáo khoa của các cấp học không còn phù hợp với điều kiện giảng dạy, và kiến thức không còn thực sự đáp ứng được nhu cầu của người học, Bộ Giáo dục đã tiến hành biên soạn và xuất bản sách của 3 cấp học tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. Dự kiến tổ chức thay sách đại trà lớp 12 vào năm học 2008 – 2009, quá trình đưa một bộ sách vào đại trà trong giảng dạy mất nhiều thời gian, từ quá trình triển khai thí điểm cho học sinh học thử, từ quá trình đó dần hoàn thiện sách giáo khoa giành cho học sinh, sách giành cho giáo viên, tài liệu dạy học tự chọn; biên soạn chương trình tài liệu giành cho các trường THPH chuyên; tổ chức bồi dưỡng nghiêp vụ cho giáo viên chủ chốt tham gia dạy đại trà; mua thiết bị dùng chung, đồ dùng học tập tối thiểu theo chương trình và sách giáo khoa mới. Hoàn thiện bộ chương trình và biên soạn tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình chăm sóc và giáo dục mầm non, xây dựng chương trình, giáo trình, tài liệu dạy học dùng để đào tạo sinh viên các trường cao đẳng sư phạm mẫu giáo. Hỗ trợ xây dựng chương trình khung đào tạo trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học, chương trình khung, giáo trình cho các môn học dùng chung trong các trường cao đẳng và đại học, xây dựng giáo trình điện tử. Biên soạn tài liệu và sách giáo khoa, sách hướng dẫn, sách tham khảo cho một số tiếng dân tộc thiểu số (H’mông, Chăm, Bana, Jrai,…), xây dựng chương trình biên soạn giáo trình đào tạo giáo viên dạy tiếng dân tộc.
Dự án Đào tạo nguồn nhân lực Công nghệ thông tin, đưa công nghệ thông tin vào nhà trường. Trong năm 2004, kinh phí của dự án này là 65 tỷ đồng, phân bổ cho Trung ương 15 tỷ đồng, các địa phương: 50 tỷ đồng. Bình quân mỗi tỉnh được phân bổ gần 800 triệu đồng, với lượng ngân sách như trên, cuối năm 2004, các trường THPT, các trung tâm GDTX, các phòng giáo dục đã có ít nhất 1 máy được nối mạng Internet, một số tỉnh có điều kiện đã kết nối mạng giữa Sở Giáo dục và Đào tạo với các trường và các đơn vị trực thuộc. Trên cơ sở đó, trong các năm tiếp theo, tiếp tục thực hiện dự án nói trên đồng thời bố trí kinh phí để thực hiện “Chương trình phát triển nguồn nhân lực CNTT đến năm 2010”, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ĐH và SĐH về CNTT, nâng cao chất lượng đào tạo về CNTT và phổ cập tin học cho cán bộ công nhân và viên chức, ứng dụng CNTT trong trường phổ thông…
Dự án hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng dân tộc ít người và vùng có nhiều khó khăn, kinh phí giành cho dự án chủ yếu đầu tư cho hệ thống trường Phổ thông dân tộc nội trú. Hệ thống các trường PTDTNT đã có sự đầu tư khá lớn từ kinh phí nhà nước, nhưng nhiều trường còn chưa xây dựng đầy đủ các hạng mục công trình, đặc biệt là nhà đa chức năng (đối với trường có từ 200 học sinh trở lên), trang thiết bị phục vụ học tập văn hóa, học nghề còn rất thiếu thốn. Tiếpthục đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục miền núi, đặc biệt là cho các trường PTDTNT theo hướng chuẩn hóa về trường lớp, tăng cường đồ dùng học tập phục vụ công tác giáo dục hướng nghiệp cho học sinh các trường PTDTNT các cấp.
Tăng cường cơ sở vật chất các trường học, phần kinh phí giành cho cải tạo sửa chữa, xây dựng chiếm khoảng 49% kinh phí cải tạo, sửa chữa. Tập trung kinh phí để xây dựng cải tạo nhà học, thư viện và nhà làm việ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21693.doc