Thị trường là nơi tiêu thụ sản phẩm của dự án, nó quyết định việc thành bại của bất cứ dự án đầu tư nào, chính vì thế nếu việc thẩm định thị trường không cẩn thận thì kết quả thẩm định sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Để thẩm định tốt phần này, cán bộ thẩm định phải là người năng động, nắm bắt thông tin và tổng hợp thông tin tốt. Yêu cầu này không hề đơn giản, hiện nay tại chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ việc thẩm định đánh giá thị trường, đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm còn chưa được chú trọng đúng mức, chưa có bộ phận chuyên phân tích về ngành kinh tế, vì thế khi thẩm định phần này cán bộ thẩm định gặp rất nhiều khó khăn về thông tin như số liệu điều tra tổng cầu của sản phẩm, mức cung hiện tại của thị trường, khả năng thiếu hụt là bao nhiêu, hiện có bao nhiêu đối thủ cạnh tranh đối với sản phẩm của dự án Ví dụ với dự án đầu tư xây dựng nhà máy gạch Tuynnel PC thuộc lĩnh vực vật liệu xây dựng, do nhu cầu về sản phẩm gạch trong xây dựng gắn liền với nhu cầu xây dựng đã được tính toán và công bố thông tin khá đầy đủ, hơn nữa số lượng nhà cung cấp và khả năng có thể cung cấp về mặt số lượng rất dễ dàng thu thập thông tin, nên các thông tin về tổng nhu cầu cho thị trường xây dựng, tổng cung đã có trên thị trường, phân khúc thị trường còn trống có thể được xác định mà không gặp phải nhiều khó khăn. Do đó rất thuận lợi cho công tác thẩm định. Song với các lĩnh vực khác, việc thu thập thông tin sẵn có về thị trường không được dễ dàng như vậy.
112 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1550 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoạt động thẩm định tài trợ vốn các dự án đầu tư tại chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2006 - 2007: thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ết định đảm bảo tính khả thi và khả năng hoàn trả nợ cho chi nhánh. Trong việc thẩm định dự án, cán bộ thẩm định khá linh hoạt trong việc thẩm định các khía cạnh của dự án: đi sâu nêu bật các khía cạnh có ảnh hưởng mạnh mẽ đến dự án. Như trong dự án đầu tư xây dựng nhà máy gạch Tuynel PC, khía cạnh thị trường nguyên vật liệu đầu vào cho dự án được nhấn mạnh, bởi việc sản xuất gạch rất cần nguồn nguyên vật liệu ở gần để thuận lợi cho việc di chuyển và khai thác (huyện Phù Ninh rất gần giao điểm của 3 con sông: sông Lô, sông Đà, sông Hồng là nơi cung cấp nguồn nguyên liệu thạch anh, đất sét… cho sản xuất các loại gạch).
Trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định đã điều chỉnh lại một số chỉ tiêu tài chính như tổng mức đầu tư… (như trong phần thẩm định dự án đầu tư xây dựng nhà máy gạch Tuynel PC) cho phù hợp với thực tế dự án và đúng bản chất kinh tế, không hoàn toàn bị lệ thuộc vào cách tính toán của chủ đầu tư trong hồ sơ gửi đến chi nhánh xin vay vốn.
Với những dự án đầu tư của các doanh nghiệp đã có thời gian hoạt động sản xuất kinh doanh, cán bộ tín dụng còn trực tiếp đến doanh nghiệp để kiểm tra thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh, tìm hiểu tình hình tài chính đột xuất để có cái nhìn vừa khách quan và chính xác hơn về tiềm lực tực sự của khách hàng, song song với tài liệu hồ sơ dự án mà khách hàng đã gửi cho chi nhánh (như phần thẩm định năng lực tài chính của công ty cổ phần dệt VP, chủ đầu tư của dự án đầu tư chuyển nhà máy dệt về mặt bằng nhuộm).
Về công tác tổ chức và quy trình thẩm định
Chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ nhìn chung luôn thực hiện thẩm định dự án đầu tư cho vay theo quy định chung của NHCT Việt Nam. Trong quá trình thực hiện cho vay, khâu thẩm định phương án vay vốn trước khi quyết định cho vay là một phần không thể thiếu, kể từ khi toàn hệ thống NHCT Việt Nam áp dụng tiêu chuẩn ISO trong cho vay thì đây lại là công đoạn có tính chất quyết định trong việc đưa ra quyết định có đồng ý tài trợ vốn cho phương án đầu tư hay không.
Công tác tổ chức thẩm định tại chi nhánh thực hiện theo tiêu chuẩn ISO vì vậy mà tương đối bài bản, có sự phân công lao động ở mức tương đối cao tạo hiệu quả tối đa trong công việc.
Về cơ sở vật chất phục vụ công tác thẩm định
Các trang thiết bị phục vụ cho công tác thẩm định trong những năm gần đây được chi nhánh khá quan tâm. Mỗi cán bộ thẩm định đều có bàn làm việc riêng, tủ đựng hồ sơ tài liệu riêng, từ cuối năm 2005 chi nhánh đã bố trí tăng cường mạnh mẽ trang bị máy vi tính có nối mạng internet phục vụ công tác thẩm định, đến nay đã có 9 máy vi tính/12 cán bộ thẩm định (bao gồm 01 trưởng phòng, 02 phó phòng, 09 nhân viên tín dụng), 02 điện thoại cố định… với mục đích phục vụ tốt cho công việc.
Một số hạn chế cần khắc phục
Hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động thẩm định dự án đầu tư nói riêng trong những năm gần đây luôn là lĩnh vực được sự quan tâm rất lớn của chi nhánh vì đây là hoạt động luôn mang lại nguồn thu lớn nhất cho chi nhánh. Tuy đã có những thành tựu nhất định nhưng công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ vẫn còn một số hạn chế cần có giải pháp khắc phục để công tác này ngày càng hoàn thiện hơn.
Về công tác tổ chức và quy trình thẩm định
Hiện tại, chưa có bộ phận hay phòng chuyên về thẩm định dự án nên các cán bộ tín dụng cũng kiêm nhiệm cả việc thẩm định dự án. Việc “vừa đá bóng vừa thổi còi” này rất dễ gây ra sự thiếu minh bạch, thiếu công tâm trong quá trình thẩm định dự án. Theo nguyên tắc thì việc tiếp nhận hồ sơ dự án sẽ do một bộ phận hoặc một phòng khác (phòng khách hàng) thực hiện; dự án được tập trung lại rồi mới gửi tới phòng thẩm định để cán bộ thẩm định thực hiện việc thẩm định dự án; đồng thời hồ sơ và sau đó là kết quả thẩm định của cán bộ thẩm định cũng được chuyển tới phòng quản lí rủi ro để kiểm tra lại kết quả thẩm định và thực hiện thẩm định rủi ro tín dụng. Khi mọi kết luận đều đạt yêu cầu thì cán bộ tín dụng mới xem xét, đề xuất mức tín dụng theo đúng quy định và kinh nghiệm của mình, dựa theo mức độ đáp ứng các điều kiện thẩm định của dự án vay vốn. Cuối cùng là sự xét duyệt của phó phòng, trưởng phòng, giám đốc hoặc phó giám đốc chi nhánh. Tuy nhiên, trên thực tế từ khâu tiếp nhận hồ sơ, đến thẩm định rồi đề xuất mức tín dụng đều do cán bộ tín dụng của phòng khách hàng doanh nghiệp thực hiện. Hơn nữa, mỗi cán bộ tín dụng lại phụ trách một hoặc một nhóm doanh nghiệp (vì vậy các dự án thuộc doanh nghiệp do cán bộ tín dụng nào phụ trách thì dự án đó sẽ do cán bộ tín dụng đó tiếp nhận, thẩm định và đề xuất mức tín dụng) nên việc đảm bảo tuyệt đối sự chính xác, công bằng trong quá trình thẩm định là khó được đảm bảo.
Mặt khác, khi thẩm định dự án, hầu như các cán bộ phải tiến hành thẩm định độc lập, trong khi để thẩm định một dự án một cách bài bản và khoa học ngoài việc cần kiến thức chuyên sâu còn đòi hỏi phải có thời gian để có thể thu thập đầy đủ thông tin trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Một vấn đề nữa, đó là các dự án thường gắn liền với xây dựng nhà xưởng và mua sắm máy móc, thiết bị, công nghệ; trong khi các cán bộ thẩm định không qua đào tạo về các vấn đề này nhưng vẫn được phân công thẩm định, dẫn tới chất lượng thẩm định không được cao. Việc bố trí thẩm định dự án như hiện nay là chưa hợp lí và khoa học.
Quy trình thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh như hiện nay tuy bảo đảm khá đúng quy trình chuẩn và phù hợp với thông thường, song một vài điểm còn mang tính hình thức, như việc thẩm định rủi ro tín dụng gần như do cán bộ thẩm định sẽ thẩm định luôn, nhưng nội dung hết sức sơ sài và chung chung, không sát với hoàn cảnh thực tế của dự án (như việc thẩm định rủi ro của dự án đầu tư xây dựng nhà máy gạch Tuynel PC chỉ nêu ra hai rủi ro là giá nguyên vật liệu phụ đầu vào biến động mạnh và cơ chế tiền lương thay đổi làm tăng giá thành sản phẩm).
Về phương pháp thẩm định
Nhìn chung, khi thẩm định một dự án chi nhánh có sự phối hợp một số phương pháp để đánh giá đúng hiệu quả của dự án. Đặc biệt đối với góc độ ngân hàng tài trợ vốn, phương pháp phân tích độ nhạy là phương pháp vô cùng quan trọng, bởi đặc thù của dự án đầu tư là chỉ mô tả một cách chi tiết hình ảnh của dự án, nhưng ở thì tương lai; mọi nhận định, dữ liệu, tính toán chỉ là giả thiết, ước tính nên rủi ro là rất lớn. Hiện nay, việc sử dụng các phương pháp trong thẩm định dự án đầu tư lại tương đối hạn chế. Một mặt, chuẩn ISO mà chi nhánh đang thực hiện không quy định rõ các phương pháp thẩm định cần áp dụng trong khi tiến hành thẩm định dự án. Do đó việc có sử dụng hay không phụ thuộc vào kiến thức và trình độ của cán bộ thẩm định. Mặt khác, cán bộ thẩm định không được đào tạo bài bản về kinh tế đầu tư, thẩm định dự án đầu tư. Chính vì thế, việc sử dụng các phương pháp thẩm định là tương đối hạn chế. Các phương pháp rất cơ bản như phương pháp dự báo, phương pháp phân tích độ nhạy rất ít khi được sử dụng; nhất là đối với những dự án nhỏ, việc thẩm định mới dừng lại ở trạng thái tĩnh chưa phân tích độ nhạy của dự án (như phần thẩm định dự án đầu tư xây dựng nhà máy gạch Tuynel PC không được phân tích độ nhạy). Khi có phân tích độ nhạy, hầu như việc phân tích mới chỉ dừng lại ở phân tích tác động của từng yếu tố tới hiệu quả của dự án chứ chưa phân tích trên cơ sở thay đổi của nhiều nhân tố cùng lúc.
Về nội dung thẩm định
Nội dung thẩm định một dự án đầu tư cho đến nay đã được NHCT Việt Nam quy định theo tiêu chuẩn ISO, vì thế khung điều kiện tiêu chuẩn cho việc thẩm định là rất rõ ràng và bài bản, tuy nhiên thực tế tại chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ lại chưa hẳn như vậy.
Nội dung thẩm định dự án đầu tư còn mang tính hình thức, thậm chí phần lớn nội dung thẩm định các dự án đều không đầy đủ, không cặn kẽ và đi vào thực chất dự án. Các nội dung được thẩm định không được lưu loát và sắp xếp không được khoa học. Thực trạng này là rất nghiêm trọng trong hoàn cảnh chi nhánh đã áp dụng tiêu chuẩn về thẩm định dự án đầu tư của NHCT Việt Nam. Ví dụ nội dung thẩm định dự án đầu tư xây dựng nhà máy gạch Tuynel PC đã nêu ở phần trước.
Trong quá trình thẩm định các khía cạnh của dự án đầu tư, các cán bộ thẩm định đã bộc lộ điểm yếu trong một số khía cạnh rất quan trọng của dự án, trong đó nổi bật là các khía cạnh sau:
Về phương diện thẩm định thị trường của dự án
Thị trường là nơi tiêu thụ sản phẩm của dự án, nó quyết định việc thành bại của bất cứ dự án đầu tư nào, chính vì thế nếu việc thẩm định thị trường không cẩn thận thì kết quả thẩm định sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Để thẩm định tốt phần này, cán bộ thẩm định phải là người năng động, nắm bắt thông tin và tổng hợp thông tin tốt. Yêu cầu này không hề đơn giản, hiện nay tại chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ việc thẩm định đánh giá thị trường, đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm còn chưa được chú trọng đúng mức, chưa có bộ phận chuyên phân tích về ngành kinh tế, vì thế khi thẩm định phần này cán bộ thẩm định gặp rất nhiều khó khăn về thông tin như số liệu điều tra tổng cầu của sản phẩm, mức cung hiện tại của thị trường, khả năng thiếu hụt là bao nhiêu, hiện có bao nhiêu đối thủ cạnh tranh đối với sản phẩm của dự án… Ví dụ với dự án đầu tư xây dựng nhà máy gạch Tuynnel PC thuộc lĩnh vực vật liệu xây dựng, do nhu cầu về sản phẩm gạch trong xây dựng gắn liền với nhu cầu xây dựng đã được tính toán và công bố thông tin khá đầy đủ, hơn nữa số lượng nhà cung cấp và khả năng có thể cung cấp về mặt số lượng rất dễ dàng thu thập thông tin, nên các thông tin về tổng nhu cầu cho thị trường xây dựng, tổng cung đã có trên thị trường, phân khúc thị trường còn trống có thể được xác định mà không gặp phải nhiều khó khăn. Do đó rất thuận lợi cho công tác thẩm định. Song với các lĩnh vực khác, việc thu thập thông tin sẵn có về thị trường không được dễ dàng như vậy.
Thẩm định tổng mức đầu tư và tính khả thi của từng nguồn vốn
Phần này trong nhiều dự án (như dự án đầu tư xây dựng nhà máy gạch Tuynel PC) mới chỉ chú ý nhiều đến tổng mức đầu tư, phần vốn vay của chi nhánh ngân hàng mà chưa thẩm định kĩ phần vốn tự có của chủ đầu tư và khả năng huy động nguồn vốn này như thế nào. Tính khả thi của nguồn vốn là điều rất quan trọng, nếu thẩm định phần này không kĩ, khi chi nhánh đã tham gia tài trợ vốn mà chủ đầu tư không huy động được nguồn vốn đối ứng thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ và hiệu quả của dự án, cũng có nghĩa là ảnh hưởng tới tiến độ trả nợ gốc và lãi cho chi nhánh ngân hàng.
Về phương diện thẩm định tài chính dự án
Thẩm định tài chính giữ vai trò rất quan trọng trong công tác thẩm định dự án đàu tư tại ngân hàng, kết quả của thẩm định tài chính là một trong những căn cứ quan trọng để chi nhánh quyết định có tài trợ cho dự án vay vốn hay không.
Trong thẩm định tài chính dự án, các chỉ tiêu không thể không thẩm định là NPV, IRR, thời gian hoàn vốn đầu tư, kế hoạch trả nợ cho ngân hàng… Tuy nhiên, trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định có sự nhầm lẫn về góc độ nhìn nhận dự án của phía chi nhánh là chủ thể dự định tài trợ vốn cho dự án (như phần thẩm định tài chính dự án đầu tư xây dựng nhà máy gạch Tuynel PC). Vì thế mà kết quả thẩm định không được chính xác.
Công việc phân tích độ nhạy là công việc quan trọng cuối cùng trong việc thẩm định khía cạnh tài chính. Trong điều kiện rủi ro về lạm phát cao, như trong tình hình hiện nay, thì việc phân tích độ nhạy (ví dụ với giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng ảnh hưởng tới các chỉ tiêu hiệu quả của dự án như thế nào, hay với chi phí đầu vào và giá cả sản phẩm của dự án cùng thay đổi thì các chỉ tiêu hiệu quả có còn được đảm bảo không) là vô cùng cần thiết, nhằm đảm bảo khả năng trả nợ gốc và lãi chắc chắn cho chi nhánh ngân hàng. Nhưng các cán bộ thẩm định tại chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ không chú trọng phần này, và do đó đa số dự án đầu tư xin vay vốn không được phân tích độ nhạy (như trong phần thẩm định tài chính dạ án đầu tư xây dựng nhà máy gạch Tuynel PC).
Về phương diện thẩm định kĩ thuật
Thẩm định kĩ thuật liên quan đến nhiều vấn đề như địa điểm thực hiện dự án, giải pháp bố trí mặt bằng, công nghệ thiết bị, khả năng cung cấp nguyên vật liệu đầu vào của dự án… Cán bộ thẩm định của chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ chủ yếu được chọn từ các trường đại học thuộc khối kinh tế (trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Học viện Tài chính, Học viện Ngân hàng) hoặc được đào tạo hàm thụ tại Học viện Ngân hàng. Mặc dù như trường Đại học Kinh tế Quốc dân có đào tạo sơ bộ về quản lí công nghệ (với sinh viên không thuộc chuyên ngành Quản lí công nghệ) song để có sự hiểu biết chuyên sâu về công nghệ, máy móc thiết bị rất hạn chế. Chính vì vậy có thể nói thẩm định khía cạnh kĩ thuật là khía cạnh yếu nhất của chi nhánh trong công tác thẩm định dự án đầu tư. Việc thẩm định công nghệ thiết bị gần như nếu có (ở rất ít dự án) thì cũng chỉ thẩm định giá công nghệ thiết bị dựa theo thông tin từ báo chí và kinh nghiệm, nhận định chủ quan của cán bộ thẩm định. Còn lại tất cả các vấn đề khác có liên quan đến công nghệ (như mức độ hiện đại của công nghệ, sự phù hợp với khí hậu Việt Nam đối với những dây chuyền nhập khẩu…) còn cực kì hạn chế và dựa chủ yếu vào hồ sơ dự án đầu tư của khách hàng (như phần thẩm định khía cạnh kĩ thuật của dự án đầu tư xây dựng nhà máy gạch Tuynel PC, cán bộ thẩm định chỉ đưa ra được sơ đồ công nghệ sản xuất và ưu điểm của công nghệ mà dự án sử dụng so với phương pháp thủ công). Hiện chi nhánh cũng chưa có sự hợp tác với cơ quan chuyên môn nào về công nghệ để có sự hỗ trợ tư vấn về mặt công nghệ trong quá trình thẩm định dự án.
Điều này cũng xảy ra tương tự với việc thẩm định về quy mô, giải pháp xây dựng cũng như về giải pháp môi trường, phòng cháy chữa cháy.
Thực tế này xảy ra không chỉ tại chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ mà chính là thực trạng chung hoạt động thẩm định tại tất cả các ngân hàng của Việt Nam hiện nay, khi một cán bộ thẩm định chỉ được đào tạo trong khối kinh tế phải thẩm định cả những lĩnh vực hoàn toàn không được đào tạo bài bản như chuyên ngành xây dựng, môi trường, kiến trúc… Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng thẩm định.
Về phương diện thẩm định yếu tố kinh tế - xã hội
Về phương diện này, ngân hàng không quan tâm nhiều, thậm chí trong trong tất cả các tờ trình thẩm định không đề cập đến khía cạnh này.
Một số nguyên nhân dẫn tới những hạn chế của công tác thẩm định tài trợ vốn các dự án đầu tư tại chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ
Nguyên nhân từ phía chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ
Phân công công việc chưa hợp lí là một trong những nguyên nhân khiến chất lượng thẩm định dự án đầu tư chưa đạt lượng chát lượng như mong muốn. Mỗi cán bộ thẩm định phải đảm nhận nhiều dự án thuộc những lĩnh vực khác nhau, khiến công việc đôi khi là quá nhiều, cán bộ thẩm định không thể chuyên tâm sâu vào một lĩnh vực, một dự án nào mà phải dàn trải đều quỹ thời gian làm việc, tìm hiểu thông itn quá nhiều để có thể có hiểu biết về lĩnh vực cần thẩm định… chính điều đó đã phần nào khiến chất lượng thẩm định không cao.
Các cán bộ thẩm định chủ yếu được đào tạo từ các trường đại học thuộc khối ngành kinh tế như Đại học Kinh tế quốc dân, Học viện tài chính, Học viện ngân hàng nhưng mặt bằng chung rất trẻ, trung bình mới khoảng 2 – 3 năm làm việc, thẩm chí có 2 cán bộ thẩm định mới được nhận vào làm việc từ đầu năm 2007, vì vậy còn rất nhiều bỡ ngỡ khi phải thẩm định những dự án tương đối lớn so với mặt bằng tại chi nhánh như dự án đầu tư xây dựng nhà máy gạch Tuynel PC với quy mô hơn 18 tỷ đồng. Hơn nữa, tất cả các cán bộ thẩm định đều không được đào tựo chuyên sâu về kinh tế đầu tư, về thẩm định dự án. Vì vậy nghiệp vụ thẩm định nhiều khi không được chắc chắn dẫn đến việc thẩm định sơ sài, kkhông phân tích được tài chính dự án một cách bài bản, khoa học (như phần thẩm định tài chính dự án đầu tư xây dựng nhà máy gạch Tuynel PC).
Tại chi nhánh hiện nay việc thẩm định dự án đầu tư chỉ chú trọng thẩm định trước cho vay mà không kiểm tra việc sử dụng vốn vay khi giải ngân và sau giải ngân. Có lẽ đây là một thiếu sót lớn, bởi công việc này cũng rất quan trọng. Việc kiểm soát sau khi cho vay được thực hiện đôi khi còn sơ sài, nhiều khi có đi kiểm tra nhưng lại không lập thành biên bản kiểm tra tín dụng. Như vậy dễ dẫn đến tình trạng cán bộ thẩm định không nắm vững và theo sát được tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, những khó khăn vướng mắc mà dự án gặp phải để có hướng giải quyết sớm.
Các cán bộ thẩm định dường như vẫn chưa thích ứng được với chuẩn ISO về thẩm định dự án mà chi nhánh cũng như toàn hệ thống NHCT Việt Nam đang áp dụng. Các nội dung thẩm định có mức yêu cầu cao, trong khi sự phản xạ cũng như khả năng chuyên môn của các cán bộ thẩm định chưa đáp ứng ngay được.
Các nguyên nhân khác
Trong hoàn cảnh hiện nay, môi trường kinh doanh nói chung của cả nước cũng như nói riêng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ luôn có những biến động và thay đổi tác động lên mọi thành kinh tế rong đó có những nhóm đối tượng là kháhc hàng của chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ. Vì vậy không phải lúc nào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng diễn ra tốt đẹp như dự kiến, điều đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho chi nhánh. Nhiều dự án ban đầu rất tốt nhưng do những biến động này, mà khả năng lường trước là hữu hạn, dự án rất có thể trở thành dự án không tốt.
Tình hình cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng diễn ra ngày càng gay gắt và khốc liệt. Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ có 04 ngân hàng thương mại quốc doanh, ngoài ra còn có chi nhánh và nhiều điểm giao dịch của gần 20 ngân hàng khác, ngân hàng nào cũng muốn chiếm thị phần nhất định cho mình. Vì vậy mà để cạnh tranh, đôi khi chi nhánh đã tỏ ra dễ dãi trong việc thẩm định các dự án đầu tư trước cho vay.
CHƯƠNG II
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI TRỢ VỐN CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI
CHI NHÁNH NHCT TỈNH PHÚ THỌ
Định hướng phát triển của chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ
Định hướng phát triển chung
Chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ nằm trong hệ thống NHCT Việt Nam, thực hiện theo chiến lược phát triển chung của NHCT Việt Nam trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Thực hiện đề án cơ cấu lại NHCT Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 đã được chính phủ phê duyệt, mục tiêu phát triển toàn hệ thống NHCT Việt Nam đến năm 2010 là: “Xây dựng NHCT Việt Nam trở thành một ngân hàng thương mại chủ lực và hiện đại của nhà nước, hoạt động kinh doanh hiệu quả, tài chính lành mạnh, kĩ thuật công nghệ cao, kinh doanh đa năng, chiếm thị phần lớn ở Việt Nam, đủ sức cạnh tranh trong nước và chủ động hội nhập quốc tế”. Phương châm hoạt động của NHCT Việt Nam là: hội nhập vững chắc, trở thành ngân hàng trung bình tiên tiến trong khu vực.
Trong thời gian tới, chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ góp phần cùng toàn hệ thống NHCT Việt Nam thực hiện chiến lược phát triển chung toàn hệ thống bằng những cố gắng nỗ lực của mình: Luôn phát huy lợi thế về huy động nguồn vốn với mạng lưới trải rộng tại các khu dân cư tập trung và uy tín của NHCT; Gia tăng tín dụng đảm bảo chất lượng an toàn, hiệu quả, bền vững; Phát triển hoạt động thu phí dịch vụ gắn kết với sản phẩm tín dụng; Củng cố và tiếp tục mở rộng mạng lưới.
Luôn thực hiện tốt nhất tất cả các nhiệm vụ, các kế hoạch và mục tiêu mà NHCT Việt Nam giao cho. Đối với một chi nhánh của NHCT Việt Nam, đây là một trong những mục tiêu cao nhất và cụ thể nhất. Đối với chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ, đây lại càng là nhiệm vụ khó khăn phải vượt qua, bởi Phú Thọ mới chỉ là tỉnh có điều kiện kinh tế trung bình so với cả nước, nền kinh tế đang trong quá trình phát triển, vì vậy tăng trưởng tín dụng mới chỉ ở mức độ thấp, mức tăng xét về tỉ trọng thì cao nhưng về giá trị tuyệt đối thì còn khiêm tốn. Các kế hoạch hàng năm mà NHCT Việt Nam giao cho thường không đạt được 100%. Do đó, trong thời gian tới, thực hiện tốt nhất tất cả các nhiệm vụ, các kế hoạch và mục tiêu mà NHCT Việt Nam giao cho vẫn là mục tiêu chiến lược đòi hỏi nỗ lực lớn của toàn chi nhánh.
Thực hiện hiệu quả chương trình cải cách hành chính trong nội bộ chi nhánh: Giảm các thủ tục phiền hà, thiếu khao học; thay đổi phong cách phục vụ, làm việc: trật tự, vui tươi, thân thiện; thực hiện khẩu hiệu “khách hàng là thượng đế”.
Định hướng đối với hoạt động tài trợ vốn theo dự án đầu tư trong thời gian tới
Tài trợ vốn cho các dự án đầu tư luôn giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của bất kì ngân hàng cũng như chi nhánh ngân hàng nào. Chính vì vậy, cùng với nhiệm vụ NHCT Việt Nam giao cho, chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ tập trung khai thác và mở rộng hoạt động cho vay dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Trong thời gian tới, cùng với sự phát triển và mở rộng mạnh mẽ của các khu công nghiệp, khu kinh tế trên địa bàn tỉnh, chi nhánh cũng hướng mũi nhọn đại bàn mục tiêu của mình vào các khu công nghiệp, khu kinh tế.
Chi nhánh lựa chọn các dự án đầu tư phù hợp với quy hoạch phát triển ngành, vùng và chỉ tài trợ cho những dự án khả thi, mang lại hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế, có khả năng trả nợ cho chi nhánh.
Các lĩnh vực cho vay mục tiêu của chi nhánh cũng phù hợp với định hướng chiến lược của tỉnh đề ra, đó là:
+ Sản xuất vật liệu xây dựng
+ Vận tải, giao thông
+ Chế biến chè
+ Công nghiệp dệt may
+ Sản xuất, chế biến và kinh doanh phân bón
+ Công nghiệp giấy
+ Du lịch, nhà hàng, khách sạn
Trong thời gian tới phấn đấu mỗi năm tăng tối thiểu 50 tỷ đồng dư nợ cho vay các dự án đầu tư, tỉ lệ nợ quá hạn luôn đạt mục tiêu phấn đấu của NHCT Việt Nam (dưới 3% tổng dư nợ).
Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài trợ vốn các dự án đầu tư tại chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ
Hoàn thiện công tác tổ chức thẩm định và quy trình thẩm định dự án đầu tư
Chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ nên có kiến nghị với NHCT Việt Nam về việc thành lập phòng thẩm định độc lập trong hệ thống các phòng của chi nhánh hoặc bộ phận thẩm định nằm trong phòng khách hàng doanh nghiệp. Phòng hay bộ phận này phải bao gồm các cán bộ có năng lực, có kinh nghiệm, và đặc biệt là có kiến thức sâu về kinh tế đầu tư, thẩm định dự án đầu tư để có thể chuyên sâu thẩm định các dự án đầu tư và giúp đỡ, hỗ trợ cho nhau trong quá trình thẩm định.
Với mô hình này, phòng hay bộ phận thẩm định sẽ bao gồm các cán bộ có năng lực và kinh nghiệm, đồng thời có kiến thức chuyên sâu về các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là kiến thức về thẩm định dự án tốt. Khi đó sẽ có trưởng phòng hay trưởng bộ phận, các thành viên có thể có kiên thức chuyên sâu về xây dựng, kiến trúc, công nghệ, môi trường, kinh tế đầu tư… Trong quá trình thẩm định, với từng nội dung có liên quan đến lĩnh vực chuyên môn nào thì cán bộ thẩm định có chuyên môn đó sẽ thẩm định lĩnh vực đó. Ví dụ, dự án cần phải thẩm định về thị trường, tài chính sẽ do cán bộ chuyên môn kinh tế đầu tư thẩm định, về giải pháp xử lí ô nhiễm môi trường sẽ do cán bộ có chuyên môn về môi trường thẩm định, về giải pháp công nghệ sẽ do cán bộ chuyên sâu về công nghệ thẩm định. Hoặc chi nhánh có liên kết với các cơ quan, tổ chức có liên quan đến các nội dung có tính đặc thù như môi trường, công nghệ… như trên để có thể được tư vấn, giúp đỡ trong quá trình thẩm định.
Với mô hình phòng hay bộ phận thẩm định, cùng với sự phân công lao động sâu như trên, việc thẩm định sẽ tiết kiệm thời gian, đảm bảo tính công tâm, và đặc biệt là đảm bảo rất tốt chất lượng thẩm định. Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank) là ngân hàng đi tiên phong trong việc xây dựng mô hình này trên toàn hệ thống của mình.
Hình 2.1: Đề xuất sơ đồ quy trình thẩm định dự án đầu tư mới
Hồ sơ
(Khách hàng)
Nhận hồ sơ
(P. KHDN)
Thẩm định/ tái thẩm định
Thẩm định rủi ro
(P. thẩm định)
Y/cầu bổ sung
(Khách hàng, Phòng GD, điểm GD)
Tham gia thẩm định/ tái thẩm định
(P. khác)
thiếu đủ
Kiểm soát tờ trình thẩm định
Kiểm soát tờ trình thẩm định
rủi ro tín dụng
(P. thẩm định)
Xét duyệt cho vay (Người có thẩm quyền quyết định cho vay)
Trong thời gian trước mắt, chi nhánh nên chấn chỉnh lại để thực sự đảm bảo đúng theo quy trình thẩm định tiêu chuẩn của NHCT Việt Nam. Điều đó không gì khác ngoài mục đích nâng cao chất lượng thẩm định dự án trước cho vay, giảm thiểu rủi ro cho chi nhánh. Đó là: phải kiên quyết thực hiện phân công nhiệm vụ rõ ràng (phòng khách hàng doanh nghiệp và phòng quản lí rủi ro cùng thẩm định dự án đầu tư, trong đó phòng quản lí rủi ro thực hiện rủi ro tín dụng, phòng khách hàng doanh nghiệp thẩm định các nội dung theo quy định của NHCT Việt Nam).
Hoàn thiện phương pháp thẩm định
Như phần trên đã phân tích, do hệ thống tiêu chuẩn của NHCT Việt Nam không quy định các phương pháp thẩm định cần áp dụng khi tiến hành thẩm định dẫn đến việc sử dụng các phương pháp này phải dựa vào ý kiên chủ quan của cán bộ thẩm định. Vì vậy, NHCT Việt Nam nên bổ sung thêm quy định về việc áp dụng các phương pháp thẩm định trong khi thẩm định dự án đầu tư, vừa tạo ra sự thuận lợi trong việc áp dụng vừa đảm bảo tính khoa học và chất lượng thẩm định dự án khi cho vay. Ban đầu, quy định nên đưa vào các phương pháp thường được sử dụng như phương pháp thẩm định theo trình tự, phương pháp so sánh, phương pháp dự báo, phương pháp triệt tiêu rủi ro, đặc biệt là phương pháp phân tích độ nhạy.
Phân tích độ nhạy, ở một mức độ nào đó sẽ cho ta cái nhìn rõ hơn, chắc chắn hơn, với một mức độ rủi ro giả định là lớn nhất, dự á
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3438.doc