MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH 3
1) Tổng quan về Công ty Tài chính: 3
1.1) Khái quát về công ty tài chính 3
1.2) Hoạt động của công ty tài chính: 4
2) Tổng quan hoạt động tín dụng của công ty tài chính: 6
2.2) Phân loại tín dụng: 8
2.3) Vai trò tín dụng: 9
3) Rủi ro tín dụng: 12
3.1) Khái niệm rủi ro tín dụng 12
3.2) Phân loại rủi ro tín dụng trong các công ty tài chính: 14
3.3) Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng: 15
3.4) Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đối với hoạt động của nền kinh tế nói chung và công ty tài chính nói riêng: 22
3.5) Các chỉ tiêu đánh giá và lượng hóa rủi ro tín dụng: 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH DẦU KHÍ 29
1) Thực trạng hoạt động tín dụng tại công ty tài chính dầu khí: 29
1.1) Khái quát về công ty tài chính dầu khí: 29
1.1.1) Sự hình thành và phát triển của công ty tài chính dầu khí: 29
1.1.2) Cơ cấu tổ chức: 31
1.1.3) Các chỉ tiêu tài chính chủ yếu của công ty tài chính dầu khí: 33
1.2) Thực trạng huy động tín dụng của công ty tài chính dầu khí: 36
1.2.1) Tình hình huy động vốn: 36
1.2.2) Tình hình sử dụng vốn: 37
1.2) Thực trạng rủi ro tín dụng tại công ty tài chính dầu khí: 38
1.2.1)Tình hình nợ quá hạn tại PVFC: 38
1.2.2) Tình hình nợ dưới tiêu chuẩn tại PVFC. 43
1.2.4) Tình hình nợ xấu tại PVFC: 46
1.2.5) Tình hình trích lập dự phòng của PVFC: 49
2) Đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại PVFC 50
2.1) Những kết quả đạt được: 50
2.2) Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân: 51
2.2.1) Những hạn chế còn tồn tại: 51
2.2.2) Nguyên nhân của những hạn chế trên: 52
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH DẦU KHÍ 56
1) Định hướng phát triển của công ty tài chính dầu khí giai đoạn 2008-2010: 56
1.1) Mục tiêu tổng quát: 56
1.2) Định hướng triển khai: 56
1.3) Giải pháp thực hiện: 57
1.3.1) Giải pháp về tổ chức, quản lý 57
1.3.2) Giải pháp về nhân lực 60
1.3.3) Giải pháp về thị trường 61
1.4) Định hướng công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng của PVFC 65
2) Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại PVFC 66
2.1) Một số giải pháp vĩ mô 66
2.1.1) Về phía Nhà nước 66
2.1.2) Về phía Ngân hàng Nhà nước 68
2.2) Một số giải pháp vi mô 70
2.2.1) Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý, khoa học 70
2.2.2) Nâng cao chất lượng đánh giá khách hàng và lượng hóa RRTD 72
2.2.3) Nâng cao chất lượng cán bộ. 78
2.2.4) Tăng cường kiểm soát, quản lý hoạt động tín dụng và RRTD. 80
2.2.5) Thực hiện phân tán và tối thiểu hóa rủi ro tín dụng 85
2.2.6) Kết hợp hoạt động tín dụng và bảo hiểm tín dụng. 88
2.2.7) Sử dụng công cụ tài chính phái sinh 89
2.2.8) Áp dụng nghiệp vụ mua bán các khoản tín dụng vào quản trị RRTD 94
2.2.9) Các biện pháp khác 95
KẾT LUẬN 97
100 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Công ty Tài chính Dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh cho vay đối với khu vực kinh tế quốc doanh cũng như ngoài quốc doanh. Qua đó công ty có thể nhận thấy tính rủi ro khi cho vay đối với từng khu vực, đồng thời có biện pháp nhằm hạn chế rủi ro. NQH của các doanh nghiệp quốc doanh luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư NQH và có sự biến động qua các năm. Năm 2005 tỷ lệ NQH của DN quốc doanh chiếm đến 83% tổng NQH và năm 2006 tăng lên thành 88%, về số tuyệt đối năm 2006 cũng tăng so với năm 2005. NQH của DN quốc doanh năm 2006 là 29.567 tỷ đồng, tăng 11,7% so với năm 2005.
Năm 2005 và 2006 tỷ trọng này có xu hướng giảm đi, năm 2006 là 88% và năm 2007 giảm xuống còn 85%. Tỷ lệ NQH của doanh nghiệp quốc doanh chiếm tỷ trọng cao như vậy một phần là do dư nợ tín dụng đối với khu vực này là khá cao. Trên thực tế, cho vay đối với khối kinh tế quốc doanh được quan tâm đặc biệt bởi thành phần kinh tế này vay nợ chủ yếu dựa trên uy tín, có thể được quyền vay vốn không có TSĐB hoặc nếu có thì giá trị TSĐB không quá giá trị TSĐB không quá số vốn cần vay. Thêm vào đó, có những DNNN đã phát sinh NQH nhưng để phục hồi sản xuất thì công ty lại tiếp tục cho vay thêm hoặc được gia hạn nợ. Trong khi đó, công lại đưa ra các quy định chặt chẽ hơn về TSĐB và thường giới hạn về số vốn vay đối với DN ngoài quốc doanh. Sự hạn chế này cũng là do một số DN ngoài quốc doanh thường thiếu uy tín, không được sự bảo lãnh của bên thứ ba, quy mô nhỏ, vốn ít hoặc sử dụng vốn sai mục đích và trên thực tế không ít DN phá sản. Do vậy, nhiều ngân hàng và công ty tài chính trong khối Nhà nước có những quy định chặt chẽ hơn khi cho vay đối tượng này. Năm 2007 tỷ lệ NQH của DN quốc doanh giảm xuống. Điều này cũng là do công ty đã tích cực mở rộng tín dụng hơn đối với các DNNQD và hạn chế cho vay đối với các dự án, công trình có tính khả thi không cao, giảm việc cho vay theo kế hoạch Nhà nước, cho vay theo chỉ định của chính phủ.
1.2.2) Tình hình nợ dưới tiêu chuẩn tại PVFC.
Bảng 9: Tình hình nợ dưới tiêu chuẩn tại PVFC.
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
Số tiền
06/05
(%)
Số tiền
07/06
(%)
Nợ dưới tiêu chuẩn
127,2
158
24,13
124,7
-21,07
Tỷ lệ nợ dưới tiêu chuẩn (%)
57,96
61,52
56,47
Biểu 4: Tình hình nợ dưới tiêu chuẩn tại PVFC.
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn: Báo cáo tình hình nợ xấu năm 2005-2007
Bảng số liệu về tình hình nợ dưới tiêu chuẩn của PVFC cho thấy tổng nợ dưới tiêu chuẩn giai đoạn 2005-2007 biến động không ổn định. Năm 2005, nợ dưới tiêu chuẩn là 127,2 tỷ đồng, chiếm 57,96% trong tổng dư nợ. Đến năm 2006, con số này là 158 tỷ đồng, tăng 24,13% so với năm 2005. Cùng với sự tăng phần trăm số nợ dưới tiêu chuẩn so với năm trước, thì năm 2006 tỷ trọng nợ dưới tiêu chuẩn trên tổng nợ xấu cũng tăng lên, chiếm 61,52% tổng nợ xấu. Như vậy ta có thể thấy được giai đoạn 2005-2006 thì PVFC đã thực hiện không tốt công tác quản lý rủi ro tín dụng, số nợ dưới tiêu chuẩn không những không giảm xuống mà còn tăng lên, ảnh hưởng không tốt đến công ty.
Đến năm 2007, chất lượng quản lý tín dụng đã được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ nợ dưới tiêu chuẩn giảm 21,07% so với năm 2006, từ 158 tỷ xuống còn 124,7 tỷ đồng.Cùng với đó là sự giảm tỷ lệ nợ dưới tiêu chuẩn trên tổng nợ xấu, từ 61,52% năm 2006 xuống còn 56,47% năm 2007. Qua đó ta thấy công tác quản lý rủi ro tín dụng đã được quan tâm, thực hiện triệt để hơn. Số nợ dưới tiêu chuẩn giảm xuống trong khi tổng dư nợ tín dụng vẫn tiếp tục tăng mạnh cho thấy rõ nỗ lực của PVFC trong công tác quản lý và xử lý nợ dưới tiêu chuẩn. 1.2.3) Tình hình nợ nghi ngờ tại PVFC:
Bảng 10: Tình hình nợ nghi ngờ tại PVFC
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
Số tiền
06/05
(%)
Số tiền
07/06
(%)
Nợ nghi ngờ
92,24
98,8
7,11
96,1
-2,73
Tỷ lệ nợ nghi ngờ(%)
42,04
38,48
43,53
Nguồn: Báo cáo tình hình nợ xấu năm 2005-2007
Biểu 5: Tình hình nợ nghi ngờ tại PVFC
Đơn vị: tỷ đồng
Nợ nghi ngờ cũng là các khoản nợ thuộc nhóm nợ xấu gây nên rủi ro cho ngân hàng và có mức RRTD cao hơn nợ dưới tiêu chuẩn. Vì vậy, cần phân tích diễn biến của loại nợ này qua các thời kỳ để thấy rõ xu hướng biến động, tìm hiểu nguyên nhân và từ đó tìm cách hạn chế rủi ro do nhóm nợ này gây ra.
Nhìn vào bảng số liệu ta có thể thấy rằng tình hình nợ nghi ngờ ở PVFC ít có sưkj biến động trong giai đoạn 2005-2007. Năm 2005 số nợ nghi ngờ của PVFC là 92,4 tỷ, chiếm 42,04% tổng nợ xấu, đến năm 2006 thì số nợ nghi ngờ lại tăng lên 98,8 tỷ đồng, tương ứng với mức tăng 7,11% và chiếm 38,48% tổng nợ xấu. Giai đoạn này mặc dù số nợ nghi ngờ tăng lên nhưng tỷ lệ nợ nghi ngờ trên tổng nợ xấu lại giảm xuống, nợ nghi ngờ có mức thiệt hại lớn hơn so với nợ dưới tiêu chuẩn, cho nên giảm tỷ lệ nợ nghi ngờ trên tổng dư nợ cũng là một nỗ lực của PVFC trong công tác quản lý rủi ro. Giai đoạn 2006-2007 thì chứng kiến điều ngược lại xảy ra, trong khi số nợ nghi ngờ giảm đi từ 98,8 tỷ xuống còn 96,1 tỷ thì tỷ lệ nợ nghi ngờ trên tổng nợ xấu lại tăng lên, từ 38,48% tăng lên 43,53%. Năm 2007 chứng kiến nhiều bước tiến quan trọng của PVFC, mặc dù tỷ lệ nợ nghi ngờ tăng lên nhưng trong năm 2007 tổng dư tín dụng tăng lên đáng kể, thế mà số nợ xấu lại được kiểm soát và giảm xuống một cách khả quan. Sỡ dĩ có được kết quả này là do PVFC đã quan tâm nhiều hơn đến công tác phân loại, đánh giá khách hàng, tăng cường thẩm định, giám sát khoản vay, đồng thời PVFC đã tăng cường làm việc với các doanh nghiệp để bổ sung TSĐB, ký kết hợp đồng cầm cố các khoản phải thu, hợp đồng đảm bảo tài sản hình thành từ vốn vay.
1.2.4) Tình hình nợ xấu tại PVFC:
Bảng 11: Nợ xấu của PVFC giai đoạn 2005-2007
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Tổng nợ xấu
219,44
256,8
220,8
Nợ dưới tiêu chuẩn
127,2
158
124,7
Nợ nghi ngờ
92,24
98,8
96,1
Nợ không thu hồi được
0
0
0
Tỷ lệ nợ xấu(%)
2,6
2,4
1,7
Nguồn: Báo cáo tình hình nợ xấu năm 2005-2007
Biểu 6: Tình hình nợ xấu của PVFC.
Biểu 7: Cơ cấu nợ xấu của PVFC.
Vừa mới được thành lập năm 2000, công tác quản lý của PVFC diễn ra khá tốt, trong khi nợ xấu của các tổ chức tín dụng khác chiếm hơn 10% tổng dư nợ thì PVFC khống chế tỷ lệ nợ xấu dưới 3% tổng dư nợ tín dụng, ở PVFC hầu như không có nợ khó đòi (nợ không có khả năng thu hồi vốn), đây là một thành công không nhỏ trong công cuộc xây dựng PVFC trở thành một tập đoàn vững mạnh và phát triển bền vững trong tương lai.
Năm 2005 tổng nợ xấu của PVFC là 219,44 tỷ đồng chiếm 2,6% tổng dư nợ. Sang năm 2006, mặc dù số nợ xấu có tăng lên, từ 219,44 tỷ lên 256,8 tỷ nhưng tỷ lệ nợ xấu lại được khống chế giảm xuống từ 2,6% Ò 2,4%. Năm 2007 chứng kiến nhiều bước đột phá về kinh tế của PVFC với việc hoàn thành xuất sắc kế hoạch kinh doanh, doanh thu đạt 3024,869 tỷ đồng, lợi nhuận đạt trên 400 tỷ, thực hiện thành công bán đấu giá ra công chúng và phát triển quy mô, mạng lưới hoạt động... Cùng với đó là công tác quản lý rủi ro được quan tâm đích đáng, số nợ xấu đã giảm đi đáng kể, từ 156,8 xuống còn 147,2 tỷ đồng. Nên nhớ rằng tổng dư nợ tín dụng của PVFC tăng liên tục, đặc biệt là năm 2007, dư nợ tín dụng đạt con số 13000 tỷ, thế mà tổng nợ xấu lại được kiểm soát, chỉ còn chiếm 1,7% tổng dư nợ, đây là một thành quả không nhỏ, thể hiện nỗ lực của ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên chức của công ty trong việc xây dựng PVFC trở thành một tập đoàn kinh tế vững mạnh, công ty tài chính hàng đầu của Việt Nam và vươn tầm thế giới.
1.2.5) Tình hình trích lập dự phòng của PVFC:
DPRRTD là khoản tiền đã trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng hoặc đối tác không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Đây là một trong những tiêu chí để đánh giá chất lượng tín dụng và khả năng quản lý nợ của ngân hàng. Tình hình trích lập và sử dụng dự phòng RRTD tại PVFC được biểu hiện như sau:
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số dư vào ngày 1/1
353
458,5
518,6
Dự phòng trích lập tăng trong năm
139,7
190,7
239,2
Sử dụng dự phòng xử lý nợ trong năm
-34,2
-130,6
-152,7
Số dư vào ngày 31/12
458,5
518,6
605,1
Nguồn: Báo cáo tình hình trích dự phòng rủi ro năm 2005-2007
Trong các chỉ tiêu trên ta cần quan tâm đến sự biến động của dự phòng trích lập trong năm và việc sử dụng dự phòng để xử lý các khoản nợ trong năm. Sự biến động đó của PVFC được mô tả qua biểu đồ sau:
Biểu 8: Trích lập và sử dụng xử lý RRTD của PVFC
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2005, số tiền trích lập là 139,7 tỷ đồng, chiếm 1,65% tổngdư nợ; năm 2006 là 190,7 tỷ đồng, chiếm 1,78% tổng dư nợ, tăng so với năm trước về số tuyệt đối là 51 tỷ đồng và về tương đối là 36,5%, góp phần nâng số quỹ dự phòng đến 31/12 năm 2007 lên 605,1 tỷ đồng. Năm 2007 số tiền trích lập là 239,2 tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2006 và chiếm 1,84% tổng dư nợ.
Tỷ lệ trích lập dự phòng trên tổng dư nợ cao thì công ty có khả năng để xử lý các khoản nợ quá hạn, nợ xấu để đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng. Nếu quỹ dự phòng không bù đắp đủ tài sản bị rủi ro thì phải trích từ lợi nhuận, thậm chí từ vốn tự có của ngân hàng để bù đắp. Số dư trích lập vào cuối mỗi năm từ 2005 đế 2007 luôn cao hơn so với đầu năm. Như vậy, nhìn chung PVFC có khả năng để xử lý các khoản nợ của mình, đảm bảo an toàn cho hoạt động của công ty. Tuy nhiên, nếu số tiền trích lập dự phòng càng cao thì càng ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty vì khoản dự phòng được trừ ra khỏi thu nhập hoạt động kinh doanh thuần của công ty để tính lợi nhuận trước thuế hay lợi nhuận ròng của công ty.
2) Đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại PVFC
2.1) Những kết quả đạt được:
Thứ nhất, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh. Năm 2005, doanh thu đạt được chỉ là 429,127 tỷ thì đến năm 2006 là 1023,421 tỷ, tăng hơn gấp đôi và đến năm 2007 là 3024,869 tỷ, một con số ấn tượng. Từ năm 2005 đến 2007, lợi nhuận sau thuế tăng gấp 25 lần, từ 18352 tỷ năm 2005 đã tăng lên 462522 tỷ năm 2007 và có xu hướng tăng mạnh trong tương lai. Các chỉ số phản ánh hiệu quả kinh doanh cũng vượt mục tiêu đề ra với ROA, ROE năm 2007 lần lượt là 1,6% và 19,37%. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tín dụng luôn được kiểm soát và kiềm chế dưới mức 3% và giảm từ 2,6% năm 2005 xuống 1,7% năm 2007, ở PVFC hầu như không có nợ khó đòi, không có khả năng thu hồi vốn. Đây là một nỗ lực không nhỏ của công ty trong việc duy trì kết quả kinh doanh khả quan và phát triển kinh tế bền vững trong tương lai.
Thứ hai, về việc huy động và sử dụng vốn, giai đoạn 2005-2007 nguồn vốn huy động tăng lên liên tục và vượt mức kế hoạch. Năm 2007, tổng vốn huy động được của PVFC lên tới 44345 tỷ đồng, một con số cực kỳ ấn tượng. Tổng dư nợ tín dụng không ngừng tăng trưởng, tổng dư nợ tín dụng đã tăng từ 8440 tỷ năm 2005 lên 13000 trong năm 2007, trong đó dư nợ tín dụng ngắn hạn vượt trội so với dư nợ tín dụng dài hạn, cho thấy PVFC đang tập trung đúng trọng điểm, giảm dần tỷ trọng tín dụng trung dài hạn trên tổng dư nợ.
Thứ ba, tập trung hơn về phần nợ xấu, so với nhiều tổ chức tín dụng ở Việt Nam, PVFC được đánh giá rất tốt trong công tác quản lý và kiểm soát nợ xấu, PVFC là một trong số ít các doanh nghiệp duy trì được tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ dưới mức 3%, không những thế mà tỷ lệ này đang có xu hướng giảm dần theo từng năm trong khi tổng dư nợ tín dụng lại không ngừng tăng lên. Sỡ dĩ có kết quả này là do PVFC cũng mới được thành lập, các dự án đầu tư vay vốn đều được kiểm định chất lượng và đánh giá mức độ rủi ro, do đó ít có khả năng mất hẳn vốn do sự phá sản của bên đối tác. Hơn nữa, công tác quản lý rủi ro được ban lãnh đạo công ty quan tâm chu đáo, đầu tư chất lượng chiều sâu, thành lập hẳn một ban chuyên quản lý rủi ro tín dụng và rủi ro đầu tư, do đó tỷ lệ nợ xấu mới được kiểm soát và được xử lý chu đáo, góp phần cho sự phát triển ổn định của công ty vươn tầm thế giới.
2.2) Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân:
2.2.1) Những hạn chế còn tồn tại:
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động tín dụng và công tác quản lý rủi ro của PVFC còn bộc lộ nhiều hạn chế cần phải bàn đến và cần có biện pháp kịp thời để khắc phục nếu muốn đạt được những kết quả khả quan hơn nữa trong tương lai.
Thứ nhất, bàn về dư nợ tín dụng. Là một trong những tổng công ty lớn của cả nước nhưng so với các bậc đàn anh đi trước trong lĩnh vực hoạt động tín dụng, công ty tài chính dầu khí tỏ ra là công ty còn non trẻ, thể hiện qua số dư nợ tín dụng còn thấp, chưa cao lắm.
Thứ hai, về tình hình nợ quá hạn, năm 2006 số nợ quá hạn tăng lên đáng kể so với năm 2005, từ 281,6 tỷ tăng lên 336 tỷ, tương ứng với 19,3%, điều này chứng tỏ công ty đã không thành công lắm trong việc quản lý rủi ro và không đạt được mục tiêu đề ra là giảm tỷ lệ nợ quá hạn dưới 3%. Mà nguyên nhân ở đây là do công tác thu hồi nợ chưa tốt, nợ quá hạn của năm trước chưa được xử lý, thu hồi được cơ cấu lại và chuyển sang năm sau. Giai đoạn 2005, 2006 và trước đó NQH của PVFC chủ yếu là NQH trung dài hạn. Nguyên nhân là do công tác đánh giá, thẩm định các dự án vay vốn trung dài hạn chưa tốt và cũng là do giai đoạn đó dư nợ cho vay theo kế hoạch Nhà nước, cho vay theo chỉ định của chính phủ, cho vay đối với các DN quốc doanh cao với các công trình dài hạn chủ yếu thuộc lĩnh vực xây dựng, giao thông, điện lực. Khi đến hạn trả nợ, các DN này thường không trả được nợ theo đúng hạn, phải gia hạn thêm hoặc xử lý theo hướng dẫn của chính phủ như đưa vào danh mục nợ khoanh, hay được Nhà nước bù lỗ. Chính vì lý do đó mà NQH trung dài hạn giai đoạn 2005, 2006 chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dư NQH.
Thứ ba, về tình hình nợ xấu, giai đoạn 2005-2006 tổng nợ xấu của PVFC có xu hướng tăng lên, từ 219,44 tỷ lên 256,8 tỷ, tương ứng với mức tăng 17%. Sang năm 2007 mặc dù số nợ xấu giảm đi đáng kể, tuy nhiên cơ cấu các loại nợ xấu trong tổng nợ xấu không có sự chuyển biến tích cực. Ngược lại, tỷ trọng nợ nghi ngờ lại tăng lên, nợ nghi ngờ có khả năng thu hồi vốn kém hơn so với các loại nợ xấu khác cho nên tỷ trọng của loại nợ này tăng lên đồng nghĩa với việc PVFC phải đối mặt với việc rủi ro mất vốn là cao hơn, công tác quản lý và kiểm soát nợ xấu của công ty cần nhiều cố gắng hơn nữa để có thể hạn chế được tình trạng này.
2.2.2) Nguyên nhân của những hạn chế trên:
+Nguyên nhân thuộc về PVFC
-Việc áp dụng các văn bản chế độ:
Hiện nay tại PVFC dường như đang tồn tại ba hệ thống “văn bản chế độ” điều chỉnh nghiệp vụ tín dụng, nhưng giữa hệ thống này thể hiện tính độc lập tương đối với nhau nên dẫn đến sự “vênh” trong các quy định tín dụng; hệ thống văn bản chế độ tín dụng; hệ thống quy trình ISO.
Hiện nay, các Chi nhánh đang triển khai áp dụng cả Sổ tay tín dụng và các Quy trình tín dụng theo ISO, các văn bản chế độ riêng lẻ, các quy định đôi khi còn trùng lắp, một số nội dung chưa được giải quyết gây khó khăn trong việc thực hiện.
Về chất lượng văn bản chế độ tín dụng được ban hành còn biểu hiện chưa cao, tính vận dụng, sáng tạo hạn chế và bộ lộ chưa sát thực tiễn. Có văn bản còn thể hiện chung chung, thiếu tính cụ thể và không khác so với các quy định văn bản pháp luật (thường là quy định của Ngân hàng nhà nước).
Các chính sách tín dụng còn hạn chế về mặt chất lượng. Chưa đề cập hết các đối tượng, các trường hợp đặc thù về khách hàng, khoản vay, môi trường pháp luật, môi trường kinh tế. Danh mục tín dụng chưa đầy đủ, chưa ổn định và đảm bảo định hướng lâu dài.
-Việc phân loại đánh giá rủi ro khách hàng
Hiện nay hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của PVFC mới chỉ áp dụng cho các khách hàng là tổ chức kinh tế, còn đối với khách hàng là cá nhân thì việc phân loại nợ vẫn áp dụng theo phương pháp định lượng của điều 6/QĐ 493. Với phương pháp này không phản ánh toàn diện mức độ rủi ro của khách hàng. Trong khi đó hiện nay định hướng của PVFC là tăng tỷ trọng cho vay tiêu dùng, như vậy, đây chính là một trong những nguyên nhân của những bất cập trong các biện pháp phòng ngừa RRTD
Phân loại đánh giá rủi ro khách hàng: tiềm ẩn rủi ro trong tín dụng còn biểu hiện phức tạp và chưa có một hệ thống công cụ đánh giá kiểm soát đủ mạnh để đảm bảo nâng cao chất lượng bền vững.
Công tác đánh giá khách hàng cá nhân còn mang tính chất cảm tính.
-Trình độ của cán bộ tín dụng còn hạn chế
Nguồn lực CBTD còn hạn chế do ít kinh nghiệm hoặc cách làm truyền thống đã ăn sâu, chưa chuyển dịch theo cơ chế thị trường dẫn đến nhận thức trách nhiệm, quyền hạn trong hoạt động tín dụng chưa đầy đủ; tâm lý đùn đẩy, né tránh trong xử lý tín dụng khá nặng nề; thực hiện soạn thảo, thiết kế chính sách văn bản còn yếu.
PVFC còn thiếu cán bộ được đào tạo theo chuyên ngành, chuyên môn kỹ thuật để thẩm định tính khả thi, hiệu quả của dự án cũng như khả năng cạnh tranh, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. Bởi vì hoạt động kinh tế ngày nay vô cùng phức tạp, nó đòi hỏi cán bộ tín dụng phải được cập nhật kiến thức thường xuyên để theo kịp với sự phát triển. Bên cạnh đó, khả năng thu thập và phân tích thông tin còn mang tính một chiều nên chưa kịp thời và độ chính xác chưa cao.
Chưa sử dụng các công cụ phái sinh trong phòng ngừa RRTD.
Hiện nay PVFC mới thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất đối với các khoản cho vay hoặc đi vay trung hạn bằng USD hoặc Euro. Đối tác thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất là các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, các NHTM và các công ty tài chính hoạt động tại Việt Nam được NHNN cho phép thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất và các ngân hàng nước ngoài.
Như vậy, mặc dù PVFC đã có những bước tiến đáng kể trong việc nâng cao chất lượng tín dụng và đẩy mạnh quản lý RRTD, song các chỉ tiêu mà PVFC đạt được vẫn chưa thực sự đạt mục tiêu trở thành công ty tài chính có chất lượng tín dụng tốt. Vì vậy, cần có những biện pháp mang tính thiết thực hơn nhằm nâng cao hiệu quả và đa dạng hóa các biện pháp phòng ngừa, tăng tính an toàn cho các khoản tín dụng.
+Nguyên nhân từ phía khách hàng:
Tại một số doanh nghiệp là khách hàng của PVFC nhà điều hành quản trị doanh nghiệp chưa có kiến thức cần thiết về quản trị kinh doanh, về thị trường, công nghệ ... Bên cạnh đó, có những doanh nghiệp chây ỳ, cố ý kéo dài thời gian trả nợ.
Trên thực tế, nhiều khách hàng doanh nghiệp không tôn trọng pháp lệnh kế toán thống kê gây ra tình trạng các báo cáo tài chính thường được lập muộn so với thời điểm báo cáo hoặc các số liệu cung cấp cho ngân hàng không chân thật.
+Nguyên nhân thuộc về môi trường:
Do phải triển khai hoạt động trong điều kiện môi trường kinh tế đất nước đang chuyển dịch nhanh, các đối tượng hoạt động tín dụng như các khách hàng, hệ thống hành lang pháp lý, chính sách kinh tế vĩ mô ... có nhiều biến động mạnh.
Sự cạnh tranh về lãi suất giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Sau khi áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận, các NHTM, các tổ chức tín dụng ở Việt Nam cạnh tranh nhau bằng cách tăng lãi suất tiền gửi nhằm thu hút khách hàng. Nhưng lãi suất cho vay không thể vì thế mà tăng một cách tùy tiện mà phải được xác định thông qua mức độ rủi ro của các dự án và nhiều yếu tố khác. Điều này không chỉ làm giảm thu nhập của các ngân hàng mà còn không khuyến khích khách hàng cân nhắc kỹ khi đưa ra quyết định đầu tư, nhiều khi họ buộc phải đầu tư vào những dự án có rủi ro cao thì mới mong thu lời lớn. Điều này làm gia tăng mức độ rủi ro cho các tổ chức và cả cho khách hàng
Tài sản đảm bảo nợ vay, phát mại TSĐB hiện nay là trở ngại lớn cho các ngân hàng thương mại và các công ty tài chính (đặc biệt là các tài sản của các DNNN) vì đa phần các tài sản chưa có đủ cơ sở pháp lý để thế chấp, cầm cố. Vì vậy, khi xử lý tài sản đảm bảo phía công ty gặp nhiều khó khăn và làm giảm sút giá trị của tài sản. Xử lý tranh chấp liên quan đến nợ vay giữa công ty và DN nhiều khi còn chưa công bằng, quyền lợi của công ty chưa được bảo đảm khi DN có nguy cơ mất khả năng thanh toán.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO
TÍN DỤNG TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH DẦU KHÍ
1) Định hướng phát triển của công ty tài chính dầu khí giai đoạn 2008-2010:
1.1) Mục tiêu tổng quát:
- Nhanh chóng hoàn thiện trở thành Tập đoàn Tài chính Dầu khí (PVFC)
- Tốc độ tăng trưởng bình quân trong tất cả các hoạt động đạt trên 30%/năm.
- Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/Vốn điều lệ: 15 - 17 %.
- Tỷ lệ cổ tức/Vốn điều lệ: 7 - 9 %.
- Giá trị doanh nghiệp năm 2010 tương đương 3 tỷ USD.
1.2) Định hướng triển khai:
Nhanh chóng hoàn thiện PVFC thành Tập đoàn Tài chính Dầu khí
- Tiếp tục giữ vững tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu, hoàn thành các chỉ tiêu nêu trên.
- Hoàn thành các nhiệm vụ quan trọng xây dựng Tập đoàn Dầu khí theo phân công: Đổi mới doanh nghiệp; Đảm bảo thu xếp vốn tín dụng cho các dự án đầu tư trong ngành;
- Hoàn thiện bộ máy tổ chức và cơ cấu bộ máy điều hành Công ty:
Hoàn thành việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động gắn với triển khai các nhiệm vụ chiến lược và phù hợp với yêu cầu thị trường, tổ chức khoa học hợp lý theo mô hình Tập đoàn tài chính.
Về mạng lưới hoạt động:
- Hoàn thành cơ bản việc thành lập các Chi nhánh và công ty con: Hoàn thành việc thành lập mới 18 Chi nhánh trong nước, 1- 2 Chi nhánh tại nước ngoài (Hồng Kông – Singapo), 3 Công ty tài chính khu vực Bắc, Trung, Nam. Hoàn thành việc thành lập 5 công ty con (Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư Tài chính Dầu khí, Công ty cổ phần đầu tư và tư vấn tài chính Dầu khí, Công ty cổ phần Chứng khoán Tài chính Dầu khí, Công ty cổ phần Bất động sản Tài chính Dầu khí, Công ty truyền thông Tài chính Dầu khí). T Thành lập mới, mua hoặc đầu tư cổ phần vào các ngân hàng, Công ty tài chính, Công ty chứng khoán, Công ty cho thuê tài chính...
-Chuẩn hoá hoạt động của các phòng giao dịch, chi nhánh.
Về nhân sự:
- Có đủ bộ máy lãnh đạo từ cấp trưởng phòng trở lên;
- Tuyển dụng đủ các vị trí quản lý, kinh doanh chủ chốt;
- Tuyển dụng, đào tạo cán bộ theo chương trình có mục tiêu để hình thành đội ngũ chuyên gia cho Công ty.
- Chuẩn bị các điều kiện cơ sở vật chất và các điều kiện khác để hội nhập:
Hoàn thiện hệ thống các văn bản quản lý của Công ty, gồm các quy định, quy chế và quy trình nghiệp vụ. Chuẩn hoá các nghiệp vụ.
Xây dựng mới hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển của Công ty.
Về trụ sở: Triển khai xây dựng trụ sở Công ty tại Hà Nội, Chi nhánh Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Hải Phòng, Cần Thơ với tên gọi là các Trung tâm tài chính Dầu khí.
1.3) Giải pháp thực hiện:
1.3.1) Giải pháp về tổ chức, quản lý
-Về mô hình tổ chức
Xây dựng PVFC hoạt động theo mô hình Công ty Mẹ - Công ty Con. Công ty Mẹ là Tập đoàn Tài chính Dầu khí, Công ty Con là các Công ty có vốn góp chi phối của Công ty Mẹ trong một số lĩnh vực kinh doanh chuyên ngành như quản lý quỹ, tư vấn tài chính, bất động sản, chứng khoán, truyền thông...
-Về quản lý
+Xây dựng bộ máy Công ty mạnh đủ để hỗ trợ Ban lãnh đạo PVFC ra các quyết định kinh doanh nhanh nhạy và chính xác đồng thời hỗ trợ các đơn vị thuộc hệ thống.
+Hình thành các Công ty con hoạt động chuyên sâu trong các nghiệp vụ ngân hàng và phi ngân hàng, tích cực tham gia vào thị trường chứng khoán trong và ngoài nước. Chuẩn bị điều kiện để sớm có Chi nhánh, Văn phòng đại diện ở nước ngoài để tham gia vào hoạt động của thị trường vốn quốc tế. Đối với các Công ty con, PVFC quản lý thông qua người đại diện của Công ty tại các Công ty con. Mối quan hệ của PVFC với các Công ty con như sau:
PVFC là chủ thể đầu tư vốn vào các Công ty con, thực hiện chức năng chủ sở hữu phần vốn đầu tư vào Công ty con thông qua điều lệ, quy chế hoạt động của Công ty con (tham gia Hội đồng Quản trị, Ban kiểm soát, bộ máy quản lý tại Công ty con).
Các Công ty con là đơn vị hạch toán độc lập, có toàn quyền quản lý, sử dụng vốn theo các Nghị quyết của HĐQT (có sự tham gia của đại diện PVFC), các quy chế quản lý của Công ty con và pháp luật của Nhà nước. Công ty con chịu trách nhiệm trực tiếp về hiệu quả quản lý và sử dụng vốn được đầu tư trước PVFC và pháp luật.
Công ty con có trách nhiệm nộp PVFC phần kết quả kinh doanh theo số vốn góp của PVFC và theo các thoả thuận, quy định trong điều lệ, quy chế của Công ty con.
Công ty con được hưởng các ưu đãi về tài chính, thông tin, thương hiệu, đào tạo, thị trường, quan hệ, công nghệ...của một đơn vị thành viên trong PVFC.
Công ty con chịu sự quản lý, giám sát của PVFC theo các quy định nội bộ của PVFC.
+ Xây dựng hệ thống các quy định, quy chế và quy trình nghiệp vụ để quản trị điều hành hệ thống đúng pháp luật. Phân định rõ trách nhiệm của từng chức danh, đề cao kỷ cương trong thực thi nhiệm vụ được giao. Phân quyền để tạo quyền chủ động của các đơn vị thuộc hệ thống; quản trị điều hành thống nhất trong toàn hệ thống.
+ Ưu tiên phát triển công nghệ thông tin phục vụ các hoạt động dịch vụ tài chính tiền tệ và đầu tư. Đến 2010, tổ chức giao dịch qua mạng máy tính. Ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các nghiệp vụ của Công ty. Sử dụng các sản phẩm điện tử, mạng thông tin nội bộ trong toàn hệ thống PVFC nhằm quản lý kinh doanh an toàn, nhanh chóng, chính xác. Sử dụng thành quả công nghệ thông tin để thu thập thông tin và quảng bá hình ảnh Công ty.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đảm bảo hoạt động của Công ty phải được kiểm tra, soát xét cả trước và sau khi thực hiện nhằm đảm bảo mọi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33179.doc