Mạng lưới giao thông đường bộ Hà Nội giữ vị trí quan trọng nhất trong mạng lưới giao thông Hà Nội: 65 – 70% khối lượng vận chuyển hàng hoá và 70 – 75% khối lượng vận chuyển hành khách.
Đến tháng 9/2005, Hà Nội có 445 tuyến đường với tổng chiều dài 526,5km. Đường khu vực nội thành dài 382,4km, đường ngoại thành dài 144,2km (ngoài ra còn hơn 1000km đường liên huyện, liên xã) toàn tuyến có 436 ngã ba, 241 ngã tư, ngã năm trở lên; những điểm lưu thông - về mặt lý thuyết – có nguy cơ ùn tắc cao. Trên các tuyến nội thành, mật độ phương tiện giao thông tham gia rất đông. Theo số liệu của Phòng cảnh sát giao thông và Sở giao thông công chính Hà Nội, trong năm 2007, số phương tiện đăng ký mới đã tăng 146, 96% xe ôtô (khoảng 15.694 xe); đăng ký mới môtô 185.653 xe, tăng 49.698 xe (36, 29%) so với năm 2006, nâng tổng số phương tiện đang quản lý lên hơn 200.000 xe ôtô, 1.943.411 môtô, xe máy. Chưa kể số xe của các cơ quan Trung ương, Quân đội và khoảng 31% tổng số phương tiện đăng ký ở các tỉnh hoạt động trên địa bàn Hà Nội. Trung bình mỗi kilômét đường nội thành chịu tải khoảng hơn 500 ôtô và hơn 5000 mô tô, xe máy các loại.
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2604 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp giảm ùn tắc giao thông đô thị tại thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dịch vụ, tham gia vào việc cung ứng vật tư kỹ thuật, nguyên liệu, năng lượng cho các cơ sở sản xuất và đưa sản phẩm đến thị trường tiêu thụ, giúp cho các quá trình sản xuất xã hội diễn ra liên tục và bình thường. Giao thông vận tải phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân, giúp cho các hoạt động sinh hoạt được thuận tiện.
Các mối liên hệ kinh tế, xã hội giữa các địa phương được thực hiện nhờ mạng lưới giao thông vận tải. Vì thế, những nơi nằm gần các tuyến vận tải lớn hoặc các đầu mối giao thông vận tải cũng là những nơi tập trung các ngành sản xuất, dịch vụ và dân cư. Nhờ hoàn thiện kỹ thuật, mở rộng cự li vận tải, tăng tốc độ vận chuyển mà các vùng xa xôi về mặt địa lí cũng trở nên gần. Những tiến bộ của ngành vận tải đã có tác động to lớn làm thay đổi sự phân bố sản xuất và phân bố dân cư trên thế giới.
Ngành giao thông vận tải phát triển góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế, văn hoá ở những vùng núi xa xôi, củng cố tính thống nhất của nền kinh tế, tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước và tạo nên mối giao lưu kinh tế giữa các nước trên thế giới.
Thủ đô Hà Nội nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, là đầu mối trong những cửa ngõ giao thông giữa nước ta với các nước trong khu vực và thế giới. Hệ thống giao thông có vai trò đặc biệt quan trọng, giúp liên thông giữa Hà Nội với các địa phương khác để hỗ trợ tăng trưởng và phát triển ở tất cả các khu vực trong vùng và cả nước, giúp kết nối Hà Nội với quốc tế nhằm phát triển thương mại, du lịch và đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Thủ đô. Đồng thời, hệ thống giao thông cũng góp phần tạo nên bộ mặt và vẻ đẹp đô thị cho Hà Nội. Vì vậy đối với mạng lưới giao thông Hà Nội phải quan tâm đến cả hệ thống giao thông đô thị và hệ thống giao thông liên kết Hà Nội với bên ngoài. Bên cạnh đó, khi phát triển mạng lưới giao thông cần phải quan tâm đến các phương thức vận tải, đặc biệt là vận tải công cộng.
I.2.2. Giao thông vận tải đô thị với vấn đề môi trường
Hệ thống giao thông vận tải đô thị nếu không đáp ứng được sự gia tăng phương tiện giao thông cơ giới, không theo kịp tốc độ đô thị hoá với sự tăng lên không ngừng của dân số đô thị, sẽ dẫn đến quá tải và gây ra tác động tiêu cực với môi trường. Ảnh hưởng nghiêm trọng từ giao thông vận tải đô thị đến môi trường đó là ô nhiễm không khí và tiếng ồn. Gia tăng phương tiện giao thông cơ giới tại các đô thị trong những năm qua đã làm gia tăng ô nhiễm bụi, khí thải và tiếng ồn do các hoạt động giao thông gây ra. Ùn tắc giao thông, phố hóa quốc lộ, tỉnh lộ, hoạt động xây dựng hạ tầng và khu dân cư góp phần làm gia tăng mức độ ô nhiễm. Ô nhiễm tiếng ồn giao thông và các ảnh hưởng tới sức khỏe người dân đô thị lớn hơn nhiều so với các đô thị khác trên thế giới. Theo kết quả nghiên cứu giá trị mức ồn tăng từ 2 - 5dBA do cấu trúc nhà ống, liền kề, bám dọc theo các tuyến đường. Sự bố trí không hợp lý các khu chức năng trong đô thị làm nghiêm trọng thêm ô nhiễm tiếng ồn, nhất là đối với trường học, bệnh viện, công sở, và khu dân cư. Giá trị tiếng ồn vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1 - 15dBA.
Ở những nút giao thông có mức độ ô nhiễm không khí cao như Ngã Tư Sở, mặt phố Lò Đúc, tỷ lệ mắc các bệnh hô hấp cao hơn nơi khác 2-3,5 lần. Các bệnh về mắt, thần kinh, cũng cao hơn hẳn.
Đó là kết quả một nghiên cứu do Y học lao động và vệ sinh môi trường thực hiện. Các chuyên gia đã khảo sát mức độ ô nhiễm không khí ở hai nút giao thông kể trên và nhận thấy, vào mùa nóng, nồng độ CO vượt tiêu chuẩn cho phép 3-4 lần, nồng độ SO2 vượt ngưỡng 2-2,6 lần. Ngay cả vào mùa lạnh, nồng độ CO cũng cao từ gấp rưỡi đến gấp đôi mức cho phép.
Tương ứng, tình trạng sức khỏe dân cư ở đây cũng tệ hơn nhiều so với người sống ở vùng không bị ô nhiễm không khí. Cụ thể, tỷ lệ có triệu chứng tổn thương đường hô hấp như thường xuyên ho khan, ho và khạc đờm, khó thở, viêm họng, chảy nước mũi cao gấp đôi đến gấp 3. Các biểu hiện suy nhược thần kinh và rối loạn thần kinh thực vật (khó ngủ, khó tập trung, ra mồ hôi trộm, nhức đầu), tổn thương mắt, tai mũi họng cũng cao từ gấp rưỡi đến gấp 4 lần so với dân cư sống ở vùng không khí bình thường.
Kết quả chụp phim X-quang phổi của dân cư vùng phố Lò Đúc cho thấy, tỷ lệ phim bất thường cao gấp 3 so với dân đường Võng Thị, nơi không khí không ô nhiễm.
Tiến sĩ Nguyễn Duy Bảo, Phó viện trưởng Viện Y học lao động và vệ sinh môi trường, năm 2007 với hơn 100.000 ô tô, 1,5 triệu chiếc xe máy và 400 cơ sở công nghiệp, mỗi năm bầu không khí Hà Nội phải tiếp nhận 80.000 tấn bụi khói, 9000 tấn khí SO2, 46.000 tấn CO2 – mà hiện nay con số này là hơn 200.000 ôtô và gần 2 triệu xe máy. Dự báo sau 3 năm nữa, nồng độ các chất độc hại nói trên tại các nút giao thông sẽ vượt tiêu chuẩn cho phép 7-9 lần, riêng chất hữu cơ bay hơi sẽ vượt chuẩn 33 lần.
I.3. Đô thị hoá và tác động của đô thị hoá đến sự phát triển hệ thống giao thông đô thị
Đô thị hoá là xu thế tất yếu của xã hội loài người. Tính quy luật và những đặc điểm của đô thị hoá đang được coi là một trong những lĩnh vực có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển xã hội hiện nay.
Đô thị hoá là quá trình biến đổi và phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở, hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô, mật độ dân số.
Đô thị hoá gắn liền với sự biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội của đô thị và nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ…
Ở các nước đang phát triển (như Việt Nam), đô thị hoá có đặc trưng nổi bật là sự di chuyển dân cư và sự phát triển công nghiệp. Song, sự di chuyển dân cư không hoàn toàn dựa trên cơ sở phát triển kinh tế.
Dân số đô thị tăng nhanh: sự nhập cư ồ ạt vào các đô thị đã cung cấp cho đô thị nguồn nhân lực dồi dào là cơ sở cho các cơ sở sản xuất mới ra đời cơ sở cũ mở rộng quy mô sản xuất… nhưng nó cũng tạo ra sự quá tải về cơ sở hạ tầng và làm mất cân đối về các dịch vụ đô thị, đặc biệt là quá tải đối với hệ thống giao thông vận tải đô thị, dẫn đến ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường…
Giao thông đô thị đặt ra như một bài toán khó đối với hầu hết các đô thị lớn trên thế giới cũng như ở Hà Nội hiện nay. Tốc độ tăng dân số, lao động đô thị và tăng trưởng kinh tế nhanh, nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hoá cũng tăng tương ứng, trong khi đó cơ sở hạ tầng đường sá không đáp ứng kịp, phương tiện giao thông hỗn hợp trong đó chủ yếu là xe hai bánh và do mật độ quá cao về xe máy, xe đạp, vấn đề giao thông ở các thành phố - trong đó có Hà Nội – đang và sẽ là vấn đề nan giải, cấp bách hàng đầu. Tai nạn giao thông xảy ra ngày càng nghiêm trọng. Độ an toàn của người tham gia giao thông ngày càng thấp. Chi phí về thời gian đi lại ngày càng cao chính là sự lãng phí lớn của xã hội.
I.4. Lưu lượng giao thông tối ưu và ùn tắc giao thông
Ùn tắc giao thông trong giờ cao điểm thường xảy ra ở các thành phố lớn và ùn tắc ở mức độ nhất định lại có thể được xem là có hiệu quả. Nếu một thành phố thưa vắng dân cư, mật độ đi lại thấp thì có nghĩa là hiệu quả sử dụng các công trình giao thông không cao.
Lưu lượng giao thông tối ưu là là mức lưu lượng giao thông mà tại đó chi phí xã hội cận biên bằng với lợi ích xã hội cận biên của việc tham gia giao thông.
Giả sử hệ thống đường sá trong thành phố có hình nan quạt, hướng về trung tâm; trung bình mỗi người hàng ngày phải đi làm với quãng đường 10km (cả đi và về).
Chi phí xã hội cho việc đi lại gồm chi phí cá nhân và chi phí ngoại ứng do tắc nghẽn gây ra. Trong đó, chi phí cá nhân gồm hai thành phần: Chi phí xăng xe (xăng dầu và khấu hao xe) và chi phí cơ hội cho thời gian đi lại. Giả sử chi phí xăng xe là 600đ/km, với quãng đường 10km chi phí cho xăng xe là 6000đ. Chi phí xăng xe coi như cố định. Chi phí cơ hội cho thời gian đi lại phụ thuộc vào mật độ xe đi lại, đường sá… và theo Luật giao thông, tốc độ tối đa trong thành phố cho xe máy là 40km/h, do đó thời gian cần thiết cho 10km là 15 phút; chi phí thời gian đi lại là 300đ/phút; chi phí cơ hội cho 15 phút là 4500đ. Như vậy tổng chi phí cá nhân cho chuyến đi 15 phút là 10500đ.
Thời gian đi lại của mỗi phương tiện là một hàm số phụ thuộc lưu lượng phương tiện giao thông (LG) trên đường trong điều kiện không có sự tắc nghẽn nào xảy ra; hàm số được xác định trên cơ sở thực nghiệm có dạng:
Trong đó LG là lưu lượng phương tiện giao thông tính bằng số lượng xe quy chuẩn (xe máy).
Chi phí ngoại ứng của việc đi lại là chi phí cơ hội về thời gian tăng thêm do các yếu tố tắc nghẽn gây ra. Khả năng tắc nghẽn không xảy ra khi LG LG > 400 thì mỗi phương tiện tham gia giao thông tăng thêm sẽ làm cho các phương tiện khác phải chậm mất 0,007 phút (do tăng khả năng tắc nghẽn). Khi LG > 600 thì mỗi phương tiện tham gia giao thông tăng thêm sẽ làm cho các phương tiện khác phải chậm mất 0,006 phút. Lượng tăng trong tổng thời gian đi lại cho một phương tiện là 400 x 0,006 = 2,4 phút. Với giả định 300đ/phút ta tính tính toán được chi phí mà mỗi phương tiện phải chịu ứng với mỗi mức lưu lượng khác nhau như sau:
Chi phí và lợi ích tương ứng với các mức lưu lượng giao thông
LG
Thời gian đi lại
(phút)
Thời gian tăng thêm khi tăng 1 phương tiện (phút)
Tổng thời gian tăng thêm của mỗi phương tiện (phút)
Chi phí ngoại ứng của chuyến đi
(đ)
Chi phí cá nhân
(đ)
Chi phí xã hội
(đ)
Lợi ích cận biên
(cầu)
200
15
0
0
0
10500
10500
94200
400
15
0
0
0
10500
10500
83220
600
15,8
0,007
4,2
1260
10740
12000
72240
800
17,8
0,013
10,4
3120
11340
14460
61260
1000
21
0,019
19
5700
12300
18000
50280
1200
25,4
0,025
30
9000
13620
22620
39300
1400
31
0,031
43,4
13020
15300
28320
28320
1600
37,8
0,037
59,2
17760
17340
35100
17340
1800
45,8
0,043
77,4
23220
19740
42960
6360
2000
55
0,049
98
29400
22500
51900
0
Chi phí ngoại ứng bằng tổng thời gian tăng thêm nhân với 300đ; chi phí xã hội bằng chi phí cá nhân cộng với chi phí ngoại ứng. Trong bảng trên, ta giả định thêm các giá trị lợi ích cận biên của mỗi phương tiện và đơn vị tính của lợi ích cận biên bằng tiền tương ứng với các chi phí. Lợi ích cận biên không đổi với lưu lượng giao thông nhỏ hơn 400 phương tiện (lưu lượng thấp nhất) nhưng giảm dần khi lưu lượng các phương tiện tham gia lưu thông tăng trên 400.
Trên hình biểu diễn đường cong chi phí cá nhân và xã hội, đường cầu bằng đường lợi ích cận biên. Khoảng cách giữa đường chi phí xã hội và chi phí cá nhân là chi phí do các yếu tố tắc nghẽn gây ra. Đường cầu cắt đường chi phí cá nhân tại mức 1600 phương tiện. Người điều khiển phương tiện xuống đường khi lợi ích cận biên lớn hơn hoặc bằng chi phí cá nhân. Nhưng trên góc độ xã hội, đường cầu cắt đường chi phí xã hội ở mức lưu lượng 1400, với chi phí xã hội cân bằng là 28320.
Nguyên tắc hiệu quả là một hoạt động xã hội sẽ gia tăng khi chi phí xã hội cận biên nhỏ hơn lợi ích xã hội cận biên. Vì các cá nhân sử dụng phương tiện giao thông không tính đến chi phí cận biên xã hội nên sẽ không có hiệu qủa cho xã hội. Lượng phương tiện tối ưu trong trường hợp này chỉ là 1400. Điều này đã dẫn đến ùn tắc giao thông.
Để điều tiết những hoạt động giao thông thành phố, tạo ra lưu lượng giao thông tối ưu, ở các nước phát triển, thuế tắc nghẽn được áp dụng trong những giờ cao điểm. Lợi ích và chi phí của thuế tắc nghẽn giao thông là vấn đề cần bàn; lợi ích: điều tiết lưu lượng giao thông; chi phí: tốn kém về thời gian và tiền để thực hiện thuế tắc nghẽn giao thông.
Ngoài ra còn có các sắc thuế khác như: Thuế đánh vào các loại phương tiện giao thông, thuế đánh vào xăng dầu,… Các biện pháp khác là mở rộng đường sá, nâng cấp chất lượng, phân luồng… Phát triển đường sá liên quan đến 2 vấn đề: Chi phí làm đường và vấn đề sử dụng đất. Chi phí làm đường rất lớn và đất đô thị rất đắt.
Cầu về giao thông phụ thuộc vào chức năng đô thị và quy mô, cơ cấu dân số đô thị. Các tổ chức, cá nhân chỉ đi lại khi cần thiết như: Các doanh nghiệp trao đổi sản phẩm và dịch vụ, các cá nhân đi làm, đi nghỉ v.v… Khi phương tiện thông tin phát triển, nhu cầu về giao thông có thể giảm.
II. Sơ lược về tình hình giao thông vận tải của Hà Nội
II.1. Mạng lưới giao thông đường bộ Hà Nội
Mạng lưới giao thông đường bộ Hà Nội giữ vị trí quan trọng nhất trong mạng lưới giao thông Hà Nội: 65 – 70% khối lượng vận chuyển hàng hoá và 70 – 75% khối lượng vận chuyển hành khách.
Đến tháng 9/2005, Hà Nội có 445 tuyến đường với tổng chiều dài 526,5km. Đường khu vực nội thành dài 382,4km, đường ngoại thành dài 144,2km (ngoài ra còn hơn 1000km đường liên huyện, liên xã) toàn tuyến có 436 ngã ba, 241 ngã tư, ngã năm trở lên; những điểm lưu thông - về mặt lý thuyết – có nguy cơ ùn tắc cao. Trên các tuyến nội thành, mật độ phương tiện giao thông tham gia rất đông. Theo số liệu của Phòng cảnh sát giao thông và Sở giao thông công chính Hà Nội, trong năm 2007, số phương tiện đăng ký mới đã tăng 146, 96% xe ôtô (khoảng 15.694 xe); đăng ký mới môtô 185.653 xe, tăng 49.698 xe (36, 29%) so với năm 2006, nâng tổng số phương tiện đang quản lý lên hơn 200.000 xe ôtô, 1.943.411 môtô, xe máy. Chưa kể số xe của các cơ quan Trung ương, Quân đội và khoảng 31% tổng số phương tiện đăng ký ở các tỉnh hoạt động trên địa bàn Hà Nội. Trung bình mỗi kilômét đường nội thành chịu tải khoảng hơn 500 ôtô và hơn 5000 mô tô, xe máy các loại.
Mạng lưới đường nội thành hiện nay chỉ chiếm khoảng 7 – 8% diện tích nội thành, tính bình quân đạt 4,7km/ km2, 0,19km/1000 dân, 3,38m2/dân; so sánh với tiêu chuẩn của các thành phố hiện đại khác trên thế giới thì tỷ lệ này quá thấp. Theo kết quả công bố của đề tài “Tính toán chọn tỷ lệ đất dành cho giao thông trong thành phố” thì quỹ đất dành cho giao thông động và tĩnh của Hà Nội yêu cầu phải đạt từ 20,6% trở lên (đối với các nước trên thế giới, diện tích này thường là 25 – 35%).
II.2. Các dạng mạng lưới đường bộ
Mạng lưới đường nội thành có dạng hướng tâm từ các quốc lộ, từ các cửa ô về trung tâm; các đường hướng tâm được nối bằng các đường vành đai. Dạng mạng lưới này thường gặp ở các thành phố lớn châu Âu như: Liông, Beclin, Matxcơva… Ưu điểm của dạng này là các tuyến đường tương đối thẳng, song có hạn chế là luồng giao thông tập trung ở khu trung tâm, gây ùn tắc, đặc biệt là ở các nút giao thông cùng mức.
Ở các khu phố của quận Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình… còn có lưới đường dạng bàn cờ.
II.3. Tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng khai thác của đường
Nhìn chung mặt cắt ngang các đường phố nội thành rất hẹp do bị khống chế bởi các công trình đã được xây dựng đặc biệt là các khu phố cũ. Phần lớn các tuyến đường không bố trí phần đường dành riêng cho xe cơ giới tách khỏi làn xe cho xe không động cơ, 80% đường phố có chiều rộng nhỏ hơn 11m.
Những năm gần đây, Hà Nội đã đầu tư nhiều cho việc cải tạo mặt đường, hơn 70% diện tích đường đã được rải nhựa và bê tông nhựa hoá, nhưng chất lượng khai thác còn thấp.
II.4. Nút giao thông
Toàn thành phố có 580 nút giao thông, trong đó khu vực nội thành có 496 nút. Các nút giao thông rất gần nhau với khoảng cách trung bình là 380 – 400m. Các nút giao thông nói chung là giao thông cắt cùng mức nên đã ảnh hưởng rất lớn tới tốc độ xe chạy, thường xuyên gây ùn tắc giao thông đặc biệt là vào giờ cao điểm. Năm 2007, Hà Nội có 78 điểm thường xuyên xảy ra ùn tắc giao thông nghiêm trọng như 2 đầu cầu Chương Dương, nút giao dọc đường đê Trần Quang Khải đến cầu Chương Dương, Hàng Ðậu- Trần Nhật Duật, Thuỵ Khuê- Tam Ða, Thuỵ Khuê- Bưởi, Phạm Ngọc Thạch- Lương Ðịnh Của, ngã tư Trung Hiền, Lạc Trung- Thanh Nhàn, Phương Mai- Giải Phóng, Kim Liên - Đại Cồ Việt, Ngã Tư Sở, Tân Ấp- Yên Phụ, Tây Sơn- Chùa Bộc, Ô Chợ Dừa, Cát Linh- Tôn Ðức Thắng, Ðiện Biên Phủ- Trần Phú, nút Kim Liên, Tôn Thất Tùng- Trường Chinh; các tuyến đường thường xuyên xảy ra ùn tắc gồm Bạch Mai- Trương Ðịnh, La Thành, Hoàng Hoa Thám, Sơn Tây, Khâm Thiên, Phạm Ngọc Thạch- Chùa Bộc, Ðội Cấn… Hầu hết các nút giao thông được điều khiển bằng đèn, và Hà Nội đang phấn đấu thực hiện chỉ tiêu 100% nút giao thông có đồng hồ đếm lùi.
Ngoài ra, ga đường sắt nằm ở trong nội thành, toàn thành phố có 102 điểm giao cắt với đường sắt, đường sắt giao cắt cùng mức với đường ôtô nên mỗi lần có tàu chạy qua, giao thông trên đường bộ phải dừng chờ từ 3 đến 10 phút, có khi lâu hơn, đã là một trong những nguyên nhân chính gây ùn tắc và tai nạn giao thông.
II.5. Hệ thống đường vành đai
Hệ thống đường vành đai còn thiếu hoàn chỉnh, ngắt quãng nên đã hạn chế tác dụng, đặc biệt đối với giao thông quá cảnh từ các tỉnh chạy theo hướng Bắc – Nam, Đông – Tây.
II.6. Lưu lượng và thành phần xe chạy
Trong những năm gần đây, với chính sách “mở cửa” trong nền kinh tế thị trường sôi động, số lượng xe cộ, thành phần chủng loại tăng trưởng nhanh chóng và đa dạng.
Ước tính, hiện nay thành phố có 207.090 xe ô tô các loại, 1.921.822 xe máy, 1.000.000 xe đạp, 300 xe xích lô, chưa kể đến các phương tiện đăng ký ngoại tỉnh lưu hành trong thành phố.
Cơ cấu luồng phương tiện xe đạp là 25,3%, cho xe máy là 63,2%, xe con là 3,6%, xe tải là 1,1% và xe buýt là 6,7%, những con số này phần nào thể hiện dòng giao thông hỗn hợp làm cho công tác tổ chức, điều hành giao thông thêm khó khăn, phức tạp. Với hiện trạng giao thông hiện nay thì 1km đường Hà Nội phải chịu tải trên 500 ô tô và 6.000 xe máy. Với tốc độ phát triển phương tiện là 12-15%/ năm như hiện nay thì tình trạng ùn tắc sẽ càng nghiêm trọng hơn.
II.7. Vận tải hành khách bằng phương tiện xe công cộng
Hệ thống Vận tải hành khách công cộng hoạt động hiệu quả sẽ giúp thúc đẩy quá trình đô thị hoá, ngược lại nếu hoạt động yếu kém, nó sẽ là lực cản đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở các đô thị:
Tạo thuận lợi cho việc phát triển chung của đô thị: đô thị hoá ngày càng mạnh dẫn đến sự phát triển không ngừng của các khu dân cư, khu công nghiệp, thương mại, văn hoá… dẫn đến làm gia tăng cả về phạm vi lãnh thổ và dân số đô thị. Từ đó dẫn đến nhu giải quyết mối giao lưu giữa các khu chức năng đô thị phân bố xa trung tâm đã trở thành sức ép lớn với các đô thị. Nếu không giải quyết tốt mối quan hệ này, nó có thể trở thành lực cản với quá trình đô thị hoá.
Tiết kiệm thời gian đi lại của người dân đô thị, góp phần tăng năng suất lao động xã hội. Do tần suất đi lại trong đô thị rất cao, mật độ phương tiện giao thông nhiều nên tổng hao phí thời gian đi lại của một người dân là đáng kể. Theo tính toán của Trường Đại học Đường sắt Bêlarútxia, nếu mỗi chuyến xe đi kéo dài thêm 10 phút thì năng suất lao động giảm 2,5 – 4%.
Đảm bảo an toàn cho người đi lại. Hàng năm trên thế giới có chừng 800.000 người thiệt mạng do tai nạn giao thông. Riêng Việt Nam, mỗi năm xảy ra 8.000 – 12.000 vụ tai nạn giao thông, làm thiệt mạng từ 3.000 – 8.000 người. Ở các thành phố nước ta, do số lượng xe đạp và xe máy tăng quá nhanh, mật độ đi lại dày đặc là nguyên nhân chính gây ra tai nạn giao thông. Phát triển vận tải hành khách công cộng hợp lý sẽ góp phần quan trọng trong việc giảm tai nạn giao thông, đảm bảo an toàn cho người đi lại.
Góp phần bảo vệ môi trường đô thị. Những phương tiện giao thông cá nhân (như ô tô, xe máy) là những phương tiện thường xuyên thải ra một lượng lớn khí xả, chứa nhiều thành phần độc hại như: Cacbuahyđrô, ôxit nitơ (NOx), ôxit cacbon (CO), ôxit chì, hyđrôxit cacbon… Như vậy, hiệu quả của vận tải hành khách công cộng phải kể cả đến khả năng giữ gìn bầu không khí trong sạch, hạn chế khí thải, giảm mật độ bụi, chống ùn tắc.
Đảm bảo trật tự an toàn và ổn định xã hội. Vận tải hành khách có chức năng đảm bảo nhu cầu đi lại thường xuyên, rất cần thiết cho người dân. Một người dân thành phố bình quân đi lại 2 – 3 lượt/ ngày, thậm chí cao hơn (cự ly 1,5 – 2km trở lên).
II.8. Phương tiện vận tải và vấn đề tổ chức quản lý vận tải công cộng
II.8.1. Phương tiện vận tải và những đặc trưng chủ yếu
Các loại phương tiện chủ yếu thường gặp trên đường đô thị:
a. Xe con cá nhân
Người sử dụng xe phải có bằng lái và sức khoẻ;
Không lệ thuộc vào giờ giấc như xe công cộng;
Xe phục vụ tận nhà, đi lại trên đường muốn dừng xe tuỳ theo ý muốn của chủ phương tiện và khách đi xe;
Là phương tiện giao thông khá hoàn chỉnh, tiện lợi, lịch sự văn minh;
Đối với các nước có mức sống cao, tâm lý mỗi gia đình đều muốn có xe riêng. Đặc điểm này cần đặc biệt chú ý khi quy hoạch và tổ chức vận tải đô thị;
Cần có bãi đỗ xe và nhà để xe (garage).
b. Xe hai bánh
Không phù hợp với mọi đối tượng, đặc biệt là đối với những người có tuổi;
Là một phương tiện vận tải tiện lợi, nhanh chóng, cơ động, phù hợp với cự ly ngắn, đường hẹp, đường hay có hiện tượng ùn tắc xe, xe 2 bánh có thể luồn lách dễ dàng; khổ xe nhỏ;
Tiết kiệm, giá thành vận tải thấp;
Không yêu cầu bãi đỗ xe và nhà để xe riêng;
Mức độ an toàn giao thông thấp, tiện nghi thiếu, phụ thuộc vào thời tiết, không sử dụng để chạy xe đường dài.
c. Xe công cộng (ôtô buýt, xe điện bánh sắt, xe điện bánh lốp…)
Kinh tế (rẻ), chở được nhiều hành khách;
An toàn giao thông, ít xảy ra tai nạn;
Không chủ động về thời gian, phụ thuộc vào thời gian biểu xe chạy;
Thời gian chờ xe dài;
Tốc độ xe chậm;
Phải mất thời gian từ nhà ra bến xe;
Dễ bị tắc xe, đặc biệt ở những giờ cao điểm;
Đối với không ít người hiện nay, xem loại này là phương tiện quá thời, không mốt.
II.8.2. Vấn đề tổ chức, quản lý vận tải công cộng
a. Sự cạnh tranh giữa các loại phương tiện vận tải và chọn phương tiện vận tải:
Các tiêu chuẩn để chọn phương tiện vận tải như sau:
Thời gian: là yếu tố chủ yếu, khi so sánh chọn phương tiện vận tải này hay phương tiện vận tải khác: Tiêu chuẩn này bất lợi cho vận tải công cộng và lợi thế cho xe cá nhân (xe con, xe hai bánh).
Giá thành: là một yếu tố quan trọng, nhưng người sử dụng thường ít quan tâm, đặc biệt đối với những người có thu nhập khá. Theo kết quả điều tra thì những người sử dụng xe riêng thường không chú ý tới chi phí mỗi lần đi và nếu có tính thì chỉ tính chi phí nhiên liệu.
Đúng giờ giấc và đều đặn:
Một phương tiện vận tải được gọi là đúng giờ giấc và đều đặn là hành khách nắm chắc được lúc nào xe xuất phát và mấy giờ xe tới đích. Tiêu chuẩn này bất lợi đối với phương tiện vận tải công cộng (trừ phương tiện metro).
Là một tiêu chuẩn chính khi hành khách chọn phương tiện giao thông.
Không phụ thuộc vào thời gian biểu xe chạy: Xe cá nhân có ưu việt so với các phương tiện vận tải công cộng trừ trường hợp xe công cộng có liên tục và đều đặn như metro.
Không liên tục, gián đoạn: Tiêu chuẩn này bất lợi đối với vận tải công cộng vì lý do phải chờ đợi ở các bến xe buýt, xe điện.
Tiện nghi và an toàn giao thông.
b. Tổ chức và quản lý vận tải công cộng:
Qua những phân tích ở trên cho thấy mỗi phương tiện vận tải đều có những ưu điểm và nhược điểm. Trong tổ chức, quản lý vận tải đô thị cần cân nhắc những ưu điểm và nhược điểm kể trên. Phát triển phương tiện vận tải công cộng có ưu điểm lớn và giải quyết được lượng giao thông hành khách lớn do đó giảm đáng kể lưu lượng xe chạy trên đường phố, nhưng cần phải có những biện pháp về mặt tổ chức, quản lý để khắc phục những nhược điểm của loại vận tải này. Sau đây là những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu khi giải quyết.
Hoàn thiện hệ thống vận tải ôtô buýt:
Giải quyết yếu tố thời gian: xây dựng đường chạy riêng cho ôtô buýt để tránh các hiện tượng ùn tắc xe.
Giải quyết yếu tố giá thành: Nghiên cứu đưa ra những loại vé tháng giá rẻ và có thể sử dụng trên tất cả các tuyến ôtô buýt của thành phố (bao gồm cả những tuyến chạy ra ngoại ô thành phố) hoặc là các loại vé “giờ” cho phép sử dụng trên nhiều tuyến xe công cộng ở cùng một số giờ quy định (1 hoặc 2 giờ).
Tác động vào yếu tố đúng giờ và đều đặn: bằng cách tăng số chuyến và xây dựng các hành lang dành riêng cho xe buýt.
Tác động vào yếu tố tiện nghi và giảm sự mệt mỏi của hành khách: Lắp mới các trang thiết bị trên xe ôtô buýt để nâng cao tiện nghi, giảm sự mệt mỏi của hành khách.
Nghiên cứu sử dụng các loại vận tải công cộng chạy hoàn toàn trên đường dành riêng:
Metro các kiểu: loại chạy ngầm dưới đất và nổi trên mặt đất.
Tàu điện hiện đại chạy trên không, tàu điện cao tốc.
Các phương tiện vận tải hoàn toàn tự động hoá chạy trên các đường dành riêng.
III. Kinh nghiệm của một số nước trong việc chống ùn tắc giao thông
III.1. Nước Nhật với những giải pháp chống ùn tắc giao thông và tai nạn giao thông
Nhật Bản có diện tích tự nhiên 378.000 km2, dân số là 127,7 triệu người, mật độ dân số bình quân là 343 người/km2, được xếp vào hàng cao thứ 4 thế giới, đặc biệt tại thủ đô Tokyo mật độ dân số cao đến kỷ lục 5.748 người/km2. Với mật độ dân số "chen chúc" như vậy nhưng rất lạ là chẳng thấy ùn tắc giao thông đâu cả, dù là giờ cao điểm, hay thấp điểm. Chỉ đến khi được tận mắt chứng kiến và trực tiếp đi lại trên hệ thống đường sắt tại đây mới thấy vì sao giao thông lại không ùn tắc.
Hệ thống xe điện tại Thủ đô Tokyo được các chuyên gia giao thông xếp vào hàng hiện đại nhất thế giới, do hệ thống này mỗi ngày vận chuyển được tới 44 triệu lượt khách (dân số Tokyo là 12 triệu người). Trong khi đó, hệ thống VTHKCC tại Hà Nội một năm vận chuyển được 300 triệu lượt khách. Có hai loại xe điện: xe điện ngầm và xe điện nổi. Hệ thốn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8764.doc