Chuyên đề Giải pháp tăng cường huy động vốn của các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam

Qua Cổ phần hóa, Doanh nghiệp nhà nước đã chuyển thành Doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động, huy động thêm được nguồn vốn của xã hội vào sản xuất, kinh doanh, hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng hội nhập của Doanh nghiệp được nâng lên.

Mặc dù có những thăng trầm, nhưng công cuộc sắp xếp lại Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã đem lại những kết quả đáng ghi nhận. Việc sắp xếp Doanh nghiệp nhà nước được thực hiện bằng các giải pháp: sáp nhập, hợp nhất, Cổ phần hóa, giao, khoán, bán cho thuê Doanh nghiệp, tổ chức lại các tổng công ty và thành lập các tập đoàn kinh tế. Trong tất cả các giải pháp đó, Cổ phần hóa được coi là giải pháp cơ bản và quan trọng nhất để cơ cấu lại Doanh nghiệp nhà nước. Sau 15 năm kể từ khi thực hiện đổi mới chúng ta đã thành lập được 2987 công ty cổ phần trên cơ sở Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước và bộ phận Doanh nghiệp nhà nước. Đến hết tháng 8-2006, cả nước đã sắp xếp được 4.447 doanh nghiệp, trong đó, cổ phần hoá 3.060 doanh nghiệp. Riêng từ năm 2001 đến nay đã sắp xếp được 3.389 doanh nghiệp (bằng 68% số Doanh nghiệp nhà nước có vào đầu năm 2001). Hình thức sắp xếp phổ biến nhất là cổ phần hoá.

 

doc37 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3440 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp tăng cường huy động vốn của các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t mức lãi suất của khoản nợ trong suốt thời gian tồn tại ( kỳ hạn ) của tráĩ phiếu. Việc thanh toán lãi suất trái phiếu cũng thường được quy định rõ, ví dụ trả hai lần trong năm vào ngày 30/06 và ngày 31/12. Để huy đông vốn trên thị trường trái phiếu, phải tính đến mức độ hấp dẫn của trái phiếu. Tính hấp dẫn phụ thuộc vào những yếu tố sau: Lãi suất của trái phiếu: Đương nhiên người đầu tư muốn được hưởng mức lãi suất cao nhưng doanh nghiệp phát hành phải cân nhắc lãi suất có thể chấp nhận được đối với trái phiếu của họ, chứ không thể trả thật cao cho nhà đầu tư. Lãi suất của trái phiếu phải được đặt trong tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn, đặc biệt là phỉa tính đên sự cạnh tranh với trái phiếu của các công ty khác và trái phiếu Chính phủ. Giả sử trái phiếu kho bạc Nhà nước kỳ hạn 5 năm có lãi suất 7,0%/năm, trái phiếu trung bình của một số công ty khác cùng kỳ hạn: 8,0%/năm; khi đó để phát hành thành công trái phiếu, cần quy định lãi suất trái phiếu sao cho có thể cạnh tranh được với mức lãi suất đó. Tuy nhiên một ràng buộc khác là chi phí lãi vay mà công ty phải trả cho các trái chủ. Nếu đưa thêm các yếu tố khuyến khích vào trái phiếu thì có thể không cần nâng cao mức lãi suất. -Kỳ hạn của trái phiếu: Đây là yếu tố rất quan trọng không những đối với công ty phát hành mà cả đối với nhà đầu tư. Khi phát hành, doanh nghiệp phải căn cứ vào tình hình thị trương vốn và tâm lý dân cư mới có thể xác định kỳ hạn hợp lý. Ví d, trong tháng 09/2001, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam phát hành các loại trái phiees vô danh và gi danh với kỳ hạn 5 năm và 7 năm. Loại trái phiếu 5 năm bán được với số lượng rất lớn nhưng loại trái phiếu 7 năm thì không hấp dẫn công chúng. - Uy tín của doanh nghiệp: Không phải doanh nghiệp nào cũng có thể thu hút được công chúng mua trái phiếu vì nhà đầu tư phải đánh giá uy tín của doanh nghiệp thì mới quyết định mua hay không mua. Các doanh nghiệp có uy tín và vững mạnh thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng để huy đông vốn. Trong việc phát hành trái phiếu, cũng cần chú ý đến mệnh giá vì nó có thể liên quan đến sức mua của dân chúng. Đặc biệt, ở Việt Nam khi phát hành trái phiếu, doanh nghiệp cần xác đinh một mức mệnh giá vừa phải để có thể nhiều người mua được, tạo sự lưu thông dễ dàng chotriarais phiếu trên thị trường. Trái phiếu có lãi suất thay đổi. Tuy gọi là lãi suất thay đổi nhưng thực ra loại này cólãi suất phụ thuộc vào một số nguồn lãi suất quan trọng khác. Chẳng hạn, lãi suất LIBOR ( London Interbank Offeredrate) hoặc lãi suất cơ bản ( Prime Rate). Khi nào nên phát hành loại trái phiếu thả nổi? Trong điều kiện có mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định, doanh nghiệp có thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này. Do các biến động của lạm phát kéo theo sự giao động của lãi suất thực, các nhà đầu tư mong muốn được hưởng một lãi suất thoả đáng khi so sánh với tình hình thị trường. Vì vậy, một số người ưa thích trái phiếu thả nổi. Tuy nhiên, loại trái phiếu này có một vài nhược điểm: Doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều này gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính. Việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất. Trái phiếu có thể thu hồi. Một số doanh nghiệp lựa chọn cách phát hành những trái phiếu có thể thu hồi, tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Trái phiếu như vậy phải được quy định ngay khi phát hành để người mua trái phiếu được biết. Doanh nghiệp phải quy định rõ về thời hạn và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại trái phiêú. Thông thường người ta quy định thời hạn tối thiểu mà trái phiếu sẽ không bị thu hồi, ví dụ trong thời gian 36 tháng. Loại trái phiếu có thể thu hồi có những ưu điểm sau: Có thể sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng. Khi không cần thiết, doanh nghiệp có thể mua lại các trái phiếu, tức là giảm số vốnvay. Doanh nghiệp có thể thay nguồn tài chính do phát hành trái phiếu loại này bằng một nguồn tài chính khác thông qua mua lại các trái phiếu đó. Tuy nhiên nếu không có những hấp dẫn nào đó thì trái phiếu này không được ưa thích. Trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu. Các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty Mỹ, thường phát hành những trái phiếu kèm theo những điều kiện có thể chuyển đổi được. Nói chung, sự chuyển đổi và lựa chọn cho phép các bên (doanh nghiệp, người đầu tư) có thể lựa chọn cách thức đầu tư có lợi và thích hợp. Có một số hình thức chuyển đổi, ở đây chỉ đề cập đến hai loại: - Giấy bảo đảm: Người sở hữu giấy baỏ đảm có thể mua một số lượng cổ phiếu thường, thường được quy định trước với giá cả và thời gian xác định. Trái phiếu chuyển đổi: là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành một số lượng nhất định các cổ phiếu thường. Nếu thị giá của cỏ phiếu tăng lê thì người giữ trái phiếu có cơ may nhận được lợi nhuận cao. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM I. Thực trạng huy động vốn trong các Doanh nghiệp nhà nước hiện nay. 1. Thực trạng cổ phần hoá. Các Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta do yếu lịch sử đã và đang đóng góp vai trò to lớn gần như tuyệt đối trong mọi lĩnh vực nhưng lại hoạt động kém hiệu quả. Quá trình chuyển đổi đất nước sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước tất yếu phải đổi mới căn bản Doanh nghiệp nhà nước. Sắp xếp chuyển đổi sở hữu Doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước được coi là xương sống của công cuộc đổi mới về kinh tế. Đổi mới, sắp xếp và phát triển Doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn của đảng và nhà nước ta. Qua Cổ phần hóa, Doanh nghiệp nhà nước đã chuyển thành Doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động, huy động thêm được nguồn vốn của xã hội vào sản xuất, kinh doanh, hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng hội nhập của Doanh nghiệp được nâng lên. Mặc dù có những thăng trầm, nhưng công cuộc sắp xếp lại Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã đem lại những kết quả đáng ghi nhận. Việc sắp xếp Doanh nghiệp nhà nước được thực hiện bằng các giải pháp: sáp nhập, hợp nhất, Cổ phần hóa, giao, khoán, bán cho thuê Doanh nghiệp, tổ chức lại các tổng công ty và thành lập các tập đoàn kinh tế. Trong tất cả các giải pháp đó, Cổ phần hóa được coi là giải pháp cơ bản và quan trọng nhất để cơ cấu lại Doanh nghiệp nhà nước. Sau 15 năm kể từ khi thực hiện đổi mới chúng ta đã thành lập được 2987 công ty cổ phần trên cơ sở Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước và bộ phận Doanh nghiệp nhà nước. Đến hết tháng 8-2006, cả nước đã sắp xếp được 4.447 doanh nghiệp, trong đó, cổ phần hoá 3.060 doanh nghiệp. Riêng từ năm 2001 đến nay đã sắp xếp được 3.389 doanh nghiệp (bằng 68% số Doanh nghiệp nhà nước có vào đầu năm 2001). Hình thức sắp xếp phổ biến nhất là cổ phần hoá. Hình thức Cổ phần hóa phổ biến nhất là bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, kết hợp phát hành thêm cổ phần (hình thức này chiếm 43,4%), tiếp đó là bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp (hình thức này chiếm 26%), còn lại là bán toàn bộ vốn (hình thức này chiếm 15,5%), giữ nguyên vốn nhà nước và phát hành thêm cổ phiếu (chiếm 15,1%). Hiệu quả Cổ phần hóa: Số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá (Doanh nghiệp cổ phần hóa) tăng mạnh: Tính đến 30/6/2006, cả nước đã cổ phần hoá được 3.365 doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp, trong đó chỉ tính riêng năm 2005 thực hiện cơ chế cổ phần hoá theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã có 967 đơn vị được phê duyệt phương án cổ phần hoá. Thông qua cổ phần hoá đã huy động được trên 22.000 tỷ đồng vốn nhàn rỗi trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp Cổ phần hóa có quy mô vốn lớn hơn trước đây: Trong số 967 đơn vị đã được phê duyệt phương án cổ phần hoá trong năm 2005 thì có tới 310 đơn vị có số vốn trên 10 tỷ đồng (chiếm 32%), trong đó có gần 10 doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 300 tỷ đồng. Nếu như trước năm 2005 vốn nhà nước trong 2.307 đơn vị cổ phần hoá chỉ khoảng 20 ngàn tỷ đồng, bằng 8% tổng số vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thì chỉ riêng năm 2005 vốn nhà nước trong 967 đơn vị cổ phần hoá đã đạt 20 ngàn tỷ đồng, bằng 8% tổng số vốn nhà nước. Theo điều tra cho thấy, sau Cổ phần hóa vốn bình quân một doanh nghiệp tăng từ 24 tỷ $ (2001) lên 63,6 tỷ $ (2004), có tới 92,5% số doanh nghiệp được điều tra cho rằng có lãi, Lợi nhuận trước thuế tăng 149,8%, Lợi nhuận sau thuế tăng bình quân 182,3%, mức nộp Ngân sách nhà nước bình quân tăng 26,53%, Thu nhập bình quân của người lao động tăng 35,4% so với trước Cổ phần hóa, lao động tăng do mở rộng sản xuất, cổ tức cao hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng. Năm 2004, theo kết quả điều tra của Ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp Trung ương đối với trên 500 doanh nghiệp nhà nước hoàn thành việc cổ phần hoá và đa dạng hoá quan hệ sở hữu trên một năm cho thấy, hiệu quả sản xuất kinh doanh đã có những chuyển biến tích cực: vốn điều lệ tăng từ 50 đến 100%; doanh thu tăng 60%; lợi nhuận trước thuế tăng 130%, nộp ngân sách tăng 45%; thu nhập người lao động tăng 63%. Cổ phần hóa tuy đã đạt được một số kết quả tích cực nhưng so với yêu cầu đổi mới còn chậm. vốn nhà nước trong các Doanh nghiệp nhà nước đã Cổ phần hóa còn nhỏ và việc huy động vốn trong quá trình chưa được nhiều, thời gian Cổ phần hóa dài. Nhìn chung các doanh nghiệp được cổ phần hoá đến nay vẫn còn nhỏ, chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư có tiềm năng lớn về vốn, công nghệ, thị trường và kinh nghiệm quản lý; chưa thật sự đổi mới trong quản lý nội bộ doanh nghiệp, chưa phân biệt và có nhận thức rõ về vai trò người đại diện sở hữu phần vốn nhà nước và người trực tiếp sở hữu doanh nghiệp cổ phần. tình trạng các cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu không đúng thủ tục luật pháp còn nhiều và có hiện tượng mua gom cổ phiếu… Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng ít về số lượng nhưng lại nắm một phần rất lớn về vốn. lượng vốn nằm trong các Doanh nghiệp nhà nước lên tới 270 ngàn tỷ đồng nhưng không được sử dụng có hiệu quả, sự thất thoát vốn không phải là nhỏ. Ngoài ra Doanh nghiệp nhà nước còn sử dụng tới 70-80% vốn tín dụng của ngân hàng quốc doanh. nhiều Doanh nghiệp nhà nước đã lợi dụng lợi thế vị thế “chủ đạo” của mình biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp gây ra những xáo động không nhỏ trong nền kinh tế. trong số hơn 3000 Doanh nghiệp và bộ phận Doanh nghiệp đã cổ phần hoá thì chỉ có 30% nhà nước không giữ một đồng vốn nào, nhà nước giữ cổ phần chi phối trên 51% tại 29% Doanh nghiệp. Thí dụ Tổng công ty Điện lực Việt Nam còn nắm tới 65% vốn của nhà máy thuỷ điện Vĩnh Sơn-Sông Hinh, 75% vốn của nhà máy thuỷ điện Thác Bà và nhiệt điện Phả Lại. Với tỷ lệ cao như vậy các cổ đông bên ngoài hầu như không có quyền hạn gì. Điều này cho thấy, mặc dù đã cổ phần hoá nhưng nhà nước vẫn là cổ đông lớn nhất. Điều đáng nói là tỷ lệ vốn điều lệ mà nhà nước còn nắm tại các cty cổ phần không giảm mà ngày càng tăng. Nếu thời kỳ đầu (1992-1998) tỷ lệ cổ phần mà nhà nước nắm trong các cty cổ phần là 28% thì đến thời kỳ 2001-2004, tỷ lệ này lên tới 49,8% và hiện nay bình quân là 46,5%. Đây chính là điều hạn chế sự tham gia tiến trình cổ phần hoá của các nhà đầu tư chiến lược. Hầu hết các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá họ vẫn sử dụng gần như toàn bộ bộ máy quản lý cũ. Theo điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, thì sau khi cổ phần hoá, 81,5% giám đốc doanh nghiệp được giữ nguyên chức vụ; khoảng 78% chức vụ phó giám đốc; kế toán trưởng không có sự thay đổi và không có doanh nghiệp nào sau cổ phần hoá sử dụng cơ chế thuê giám đốc điều hành. Điều này làm giảm sức sáng tạo, tư duy kinh tế, trình độ và cung cách điều hành Doanh nghiệp ít có sự thay đổi sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Theo quy định hiện nay, toàn bộ tiền thu về cổ phần hoá sau khi trừ các khoản chi phí cổ phần hoá; chi cho người lao động thôi việc, mất việc, đào tạo lại theo phương án cổ phần hoá được duyệt được chuyển về tổng công ty (cổ phần hoá đơn vị thành viên tổng công ty), công ty mẹ (cổ phần hoá bộ phận doanh nghiệp) hoặc về Quỹ sắp xếp cổ phần hoá Bộ Tài chính (cổ phần hoá các đơn vị độc lập thuộc bộ, ngành, địa phương). Quy định này có hạn chế là trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá dưới hình thức phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn, toàn bộ khoản chênh lệch do bán đấu giá cổ phần đều phải nộp cho Nhà nước hoặc cho tổng công ty, công ty mẹ mà không được để lại cho doanh nghiệp thực hiện đầu tư, mở rộng sản xuất nên thực tế nhiều Doanh nghiệp Cổ phần hóa chỉ chú trọng hình thức bán bớt vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 2. Thực trạng huy động vốn từ tín dụng ngân hàng Đối với hoạt động tín dụng ngân hàng, việc đổi mới cơ chế tín dụng phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước được tiến hành đồng thời với quá trình sắp xếp đổi mới Doanh nghiệp nhà nước đã và đang có những tác động tích cực, nhưng cũng phát sinh những khó khăn vướng mắc và rủi ro tín dụng ở nhiều Doanh nghiệp thuộc các bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các tỉnh quản lý. Mặt tích cực: Doanh nghiệp nhà nước được phân cấp mạnh hơn trong quyết định đầu tư, quản lý tài chính, đấu thầu, thực hiện tiết kiệm chi phí, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh. Điều này tạo điều kiện cho các NHTM rút ngắn khả năng tiếp cận, thẩm định nhu cầu vay vốn, đánh giá khả năng trả nợ để xử lý và phân loại và phản ánh chính xác hơn chất lượng tín dụng. Hạn chế: Tỷ trọng dư nợ vau có đảm bảo đã được nâng lên nhưng tỷ lệ lớn các tài sản thế chấp của Doanh nghiệp nhà nước không đảm bảo điều kiện đăng ký giao dịch do giấy tờ không đủ, chưa chuẩn mực, giá trị tài sản thế chấp còn đánh giá chưa sát thị trường. Việc giám sát mục đích sử dụng và hiệu quả vốn vay đối với các khoản vay của Doanh nghiệp còn khó khăn, nhiều lúc bị động theo khách hàng. Các Ngân hàng thương mại mặc dù vẫn rất tích cực trong hỗ trợ vốn cho hệ thống các Doanh nghiệp nhà nước nhưng nghi ngại tính khả thi, hiệu quả sử dụng vốn và khả năng hoàn vốn của Doanh nghiệp nhà nước và bởi một số các lý do khác sau: Việc tài trợ cho các Doanh nghiệp nhà nước gặp rất nhiều khó khăn trong công tác thu hồi vốn để tái đầu tư. Nợ xấu, nợ quá hạn lớn phần nhiều cũng nảy sinh từ hoạt động tài trợ cho các Doanh nghiệp này, dẫn đến khả năng sinh lời của các NHTM thấp do phải thực hiện trích lập dự phòng rủi ro lớn theo quy định hiện hành Nợ tồn đọng trong các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là doanh nghiệp ngành xây lắp chưa được giải quyết thoả đáng. Các doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng trong khi các NHTM lại chưa nhận được sự hỗ trợ để thu hồi nợ vay từ các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Phát mại tài sản bảo đảm hiện nay là trở ngại lớn cho các NHTM (đặc biệt là tài sản của các doanh nghiệp Nhà nước) vì đa phần các tài sản chưa đủ cơ sở pháp lý để thế chấp, cầm cố. Vì vậy, khi xử lý tài sản đảm bảo Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn và làm giảm sút giá trị của tài sản. Xử lý tranh chấp liên quan đến nợ vay giữa Ngân hàng và doanh nghiệp nhiều khi còn chưa công bằng, quyền lợi của Ngân hàng chưa được bảo đảm khi doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán Trong nền kinh tế thị trường đang hội nhập, doanh nghiệp nhà nước ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Hoạt động của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả, khả năng tạo ra lợi nhuận kém, hàng tồn kho tiêu thụ chậm, công nợ chưa thanh toán được... cộng thêm các cơ chế, quy chế quản lý của doanh nghiệp nhà nước cũng ngày càng trở nên bất cập với thực tiễn , bộ máy quản lý cồng kềnh, trình độ quản lý tài chính và hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao... khiến các ngân hàng e ngại khi xem xét cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước thường có nguồn vốn tự có thấp nên khả năng tự chủ về tài chính không cao. Để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động các đơn vị này thường phải vay vốn ngân hàng có những phương án tỷ lệ vay vốn có thể lên đến 100% nhu cầu thanh toán. Phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước không có tài sản bảo đảm nên việc cho vay thường thực hiện theo hình thức tín chấp. Việc cho vay tín chấp mang nhiều rủi ro tiềm ẩn cho ngân hàng. Một số trường hợp khách hàng có tài sản là bất động sản có giá trị khá lớn nhưng giấy tờ chứng minh sở hữu thường không đầy đủ. Ngân hàng muốn lấy tài sản này làm đảm bảo cho khoản vay nhưng lại không thực hiện được việc ký hợp đồng thế chấp và không đăng ký được giao dịch bảo đảm. Theo hội nghị phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp của Trung tâm Thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước: "Doanh nghiệp Nhà nước là loại hình doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả nhất. Qua phân tích cho thấy doanh nghiệp nhà nước vay nợ nhiều, khả năng tự chủ tài chính thấp, khả năng sinh lời thấp, độ rủi ro cao". Tất cả những điều đó đã dẫn đến rủi ro đối với nguồn vốn tín dụng cao và kết quả là nhiều doanh nghiệp nhà nước đã bị mất niềm tin đối với ngân hàng và các ngân hàng tuy không "ngoảnh mặt" lại với doanh nghiệp nhà nước nhưng họ rất thận trọng khi tài trợ mới hoặc tiếp tục tài trợ Các doanh nghiệp trong ngành xây dựng hiện đang trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Để bảo đảm kế hoạch đầu tư, các tổng công ty hầu như phải đi vay là chính, vốn tự cho các doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước nói chung khi chuyển sang công ty cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp đều gặp khó khăn trong vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, mặc dù thắt chặt tín dụng không có nghĩa là phân biệt đối xử.có chỉ đạt 2- 3% tổng mức đầu tư, áp lực trả nợ rất căng thẳng. Song, chính các công ty cổ phần (CTCP) lại là những doanh nghiệp đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp gặp khó khăn nhất về vốn, bởi vì những quy định thắt chặt trong vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Đây cũng là một trong những lý do khiến nhiều lãnh đạo các cấp còn băn khoăn, chưa chỉ đạo quyết liệt, người lao động lo lắng, bất an… gây ảnh hưởng đến chỉ tiêu kế hoạch Cổ phần hóa từ đầu năm đến nay. Công ty cơ khí và xây lắp Thái Bình (COMA 16) là doanh nghiệp không nằm trong danh sách các đơn vị của COMA trong Đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp của Bộ Xây dựng. Song vì mục tiêu đẩy nhanh hơn nữa việc Cổ phần hóa doanh nghiệp, COMA 16 trở thành 1 trong 3 công ty được tổng công ty trình Bộ phê duyệt Cổ phần hóa trong năm 2004. COMA 16 đã quán triệt nghiêm túc chủ trương của Đảng, Nhà nước, tích cực tổ chức thực hiện các quy định của Bộ, quyết tâm đến tháng 10/2004 sẽ hoàn thành xong các bước chuyển sang công ty cổ phần. Sẽ không có gì khó khăn bởi đây là doanh nghiệp cơ khí làm ăn đang có hiệu quả, là một điển hình của các doanh nghiệp trên địa bàn Thái Bình trong hoạt động vay và trả nợ ngân hàng đúng hạn. Nhưng ngay từ khi vừa nhận được quyết định Cổ phần hóa, cán bộ của ngân hàng đã đến tận công ty thông báo: ngân hàng cấp trên đã có "chỉ đạo" sẽ thực hiện hạn chế tối đa các hợp đồng vay vốn, tích cực thu hồi nợ cho đến khi công ty thực hiện Cổ phần hóa xong để chuyển sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp thay vì theo Luật doanh nghiệp nhà nước trước đây. Điều này ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất của công ty. Hiện nay, công ty đang thực hiện khối lượng lớn chế tạo cột điện cho đường dây tải điện 500 KV đoạn Đà Nẵng - Thường Tín và Việt Trì - Sơn La, chế tạo thiết bị cho dự án Nhà máy xi măng Sông Gianh... nhưng chỉ ứng được 7 - 8% giá trị hợp đồng, nên nhu cầu vốn vay lưu động để duy trì sản xuất thường xuyên cần từ 5 - 6 tỷ đồng. Theo sổ sách kế toán, công ty đang quản lý tài sản trị giá 7 tỷ đồng, có khả năng vay tới 10 tỷ đồng. Ông Vũ Đức Dũng, Giám đốc công ty lo ngại: "Sau khi xác định lại để Cổ phần hóa, giá trị doanh nghiệp chỉ còn khoảng 3- 4 tỷ đồng, trong đó bao gồm cả giá trị thiết bị, nhưng đa số các ngân hàng chỉ quan tâm đến tài sản có giá trị thế chấp lớn nhất là quyền sử dụng đất. Như vậy, khả năng được vay 3 tỷ đồng cũng là khó". Cũng trong tình trạng tương tự, ông Nguyễn Văn Tài, Giám đốc công ty cổ phần xây dựng Bình Dương cho biết: "Khi còn là doanh nghiệp nhà nước, công ty có thể vay vốn gấp 20 lần giá trị tài sản của đơn vị nhưng nay chỉ còn được vay bằng 70% giá trị tài sản đơn vị có. Thậm chí, có dự án đầu tư cũng khó mà vay được tiền". Không chỉ các doanh nghiệp ngành xây dựng mà doanh nghiệp nhà nước nói chung khi chuyển sang công ty cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp đều gặp khó khăn trong vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Bởi lẽ trước đây chỉ cần bảo lãnh của tổng công ty là doanh nghiệp có thể vay theo hình thức tín chấp nhưng khi chuyển sang công ty cổ phần sẽ phải tuân thủ quy định chặt chẽ hơn: phải có bảo lãnh của tổng công ty (bằng văn bản bảo lãnh hoặc hợp đồng cam kết bảo lãnh) đối với toàn bộ nghĩa vụ trả nợ gốc và các khoản lãi công ty đã vay và sẽ vay; doanh nghiệp phải có tài sản thế chấp, bảo đảm tiền vay. Đây là một trong những thực trạng mà Doanh nghiệp sau Cổ phần hóa gặp phải trong việc huy động vốn. 3. Huy động vốn qua cổ phiếu Công tác Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước đã đạt được kết quả trên nhiều mặt, các kết quả này có tác tích cực đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Cổ phần hóa đã được triển khai rộng rãi đã trực tiếp làm tăng hàng hoá cho TTCK: theo số liệu của cục Tài chính Doanh nghiệp, tính đến hết tháng 6 năm 2006, cả nước đã Cổ phần hóa được trên 3000 Doanh nghiệp và bộ phận DNNN. Đặc biệt đã từng bước tiến hành Cổ phần hóa một số Doanh nghiệp có giá trị hàng ngàn tỷ đồng như công ty sữa Việt Nam (giá trị DN 2.500 tỷ đồng), nhà máy thuỷ điện Sông Hinh- Vĩnh Sơn 2.144 tỷ đồng, Công ty Bảo hiểm TPHCM 1.311 tỷ đồng… Cổ phần hóa rộng khắp là nguồn hàng hoá quan trọng làm phong phú nguồn hàng hoá trên thị trường chứng khoán. Cổ phần hóa đã huy động được một lượng vốn nhàn rỗi cho đầu tư qua thị trường chứng khoán. với 2.242 DNNN được Cổ phần hóa năm 2004, 12.411 tỷ đồng cổ phiếu đã được bán, nhà nước nhờ đó đã có 10.169 tỷ đồng (chiếm 58% tổng số vốn nhà nước đã Cổ phần hóa) để tái đầu tư phát triển kinh tế. Mặt khác quy mô vốn điều lệ của Doanh nghiệp sau Cổ phần hóa tăng bình quân 44% đã cho thấy Cổ phần hóa đã thực sự mở ra một cánh cửa để các Doanh nghiệp nhà nước tiếp cận với một kênh dẫn vốn mới đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển. Tính đến hết tháng 1/2006 trung tâm GDCK Hà Nội đã đấu giá 28 phiên lớn cho các Doanh nghiệp nhà nước Cổ phần hóa hoặc các Doanh nghiệp nhà nước đã Cổ phần hóa bán bớt phần vốn nhà nước (chưa kể có 17 phiên phối hợp với TTDGCK TP HCM). Tổng giá trị cổ phần trúng giá đạt 2.039,2 tỷ đồng, với 2.880 nhà đầu tư trúng giá trên 4.085 tổng số lượt nhà đầu tư đăng ký đấu giá. Bán đấu giá cổ phần đã trở thành một kênh huy động vốn quan trọng đối với các Doanh nghiệp nhà nước thông qua TTCK. Từ tháng 7/2003 đến nay, đã có khoảng 40 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) bán đấu giá cổ phần tại Việt Nam để các chuyển sang hình thức công ty cổ phần. Nhiều chuyên gia đánh giá thị trường này đang càng ngày càng sôi động. Công ty chứng khoán Ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam, Công ty chứng khoán Ngân hàng ngoại thương, Công ty chứng khoán Ngân hàng công thương, Công ty chứng khoán Bảo Việt... hiện là những đơn vị hàng đầu trong việc nhận làm đại lý bán cổ phần cho các công ty chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần. Ngoài ra, nhiều công ty cổ phần cũng tự thành lập hội đồng bán đấu giá và tự tổ chức bán đấu giá. Theo Công ty chứng khoán của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, từ tháng 7/2003 đến nay, Công ty này đã nhận bán đấu giá cho 5 khách hàng là Gamex, Vifon, Vinamilk, Badaco, TIE. Kết quả bán đấu giá cổ phần lần đầu của các doanh nghiệp này rất khả quan. Ngày 24/2/2004, Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu TIE-Tp.HCM đã thông báo bán đấu giá cổ phần lần đầu để chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần. Công ty này đã đưa mức giá khởi điểm để đấu giá lên 115.000 đồng, được coi là mức khởi điểm cao nhất từ trước tới nay trong số các công ty bán đấu giá cổ phần. Công ty Vinamilk, khi bán đấu giá chỉ chào giá khởi điểm là 105.000 đồng một cổ phần, nhưng cho đến khi vào phiên đấu giá, người mua cao nhất đã trả giá 181.000 đồng. Sau khi bán đấu giá, trị giá tiền thu về của Vinamilk từ 72 tỷ đã tăng thêm 42 tỷ đồng nữa. Những tồn tại của quá trình CPH làm cản trở đến việc niêm yết/đăng ký trên thị trường chứng khoán. Tiến độ CPH chậm. kết quả thực hiện CPH mới đạt khoảng 80%, trong đó nhiều bộ ngành, địa phương đạt dưới 50%. Thời gian để CPH một DN trung bình mất 437 ngày, nhiều nơi là vài năm trong khi theo quy định chỉ là 9 tháng. Theo kế hoạch, cho tới cuối năm 2007, còn 1700 DN cần CPH, bằng gần 70% số đã thực hiện của cả giai đoạn 2000- 2005, đay thực sự là một bài toán cho các Bộ, ngành, và lời giải của bài toán này cũng chính là chìa khoá cho việc gia tăng hàng hoá trên thị trường chứng khoán. Nhiều DN CPH khó có thể trở thành công ty đại chúng. Phần lớn DN được CPH là DN nhỏ (có đến 40% DN được CPH có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng). không những thế, tuy được CPH song phần vốn nắm giữ của nhà nước tại các DN này vẫn rất lớn. Kể cả với DN đang niêm yết trên TTGDCK TP HCM, tỷ lệ phần vốn nhà nước vẫn chiếm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải pháp tăng cường huy động vốn của các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan