Là một Ngân hàng có vai trò quan trọng trong lĩnh vực đầu tư và phát triển của đất nước. Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định luôn nỗ lực mở rộng hoạt động của mình nhằm phục vụ đất nước, nhất là hoạt động cho vay theo dự án đầu tư. Qua các năm Ngân hàng đã thực hiện cho vay nhiều dự án thuộc các lĩnh vực tín dụng thương mại, cho vay các dự án theo KHNN.
53 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3854 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiêu này mà hầu hất những nhân tố tác động lên chỉ tiêu này thì cũng có tác động tới chỉ tiêu khác và ngược lại.
2.2.1. Nhân tố bên trong
2.2.1.1. Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng dựa trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước. Toàn bộ các vấn đề có liên quan đến cấp tín dụng nói chung đều được xem xét và đưa ra trong chính sách như: Quy mô, lãi suất, kì hạn, đảm bảo, phạm vi, các khoản tín dụng có vấn đề và các nội dung khác; điều này có nghĩa là quy mô và chất lượng tín dụng tuỳ tuộc vào chính sách tín dụng cua Ngân hàng có đúng đắn hay không.
2.2.1.2. Quy trình tín dụng
Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng, các Ngân hàng thường đặt ra quy trình phân tích tín dụng. Đó là các bước mà cán bộ tín dụng, các phòng, ban có liên quan trong Ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng. Nếu việc ứng dụng quy trình tín dụng linh hoạt, có sự phối hợp nhịp nhàng ăn ý giữa các bước sẽ vừa làm hài lòng khách hàng vừa đảm bảo nguồn tín dụng an toàn, tạo điều kiện mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng tín dụng cho Ngân hàng.
2.2.1.3. Trình độ cán bộ
Với một đội ngũ cán bộ giỏi am hiểu nghiệp vụ của mình thì việc lựa chọn đánh giá khách hàng sẽ chuẩn xác, mức độ an toàn cao là cơ sở mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng. Nếu chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai… là những nguyên nhân dẫn tới mất khách hàng tốt ảnh hưởng tới hoạt động của Ngân hàng.
2.2.1.4. Công nghệ Ngân hàng
Sự hiện đại hoá công nghệ và kĩ thuật của nền kinh tế luôn gắn liền với hiện đại hoá công nghệ và kĩ thuật Ngân hàng, hay có thể nói công nghệ Ngân hàng là tập hợp những yếu tố hiện đại nhất. Vì vậy các Ngân hàng phải luôn luôn đổi mới nắm bắt công nghệ mới. Có như thế chất lượng hoạt động của Ngân hàng mới được nâng cao, quy mô được mở rộng.
2.2.1.5. Hoạt động huy động vốn
Hoạt động chính của NHTM là tìm kiếm khoản vốn (huy động vốn) để sử dung nhằm thu lợi nhuận. Việc sở dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của Ngân hàng trong đó cho vay và đầu tư là hai loại taì sản lớn và quan trọng. Nguồn huy động càng nhiều thì quy mô cho vay càng lớn.
2.2.1.6. Thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng là những thông tin về khách hàng, môi trường kinh doanh của khách hàng… thông tin càng chính xác, nhanh nhậy thì khả năng phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng càng lớn, chất lương tín dụng càng được nâng cao. Mặt khác, một Ngân hàng với lượng thông tin phong phú có thể đưa ra những tư vấn hữu ích cho khách hàng và đây là yếu tố để mở rộng quy mô tín dụng.
Tóm lại: Thông qua các nhân tố bên ngoài và bên trong ảnh hương đến quy mô và chất lượng tín dụng có thể thấy được vai trò của từng nhân tố biết vận dụng và phát huy các mặt mạnh của các nhân tố, tránh những mặt hạn chế của chúng sẽ là liều thuốc bổ cho Ngân hàng về chất lượng tín dụng.
Ngày nay Ngân hàng là một loại hình tổ chức rất phức tạp, cung cấp nhiều loại dịch vụ tiền tệ đa dạng thông qua các bộ phận đa chức năng. Mỗi một bộ phận này đều gồm những đội ngũ chuyên gia có trình độ, giàu kinh nghiệm và có khả năng đưa ra các quyết định đúng đắn trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Từng nhóm chuyên gia trong Ngân hàng thường xuyên phải đưa ra những quyết định về đối tượng khách hàng sẽ được cung cấp tín dụng, những tiêu chuẩn áp dụng cho từng loại tiền gửi… Bởi vì, tiền gửi là nguồn vốn truyền thống được sử dụng để tạo lập các quỹ của Ngân hàng. Chính nhu cầu của công chúng về tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi giao dịch đã cung cấp cơ sở cho hầu hết các khoản đầu tư và cho vay của Ngân hàng và kết quả cuối cùng là góp phần quan trọng trong việc tạo ra lợi nhuận cho Ngân hàng. Tuy nhiên các chuyên gia Ngân hàng phải làm gì khi mà số lượng cũng như sự tăng trưởng của tiền gửi không đủ để đáp ứng tất cả các yêu cầu xin vay và đầu tư mà Ngân hàng muốn thực hiện. Vì vậy công tác huy động vốn là cần thiết. Khi vốn đã đủ hoặc dư thừa thì hoạt động cho vay của Ngân hàng phải hợp lý và đúng đắn bởi cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của Ngân hàng. Thông qua các khoản cho vay của Ngân hàng, thị trường sẽ có thêm thông tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng và nhờ đó giúp họ có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng mới từ những nguồn khác với chi phí thấp hơn. Đối với hầu hết các Ngân hàng khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của Ngân hàng . Đồng thời rủi ro trong hoạt động Ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay. Tình trạng khó khăn về tài chính của một Ngân hàng thường phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi Tóm lại: Thị trường tín dụng luôn tạo ra nhiều tiềm năng cho sự phát triển của Ngân hàng nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Sự huy động vốn và lỗ lực mở rộng tín dụng nâng cao chất lượng tín dụng là hiển nhiên và cần thiết. Tín dụng là cơ sở vững chắc cho sự phát triển của ngành Ngân hàng , góp phần đẩy nhanh tốc độ CNH – HĐH đất nước.
2.2.2. Các nhân tố bên ngoài
2.2.2.1. Về kinh tế
Về tổng thể nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Khi đó, các quá trình sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế sẽ phát triển lành mạnh. Và như thế, quy mô và chất lượng tín dụng đều được nâng cao. Một khi môi trường kinh tế không ổn định, môi trường kinh doanh biến động sẽ gây khó khăn cho hoạt động của người vay làm họ mất khả năng thanh toán cho Ngân hàng, dẫn tới quy mô và chất lượng tín dụng cũng bị ảnh hưởng.
2.2.2.2. Xã hội
Trong mối quan hệ xã hội tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin. Sự tín nhiệm là cầu nối giữa Ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng nào có uy tín thì sẽ thu hút khách hàng lớn. Khách hàng nào làm ăn có hiệu quả được tín nhiệm trong quan hệ tín dụng sẽ được vay vốn dễ dàng, được hưởng các ưu đãi của Ngân hàng. Niềm tin lẫn nhau là cơ sở để mở rộng quy mô tín dụng và đảm bảo chất lượng tín dụng.
2.2.2.3. Vấn đề pháp lý
Pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ thống nhất của các văn bản dưới luật. Đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành pháp luật và trình độ dân chí. Pháp luật có nhiệm vụ tạo lập một môi trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thuận tiện và đạt hiệu quả cao là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp. Vì vậy, nhân tố pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Chỉ có trong điều kiện các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng tuân thủ pháp luật một cách nghiêm túc thì quan hệ tín dụng mới đem lại lợi ích cho cả hai phía, chất lượng tín dụng được đảm bảo và quy mô tín dụng có môi trường mở rộng.
2.3. Thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định.
2.3.1. Về phía Ngân hàng
2.3.1.1. Tình hình cho vay
Là một Ngân hàng có vai trò quan trọng trong lĩnh vực đầu tư và phát triển của đất nước. Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định luôn nỗ lực mở rộng hoạt động của mình nhằm phục vụ đất nước, nhất là hoạt động cho vay theo dự án đầu tư. Qua các năm Ngân hàng đã thực hiện cho vay nhiều dự án thuộc các lĩnh vực tín dụng thương mại, cho vay các dự án theo KHNN.
Bảng 2.1 sẽ cho thấy tình hình cho vay qua các năm gần đây
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
Dsố cho vay
490.525
581.397
769.942
687.185
Bảng 2.1 Tình hình cho vay
Nguồn báo cáo kết quả kinh doanh
Số liệu trên cho thấy quy mô hoạt động cho vay không ngừng tăng qua các năm, đặc biệt là năm 2003 tăng 32% so với năm 2002, năm 2004 giảm 11% so với năm 2003 song so với năm 2002 tốc độ tăng vẫn mạnh ( tăng 18% ). Nguyên nhân là do doanh số cho vay bằng ngoại tệ giảm mạnh: năm 2003 doanh số cho vay là 195.046 triệu đồng ( tiền USD đã quy đổi ), năm 2004 doanh số cho vay là 47.162 triệu đồng: đồng thời trong năm 2004 tỷ trọng cơ cấu huy động vốn bằng USD giảm từ 46% xuống còn 39,8% năm 2004. Vì vậy, doanh số cho vay bằng VNĐ tăng mạnh hơn USD là rất phù hợp với cơ cấu huy động vốn của Ngân hàng.
2.3.1.2. Tình hình thu nợ
Để đánh giá hoạt động cho vay của Ngân hàng có mang lại kết quả tốt hay không tốt thì phải xem xét đến doanh số thu nợ.
Bảng 2.2 Tình hình thu nợ qua các năm
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Số tiền
Tỷ trọng(%)
Số tiền
Tỷ trọng(%)
Số tiền
Tỷ trọng(%)
1.Doanh số cho vay
- VND
- USD
381.397
100
769.942
574.896
195.046
100
74
26
687.185
640.023
47.162
100
93
7
2.Doanh số thu nợ
- VND
- USD
578.653
100
739.960
574.698
165.262
100
77
23
662.185
610553
51.632
100
92
8
3.Dư nợ tín dụng
431.018
100
461.000
100
486.000
100
4.Dsố thu nợ/Dsố cho vay
99
96
96
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh
Nhìn bảng ta có thể thấy tình hình thu nợ phù hợp với doanh số cho vay. Điều này chứng tỏ hiệu quả tín dụng của Ngân hàng ngày càng tăng, làm giảm nợ quá hạn, phản ánh công tác thu nợ được chú trọng. Để đạt được điều nàylà nhờ vào công tác tín dụng tốt, các dự án cho vay được chọn lọc kỹ càng, khách hàng được lựa chọn là khách hàng truyền thống và khách hàng tiềm năng.
Ví dụ: Dư nợ tín dụng VNĐ tính đến 30/1/05
Công ty xây lắp I NĐ: 30 tỷ đồng
Công ty cổ phần thành công: 30 tỷ đồng
Công ty thực phẩm CN NĐ: 25 tỷ đồng
Công ty kinh doanh XNK Nam Hà: 24 tỷ đồng
Công ty may sông Hồng: 21 tỷ đồng
Dư nợ USD đã quy đổi ra VNĐ tính đến ngày 30/1/04
Công ty thiết bị nghe nhìn: 1,163 tỷ đồng
Công ty cổ phần lâm sản Nam Định: 860 triệu đồng
Công ty may sông Hồng: 735 triệu đồng
Trong cơ chế thị trường, nền kinh tế đang phát triển tạo điều kiện tốt cho mọi tổ chức cá nhân phát huy nội lực. Sự làm ăn có hiệu quả của khách hàng đã đem lại thu nhập và mức độ an toàn cho hoạt động của Ngân hàng.
2.3.1.3. Cơ cấu tín dụng
- Cơ cấu kì hạn
Để có thể thấy rõ cách thức phân bổ nguồn huy động vào hoạt động cho vay ta phải tìm hiểu cơ cấu kì hạn tín dụng.
Bảng 2.3. Cơ cấu kì hạn tín dụng
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
1.Dsố cho vay
- Ngắn hạn
- Trung, dài hạn
581.397
563.609
17.788
769.942
706.504
63.438
687.185
508.446
178.739
2.Dư nợ tín dụng
- Ngắn hạn
- Trung, dài hạn
431.18
288.782
142.236
461.000
279.600
181.400
480.000
290.000
190.000
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh
Bảng cho thấy cơ cấu tín dụng đã chuyển dịch tích cực theo hướng đầu tư trung, dài hạn có trọng tâm, trọng điểm, phát triển nhanh tín dụng thương mại XNK, đầu tư chiều sâu, phục vụ sản xuất kinh doanh phát triển.
- Cơ cấu tiền tệ
Bảng 2.4 Cơ cấu tiền tệ
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Số tiền
Tỷ trọng(%)
Số tiền
Tỷ trọng(%)
Số tiền
Tỷ trọng(%)
1.Doanh số cho vay
- VND
- USD
381.397
263.164
118.233
100
69
31
769.942
574.896
195.046
100
74
26
687.185
640.023
47.162
100
93
7
Thông qua bảng cơ cấu tiền tệ ta thấy khoản cho vay bằng ngoại tệ giảm mạnh trong hai năm gần đây, chủ yếu là cho vay ngắn hạn cho các tổ chức thương mại XNK.
2.3.1.4. Nợ quá hạn ( NQH )
Chất lượng tín dụng được xem xét trên tỷ lệ NQH với tổng dư nợ, nếu tỷ lệ này càng thấp thì hoạt động đó càng tốt và các Ngân hàng luôn cố gắng giữ tỷ lệ này dưới 2%.
Chỉ tiêu
2003
2004
Số tiền(triệu đồng)
%(NQH/Dư nợ)
Số tiền(triệu đồng)
%(NQH/Dư nợ)
Tổng dư NQH
- Ngắn hạn
- Trung, dài hạn
42.730
33.329
9.401
11,36
8,86
2,5
35.000
25.960
9.0401
8,33
6,18
2,15
Đa số NQH nằm trong loại cho vay ngắn hạn. Năm 2004 NQH có giảm 22,1% so với năm 2003, tỷ lệ NQH/Dư nợ năm 2004 giảm 3,03%. Cũng theo số liệu trên ta thấy tỷ lệ NQH/dư nợ qua những năm gần đây đều lớn hơn 2% rất nhiều. Điều này chứng tỏ các dự án cho vay còn kém hiệu quả do sử dụng vốn sai mục đích do đầu tư sai trọng điểm... dẫn tới khó khăn trong trả nợ.
Bảng 2.6. Tình hình NQH phân theo đối tượng
Chỉ tiêu
2003
2004
Số tiền(triệu đồng)
%(NQH/Dư nợ)
Số tiền(triệu đồng)
%(NQH/Dư nợ)
Tổng dư NQH
- Quốc doanh
- NQD
42.730
9.400
33.330
11,36
2,49
8,87
35.000
7.000
28.000
8,33
1,67
6,66
Ta có thể nhận thấy tình hình NQH đối với khu vục NQD thường chiếm tỷ trọng ngày càng cao, điều này chứng tỏ công tác quản lý cho vay các đối tượng NQD chưa tốt. Như chúng ta đã biết xu hướng hội nhập toàn cầu khuyến khích quan hệ rộng, hoạt động NQD trên nhiều lĩnh vực ngày càng trở nên có giá và nó mang lại lợi ích không nhỏ cho các hoạt động trong nước. Vì vậy Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định cần phải quan tâm chú trọng nhiều hơn nữa tới hoạt động của mình trên phạm vi NQD để có thể xoá bỏ rào cản không tin tưởng đối với đối tượng này.
Có thể tóm gọn nguyên nhân tác động NQH cao đó là: Do khách hàng làm ăn thua lỗ, còn nợ chưa trả được, do thay đổi cơ chế chính sách; do thiên tai, hạn hán... Nhìn nhận thấy nguyên nhân nhưng việc giải quyết nó là cả một vấn đề. Để khắc phục được thiếu sót, nâng cao chất lượng tín dụng không thể khác là Ngân hàng phải luôn nỗ lực nhấn mạnh công tác thẩm định, giám sát tín dụng, có cái nhìn nhanh nhạy tình hình diễn biến trên thị trường.
NQH trong các hoạt động chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê của Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định là không có. Đây không phải là biểu hiện tốt cho chất lượng tín dụng bởi các hoạt động này hầu như không diễn ra trong khi lợi ích của nó mang lại là rất lớn, chỉ có hoạt động bảo lãnh hàng năm mang lại doanh thu trên 200 triệu đồng, một lợi ích không cao nhưng an toàn. Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu của khách hàng không nhiều, chủ yếu là các công ty TNHH, công ty nhỏ lẻ khác.
Chất lượng tín dụng và quy mô tín dụng có mối quan hệ khăng khít. Nếu chỉ nâng cao chất lượng mà với quy mô tín dụng hẹp thì sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Nếu chỉ mở rộng quy mô mà bỏ qua vấn đề chất lượng, sẽ dẫn đến rủi ro cao và kết quả khó lường. Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định là một chi nhánh nhỏ trên địa bàn hoạt động không rộng, vì vậy xu hướng hoạt động của Ngân hàng không chỉ trên địa bàn mà là mở rộng phạm vi hoạt động. Muốn mở rộng phạm vi Ngân hàng luôn chủ trương nâng cao chất lượng tín dụng của mình. Mặc dù tỷ lệ NQH còn cao song một phần nguyên nhân là do yếu tố khách quan và khách hàng gây nên. Thị phần tín dụng của Ngân hàng trên địa bàn hiên nay chỉ chiếm 19,06% tuy không cao nhưng uy tín và chất lượng của Ngân hàng luôn được khẳng định, vừa qua Ngân hàng được nhận định là Ngân hàng có tiềm năng phát triển nhất trên địa bàn tỉnh. Quy mô và chất lượng hoạt động của Ngân hàng nếu so sánh với hội sở chính Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam và các Ngân hàng khác trên cả nước thì có thể thấy là còn rất yếu. Song với tình hình, điều kiện hiện nay Ngân hàng chắc chắn sẽ tạo lập một chỗ đứng vững chắc trên thị trường góp phần tăng cường uy tín và danh tiếng cho Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
2.3.2. Về phía khách hàng
Khách hàng là nhân tố quyết định đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Khách hàng có ăn nên làm ra thì Ngân hàng hàng mới có lợi nhuận tạo đà cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước nói chung và của nghành Ngân hàng hàng nói riêng và cụ thể ở đây là Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Nam Định, ngược lại khách hàng là các doanh nghiệp hay các tổ chức kinh tế làm ăn không có hiệu quả sử dụng vốn vay sai mục đích hay đầu tư cho các dự án của mình không đem lại lợi nhuận thì sẽ kéo hệ thống kinh doanh tiền tệ đặc biệt này vào chỗ làm ăn thua lỗ bởi thu không bù nổi chi.
Qua các bảng đã trình bày ở trên ta thấy công tác thu nợ được đẩy mạnh làm giảm nợ quá hạn điều đó là một tín hiệu đáng mừng bởi sự làm ăn có hiệu quả của khách hàng. Khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn tốt thể hiện ở việc đầu tư cho vay ngắn hạn liên tục tăng trưởng đặc biệt là năm 2001 chiếm tỷ trọng 67,9 % trong cơ cấu tín dụng. Trong những năm gần đây ưu tiên phát triển tín dụng cho vay trung dài hạn điều này thể hiện doanh nghiệp đã có bước đột phá mở rộng quy mô sản xuất trong kinh doanh. Tuy vậy cũng không có ít doanh nghiệp làm ăn thua lỗ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Đa số NQH nằm trong loại cho vay ngắn hạn. Năm 2004 NQH có giảm 22,1% so với năm 2003, tỷ lệ NQH/Dư nợ năm 2004 giảm 3,03%. Cũng theo số liệu trên ta thấy tỷ lệ NQH/dư nợ qua những năm gần đây đều lớn hơn 2% rất nhiều. Điều này chứng tỏ các dự án cho vay còn kém hiệu quả do sử dụng vốn sai mục đích do đầu tư sai trọng điểm... dẫn tới khó khăn trong trả nợ. NQH đối với khu vục NQD thường chiếm tỷ trọng ngày càng cao, điều này chứng tỏ công tác quản lý cho vay các đối tượng NQD chưa tốt. NQH cao đó là: Do khách hàng làm ăn thua lỗ, còn nợ chưa trả được, do thay đổi cơ chế chính sách; do thiên tai , hạn hán... Để khắc phục được những thiếu sót này nầng cao chất lượng tín dụng hơn nữa ta cần phải chú trọng đến công tác thẩm định dự án trước khi cho vay và giám sát tín dụng có cái nhìn nhanh nhạy tình hình diễn biến trên thị trường.
2.3.3. Về phía xã hội
Yếu tố xã hội cũng có một ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Cụ thể là các quyết định, chính sách cho vay đầu tư hay các văn bản về luật cho vay và đầu tư ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng một cách mạnh mẽ. Ngân hàng là nơi thu hút vốn của xã hội của các tổ chức kinh tế hay các cá nhân sau đó đem đầu tư đồng vốn của mình vào các tổ chức kinh tế hay cá nhân khác. Đồng vốn đó người ta gọi là tín dụng cho vay vì vậy nó chịu ảnh hưởng của các hệ thống văn bản về luật của nhà nước khi cho vay, ngược lại tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm, thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung sản xuất.
2.4. Đánh giá chung chất lượng tín dụng Ngân hàng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định
2.4.1. Thành tựu:
Nét nổi bật của hoạt động kinh doanh tín dụng trong những năm gần đây là Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định đã tạo cho mình được uy tín cũng như thị trường hoạt động của mình trong lĩnh vực kinh doanh và đầu tư phát triển. Khối lượng tín dụng tăng bảo đảm cung cấp khối lượng lớn cho nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội. Tỷ trọng vốn cho vay đã tạo được bước khởi sắc ban đầu tạo thêm nhiều nghành nghề mới, đồng thời phát triển nghành nghề truyền thống… tạo công ăn việc làm góp phần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp sang phát triển hàng hoá công nghiệp, dịch vụ trong đó đặc biệt chú trọng tới nghành công nghiệp Dệt của Nam Định.
Đầu tư và phát triển gắn liền với “hiệu quả, an toàn” .Với những thông số về doanh số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ tín dụng 3 năm gần đây đã thực sự khẳng định khả năng đáp ứng của Ngân hàng về nhu cầu tín dụng và hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định trong lĩnh vực kinh doanh tín dụng. Tỷ lệ doanh số thu nợ/ Doanh số cho vay năm 2003 - 2004 là 96 % thực sự là chỉ tiêu an toàn và hiệu quả.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định luôn chú trọng tới việc đảm bảo chất lượng tín dụng. Mặc dù tỷ lệ NQH còn cao song lỗ lực của Ngân hàng trong việc giảm NQH, nợ xấu trong năm 2003 là rất đáng khích lệ ( các khoản nợ tồn đọng giảm 100% so với năm 2002 )
Có được kết quả trên là do:
Thứ nhất: Trong quan hệ tín dụng, Ngân hàng luôn đáp ứng nhu cầu về vốn một cách nhanh chóng và hiệu quả, nhưng vẫn tuân theo quy trình tín dụng.
Thứ hai: Ngân hàng có những chính sách ưu đãi với những khách hàng có uy tín và quan hệ lâu dài . Do đó ngày càng thu hút khách hàng đến với Ngân hàng.
Thứ ba: Công tác huy động vốn được đẩy mạnh và đã đạt được kết quả cao đáp ứng nhu cầu của khách hàng ngày càng tốt hơn.
Thứ tư: Vơí chủ trương chủ động tìm kiến khách hàng, Ngân hàng tăng cường công tác marketing đến mọi đối tượng nên số khách hàng của Ngân hàng ngày càng tăng.
Thứ năm: Ngân hàng rất quan tâm tới việc xây dựng biện pháp nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng các mặt nghiệp vụ, đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng, trong đó có việc chú trọng bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng. Ngân hàng rất coi trọng việc đầu tư áp dụng công nghệ tin học hiện đại trong công tác tín dụng góp phần cung cấp thông tin tín dụng chất lượng cao làm cho khách hàng tin tưởng hơn đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng. Ví dụ như: Khi có một chương trình mới liên quan tới mảng tin học có thể ứng dụng vào Ngân hàng thì tất cả các phòng ban sẽ được chọn một người đi để tìm hiểu học tập, sau đó về hướng dẫn cho các thành viên còn lại.
Thứ sáu: Ngân hàng cũng chú trọng tới công tác kiểm tra quản lý nợ vay. Nhờ đó mà tín dụng được mở rộng về qui mô và hạn chế những khoản tín dụng xấu.
2.4.2. Bên cạnh những kết quả khả quan về hoạt động tín dụng mà Ngân hàng đã đạt được, vẫn còn nhiều bất cập về quy mô và những biểu hiện tồn tại về chất lượng tín dụng.
Về quy mô tín dụng
Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Nam Định tuy có mức tăng trưởng ( GDP ) khá song tốc độ vẫn thấp hơn bình quân vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và cả nước; tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH diễn ra chậm chạp, nhìn chung vẫn là tính thuần nông, vì vậy thiếu các dự án kinh tế đầu tư lớn có hiệu quả. Khu công nghiệp của tỉnh mới hình thành, sức sản xuất của doanh nghiệp nhỏ, chưa có nghành công nghiệp mũi nhọn, chưa có các sản phẩm độc đáo có sức cạnh tranh trên thị trường và xuất khẩu. Mặt khác cơ chế chính sách của Nhà Nước chưa có độ bền và tính chiến lược, có nhiều thay đổi bất thường làm bất lợi cho các doanh nghiệp. Ví dụ điển hình là chủ trương: Hạn chế tiêu dùng Xe máy trên thị trường trong năm và cơ cấu lại nghành công nghiệp Xe máy Việt Nam, đến năm 2010 làm nhiều doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp Xe máy của tỉnh lâm vào khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, nguồn trả nợ vay Ngân hàng bị chậm lại, thậm chí doanh nghiệp có thể bị thua lỗ trong kinh doanh.
Mạng lưới hoạt động của Ngân hàng đầu tư và phát triển Nam Định nhỏ hẹp. Hiện nay mới có hội sở chính và một phòng giao dịch, 2 bàn tiết kiệm tập trung tại thành phố Nam Định. Vì vậy việc mở rộng tiếp cận vốn cho vay khó khăn, việc tăng trưởng tín dụng bị hạn chế, khối lượng và doanh thu dịch vụ không tăng trưởng được.
Khối lượng tín dụng chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp Nhà nước chưa mạnh dạn mở rộng cho vay các thành phần kinh tế khác tỷ lệ cho vay NQD, dân doanh chưa tương song với sự phát triển mạnh mẽ của thành phần kinh tế này tại địa phương.
Về chất lượng tín dụng
NQH có chiều hướng giảm chậm song vẫn còn rất cao. So với tỷ lệ NQH mà các Ngân hàng mong muốn thì tỷ lệ NQH của chi nhánh gấp trên 4 lần. Con số nợ khoanh được Nhà nước chấp nhận còn quá cao năm 2003 là 66 tỷ đồng đó là những biểu hiện không tốt của chất lượng. Đó là chưa tính đến việc gia hạn nợ. Nếu công tác này không được thực hiện một cách nghiêm túc, gia hạn nợ không dựa trên triển vọng thực tế của dự án thì con số NQH còn cao hơn. Và kết luận tất nhiên là chất lượng tín dụng thực tế còn thấp hơn nữa.
Cho vay đầu tư phát triển thường tiềm ẩn rủi ro lớn nhưng lại thiếu về chính sách cơ chế rủi ro khách quan. Cụ thể là: Cho vay xây dựng Chợ Rồng, Công ty điện tử điện lạnh, Công ty quảng cáo hội chợ TM, Công ty dụng cụ TDTT, Công ty XNK Nam Hà. Các doanh nghiệp vay vốn bằng ngoại tệ để nhập vật tư thiết bị nhưng sản phẩm làm ra chủ yếu tiêu thụ trong nước lại thu nhập bằng nội tệ như: Công ty lâm sản, Nhà máy bia NADA, Công ty thiết bị nghe nhìn. Sự biến động tỷ giá cao của ngoại tệ là nỗi lo và là nguyên nhân mất ổn định tài chính doanh nghiệp và khó khăn đối với các tổ chức tín dụng trong việc thu hồi vốn đầu tư.
Chi nhánh vẫn phải tiếp nhận một số dự án đầu tư phát triển của Nhà nước mang tầm trọng điểm QG mà công tác quy hoạch dự báo về nguồn nguyên liệu, thị trường, xu hướng phát triển công nghệ, khả năng tiệu thụ sản phẩm do các cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện chưa đáp ứng được đòi hỏi mang tính cấp thiết của thực trạng phát triển kinh tế đặt ra, nên nhiều khi dự án không thành công, mà lúc này chỉ có Ngân hàng phải gánh chịu và nó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
Trong cơ chế thị trường nghiệp vụ tín dụng đã được ban hành còn một số điểm không phù hợp với thực tiễn; những vướng mắc đề xuất của Ngân hàng chưa được trả lời kịp thời; tính chủ động và phán quyết còn hạn chế, nâng cao tính chủ động về hạn mức tín dụng trong mỗi Ngân hàng nhưng không vượt quá hạn mức cho phép. Những vấn đề này nếu không được giải quyết sớm sẽ gây ra những ảnh hưởng không nhỏ dến hoạt động tín dụng, giảm tính cạnh trạnh, giảm lòng tin đối với khách hàng.
Việc chỉ đạo nắm bắt thông tin về hoạt động kinh doanh của khách hàng, thông tin về kinh tế thị trường, giá cả chưa đầy đủ, xử lý còn chậm, thiếu chính xác. Chất lượng tín dụng có đảm bảo được chức năng còn được thể hiện ở mô hình tổ chức sao cho phù hợp với khả năng chuyên môn của mỗi người. Trong công tác chỉ đạo còn nhiều lúng túng, vì thế vai trò chỉ đạo tín dụng còn nhiều hạn chế thông tin bị ngắt quãng, nắm bắt thị trường không có hệ thống. Hiện nay, tăng trưởng tín dụng cao và chất lượng tín dụng tốt là 2 khái niệm không thể tách rời, chất lượng tín dụng phải đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng về hai mặt là khả năng sinh lời và giảm thiểu rủi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21.doc