Chuyên đề Mô hình minh hoạ hiệu quả của Thông tin tín dụng Ngân hàng ở Việt Nam

Về khai thác thông tin tự động trên WebCIC thực hiện chưa được tốt, nguyên nhân do người sử dụng tin muốn có kết quả trả lời trực tiếp của người trả lời tin từ CIC.

Năm 2006, CIC đã cung cấp 1.935 bản thông tin về doanh nghiệp trong nước cho các Hãng thông tin nước ngoài như BOL, MECIB, ACP (tăng 42% so với năm 2005), cung cấp 850 bản thông tin về doanh nghiệp trong nước cho các tổ chức khác (tăng 65% so với năm 2005), làm dịch vụ 86 bản trả lời tin về doanh nghiệp nước ngoài cho các TCTD và tổ chức khác trong nước. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với đối tác nước ngoài nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả cho các sản phẩm dịch vụ thông tin. Năm 2006, CIC đã ký hợp đồng mới với hãng tin ACP (Đài Loan), thực hiện dịch vụ thông tin trực tiếp cho đối tác D&B thông qua chương trình Remote Dews trực tuyến thay vì qua đối tác trung gian (BOL - Thái Lan) như trước đây.

 

doc66 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1520 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mô hình minh hoạ hiệu quả của Thông tin tín dụng Ngân hàng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có dư nợ lớn hơn 5% vốn tự có tại TCTD; - Dư nợ theo vùng kinh tế; - Diễn biến giá vàng; - Diễn biến tỷ giá; - Diễn biến lãi suất huy động; - Diễn biến lãi suất cho vay; - Thông tin về một số doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam; - Danh sách doanh nghiệp đã XLTD trong từng kỳ; Những thông tin khai thác từng lần, gồm 5 loại như sau: (i) Bản thông tin tổng hợp theo một số tiêu thức, gồm: - Bản trả lời tin tổng hợp về khách hàng doanh nghiệp; - Bản trả lời tin tổng hợp về khách hàng cá nhân; - Bản trả lời tin về tài sản đảm bảo tiền vay; (ii) Bản thông tin phân tích, XLTD doanh nghiệp; (iii) Bản thông tin tài chính doanh nghiệp; (iv) Bản tin CIC thường kỳ, phát hành 2 số/tháng; (v) Bản báo cáo thông tin về doanh nghiệp nước ngoài; (4) Về thông tin nước ngoài Bên cạnh các nguồn tin trong nước, CIC chú trọng việc tăng cường hợp tác, mở rộng mối quan hệ với các cơ quan thông tin quốc tế. Hàng năm, CIC đều ký hợp đồng với D&B để thu thập thông tin về các doanh nghiệp nước ngoài có ý định quan hệ kinh tế với doanh nghiệp của Việt Nam hoặc chào cho vay những khoản ngoại tệ lớn. Qua thực hiện thấy rằng, việc ký kết hợp đồng thu thập thông tin với nước ngoài đã mở ra cho CIC có thêm nguồn thông tin đáng tin cậy, thông tin thu thập được đã phản ánh phần nào sự thật về hoạt động và thực trạng tài chính của doanh nghiệp nước ngoài có ý định vào hợp tác kinh doanh với Việt Nam, hoặc chào mời cho vay vốn, chào bán hàng hoá. Sau đây là một vài dẫn chứng cụ thể, từ 1995 đến 1999, theo yêu cầu của các NHTM, CIC đã thu thập được thông tin về 279 doanh nghiệp của nước ngoài, trong đó có 35 doanh nghiệp mời chào cho vay, mức thấp là 3 triệu USD và mức cao nhất là 3,6 tỷ USD, số còn lại là hoạt động thương mại. Qua điều tra thu thập cho thấy, trong số đó chỉ có 160 doanh nghiệp có đủ thông tin về pháp lý, tài chính, khả năng thanh toán, 119 doanh nghiệp còn lại lịch sử hoạt động không rõ ràng, chủ yếu là làm môi giới, lừa đảo, mục đích cuối cùng là xin chứng thư bảo lãnh của ngân hàng Việt Nam với điều kiện không huỷ ngang và được phép chuyển nhượng để làm công cụ bán lại trên thị trường nhằm hưởng phí dịch vụ. Từ năm 2000 đến nay, theo yêu cầu của NHTM, CIC đã thu thập được hơn 500 báo cáo thông tin. Trong thời gian qua việc thu thập thông tin về các đối tác nước ngoài có ý định vào làm ăn với Việt Nam đã góp phần đáng kể vào việc ngăn ngừa rủi ro khi quan hệ kinh tế, thương mại với nước ngoài. Về mức thu dịch vụ của hệ thống TTTD ngân hàng Việt Nam được áp dụng theo quyết định số 1669/2005/QĐ-NHNN, ngày 18/11/2005 của Thống đốc NHNN tại phụ lục số 02 đính kèm chuyên đề. b) Kết quả đạt được Việc hình thành hệ thống TTTD ngân hàng Việt Nam là một bước đi tất yếu phù hợp với tiến trình phát triển của hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường. Với nòng cốt hệ thống là CIC của NHNN, CIC được WB đánh giá là một tổ chức đăng ký tín dụng công hoạt động hiệu quả ở khu vực Châu Á. Hệ thống TTTD ngân hàng Việt Nam sẵn có tất cả các ưu điểm chung giống như các PRC khác, ngoài ra nó còn có những ưu điểm riêng có như: (i) Phù hợp với xu thế và thông lệ chung quốc tế trong hoạt động TTTD; (ii) Là một hệ thống của ngân hàng nên hiệu lực pháp lý trong ngành cao trong việc báo cáo và khai thác sử dụng thông tin; (iii) Do là hệ thống riêng của ngành ngân hàng, có tính bảo mật cao nên trong những trường hợp cần thiết NHNN có thể sử dụng công cụ này để thực hiện những cuộc điều tra khảo sát hoặc thực hiện những nhiệm vụ khác như: Thu thập báo cáo những khoản vay vượt quá 5%, 15% vốn tự có của từng TCTD giúp Thanh tra NHNN; Thu thập, lưu trữ, thông báo việc phát hành séc quá số dư, séc giả, séc khống...; Thu thập điều tra thông tin về doanh nghiệp nước ngoài phục vụ cho việc quản lý nhà nước; Điều tra đột xuất về rủi ro tín dụng; Khảo sát thông tin về các doanh nghiệp lớn của Việt Nam. Sau đây là tóm tắt một số nét về kết quả đã đạt được của nghiệp vụ báo cáo TTTD: Thứ nhất, thông tin chia sẻ gồm cả thông tin tích cực và thông tin tiêu cực, là nguồn thông tin rất quan trọng đối với NHNN đã giúp ích rất nhiều trong quản lý vĩ mô, giám sát hoạt động của TCTD và việc hoạch định, thực thi chính sách tiền tệ. Đối với TCTD nó một mặt góp phần ngăn ngừa hạn chế rủi ro tín dụng nhằm đảo bảo an toàn hệ thống, mặt khác với thông tin tích cực nó góp phần mở rộng thị phần, lựa chọn khách hàng tốt, giảm chi phí điều tra thông tin, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng, mở rộng tín dụng. Có thể nói đến nay không còn hiện tượng khách hàng có vấn đề nhưng vẫn đi vay ở nhiều ngân hàng cùng một lúc với số tiền lên đến hàng nghìn tỷ đồng như trường hợp Epco - Minh Phụng năm 1994. Thứ hai, đối tượng thu thập thông tin mở rộng ra khách hàng cá nhân, góp phần mở rộng tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, phân bổ nguồn tín dụng một cách công bằng và hợp lý. Đây là một mảng thị trường đầy tiềm năng đối với các TCTD mà trước đây vốn bị bỏ ngỏ. Từ đó góp phần mở rộng thị trường tín dụng chính thức và thu hẹp thị trường tín dụng không chính thức (tín dụng chợ đen, cho vay nặng lãi…) mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Thứ ba, TTTD giúp giảm tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng. Thực tế chứng minh tỷ lệ nợ xấu của các NHTM Cổ phần là thấp hơn so với các NHTM Nhà nước một phần là do các NHTM Cổ phần thực hiện nghiêm túc việc cung cấp và khai thác sử dụng TTTD tại CIC trong thời gian vừa qua. Thứ tư, TTTD góp phần làm thay đổi dần văn hóa tín dụng và nâng cao đạo đức kinh doanh của cả người vay và người cho vay. Vì người vay có ý định lừa đảo đã biết rằng ngân hàng có một hệ thống TTTD nên khó mà lừa đảo được. Thực tế là hiện tượng lừa đảo, một tài sản thế chấp vay nhiều nơi, vay TCTD này để trả TCTD khác đã bị phanh phui từ đó làm nản lòng những ý định xấu trong thị trường tín dụng. Ví dụ Lã Thị Kim Oanh, nguyên Giám đốc Công ty Đầu tư và Phát triển nhà thuộc Bộ Nông nghiệp &Phát triển nông thôn dùng tài sản đảm bảo tiền vay là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thế chấp tại 3 ngân hàng. Cả 3 ngân hàng đều không có thông tin về khách hàng này, do vậy đã cho vay vốn, dẫn đến rủi ro. Nhưng với một hệ thống TTTD tốt thì chắc chắn điều này không thể xảy ra. Về phía người cho vay, cũng có nhiều trường hợp cán bộ tín dụng vay ké, hoặc giúp khách hàng lập chứng từ khống vay ở nhiều ngân hàng, khai gian số Chứng minh thư và địa chỉ để chia nhỏ khoản vay, nhằm trốn tránh sự phát hiện. Nhưng thông qua TTTD đã phanh phui nhiều vụ việc, từ đó đã làm thay đổi dần ý thức, giảm bớt rủi ro từ phía người cho vay. Thứ năm, thiết lập được hệ thống thông tin ngày càng mở rộng với đầu mối là CIC, NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố và các TCTD. Hệ thống TTTD đến nay đã theo dõi được khoảng 80% số dư nợ cho vay nền kinh tế với 5.443.663 hồ sơ khách hàng đang có quan hệ tín dụng tại các TCTD. Tổng dư nợ thu thập được là 443.227 tỷ VNĐ và trên 9.203 tỷ USD (tính đến thời điểm cuối năm 2006). Thứ sáu, chất lượng thông tin ngày càng được nâng cao. Năm 2006 hoạt động cung cấp thông tin của CIC đã được đẩy mạnh, bình quân hàng ngày CIC trả lời khoảng 400 lượt thông tin. Chất lượng các bản trả lời thông tin ngày càng tăng, thông tin phong phú hơn, số liệu chính xác hơn, thời gian cung cấp nhanh hơn. Đồng thời định kỳ (5ngày/lần) CIC báo cáo Thống đốc và cung cấp cho Thanh tra NHNN thông tin về doanh nghiệp có tổng dư nợ lớn hơn 5% và 15% vốn tự có của TCTD. CIC đã chú trọng áp dụng công nghệ trong trả lời tin thông qua Web-CIC, trong đó có áp dụng hình thức trả lời tin tự động, do đó tiết kiệm được thời gian, chi phí cho các TCTD. Năm 2006, CIC đã cung cấp 104.121 bản trả lời tin cho các TCTD, tăng 69% so với cùng kỳ năm 2005, tăng 44% so với kế hoạch năm 2006. Bảng 1.3 - Kết quả cung cấp thông tin năm 2006 Đơn vị tính: lượt bản tin Loại thông tin Thực hiện năm 2005 lượt bản tin Thực hiện năm 2006 lượt bản tin Tăng, giảm so với năm 2005(%) Bản trả lời tin cho các TCTD 61.808 104.121 69 % Dịch vụ thông tin 1.672 2.871 71 % Bản tin TTTD 1.560 1.900 22 % Khai thác trực tiếp trên WebCIC 49.941 104.121 108% Nguồn : Trung tâm thông tin tín dụng Nói chung việc hỏi tin của các TCTD đã tăng đều qua các năm, bình quân mỗi năm tăng 50%. Điều này cho thấy các TCTD đã thực sự quan tâm khai thác TTTD để phục vụ hoạt động tín dụng, nhằm ngăn ngừa rủi ro. Bảng 1.4 - Kết quả cung cấp thông tin từ năm 2004 đến năm 2006 Đơn vị tính: lượt bản tin Loại thông tin cung cấp ra Năm 2004 lượt bản tin Năm 2005 lượt bản tin Năm 2006 lượt bản tin Trả lời qua Web-CIC 21.156 61.808 104.121 Lượt truy cập Web-CIC 154.248 357.589 1.645.040 Trả lời tin về doanh nghiệp nước ngoài 40 59 86 Dịch vụ thông tin 422 1.672 2.871 Bản tin CIC (bản/số) 1.300 1.560 1.900 Nguồn : Trung tâm thông tin tín dụng Việc khai thác sử dụng TTTD đã tăng lên khá nhiều, nhưng không đồng đều giữa các loại hình TCTD, giữa các vùng, miền. Qua số liệu thống kê có thể thấy khối các NHTM Cổ phần rất tích cực khai thác thông tin, chiếm tới 71,4% trong tổng số hỏi tin năm 2006. Trong khi các NHTM Nhà nước, chiếm thị phần tín dụng rất lớn thì hỏi tin chỉ chiếm 23,7%, chỉ bằng khoảng 1/3 số hỏi tin của NHTM Cổ phần. Bảng 1.5 - Cung cấp thông tin phân theo loại hình TCTD Đơn vị tính : triệu VND TCTD Số bản cung cấp thông tin 2005 Số bản cung cấp thông tin 2006 Tỉ trọng trên Tổng trả lời tin (%) Dư nợ đến 31/12/2006 triệu VND NHTM Nhà nước 16.840 24.713 23,7% 413.807.725 NHTM Cổ phần Đô thị 40.517 74.295 71,4% 111.947.977 NHTM Cổ phần Nông thôn 312 767 0,7% 2.408.451 Công ty Tài chính, cho thuê Tài chính 620 994 1,0% 4.296.184 Ngân hàng Liên doanh 156 390 0,4 5.594.274 CNNH nước ngoài 534 1.946 1,9 52.423.014 CNNH Nhà nước, Tổ chức khác 2.829 1.016 1,0 0 Tổng cộng 61.808 104.121 100 590.477.626 Nguồn : Trung tâm thông tin tín dụng Phân tích theo vùng, miền cho thấy các TCTD ở phía Nam hỏi tin nhiều hơn, chiểm tỷ trọng 73,5%, trong khi các TCTD ở phía Bắc hỏi tin chỉ chiếm 26,5% trên tổng số hỏi tin. Tương tự như vậy, các TCTD tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng hỏi tin nhiều gần gấp đôi so với các TCTD tại địa bàn Hà Nội. Tỉ lệ tăng hỏi tin của các TCTD trên địa bàn Hà Nội và TPHCM lần lượt là 56,2% và 48,9%. Tuy nhiên tính theo hai miền Nam và Bắc thì tỉ lệ tăng trưởng của Miền Nam là 79,5% trong khi tỉ lệ tăng của Miền Bắc là 43,8%. Điều này cho thấy các chi nhánh TCTD trên địa bàn các tỉnh phía Nam đã quan tâm đến khai thác sử dụng TTTD hơn các chi nhánh TCTD trên địa bàn các tỉnh phía Bắc. Bảng 1.6 - Cung cấp thông tin tại Hà Nội và TP. HCM năm 2006 Đơn vị tính : triệu VND Thành phố Số bản trả lời tin 2005 Số bản trả lời tin 2006 Tăng, giảm so với 2005 (%) Dư nợ đến 31/12/2006 triệu VND TP Hà Nội 16.265 25.417 56,2% 126.137.698 TP HCM 29.425 43.810 48,9% 195.539.257 Tổng cộng 45.690 69.227 51,5% 321.676.955 Nguồn : Trung tâm thông tin tín dụng Bảng 1.7 - Số liệu hỏi tin phân theo vùng, miền năm 2006 Khu vực Số bản trả lời tin 2005 Số bản trả lời tin 2006 Tăng, giảm so với 2005 (%) Khu vực phía Bắc từ Huế trở ra 19.183 27.589 43,8% Khu vực phía Nam từ Huế vào 42.625 76.532 79,5% Tổng cộng 61.808 104.121 68,5% Nguồn : Trung tâm thông tin tín dụng Về khai thác thông tin tự động trên WebCIC thực hiện chưa được tốt, nguyên nhân do người sử dụng tin muốn có kết quả trả lời trực tiếp của người trả lời tin từ CIC. Năm 2006, CIC đã cung cấp 1.935 bản thông tin về doanh nghiệp trong nước cho các Hãng thông tin nước ngoài như BOL, MECIB, ACP (tăng 42% so với năm 2005), cung cấp 850 bản thông tin về doanh nghiệp trong nước cho các tổ chức khác (tăng 65% so với năm 2005), làm dịch vụ 86 bản trả lời tin về doanh nghiệp nước ngoài cho các TCTD và tổ chức khác trong nước. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với đối tác nước ngoài nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả cho các sản phẩm dịch vụ thông tin. Năm 2006, CIC đã ký hợp đồng mới với hãng tin ACP (Đài Loan), thực hiện dịch vụ thông tin trực tiếp cho đối tác D&B thông qua chương trình Remote Dews trực tuyến thay vì qua đối tác trung gian (BOL - Thái Lan) như trước đây. c) Những tồn tại và nguyên nhân Tồn tại Có thể tập trung các tồn tại đối với nghiệp vụ báo cáo TTTD như sau: Một là, thu thập dữ liệu đầu vào chưa tốt, chủ yếu mới thu thập được thông tin dư nợ, còn các thông tin về tài chính, phi tài chính, tình hình tài sản đảm bảo, bảo lãnh, tình hình tài chính của khách hàng vay thì thu thập chưa bảo đảm yêu cầu. Việc phối hợp với các bộ, ngành như cơ quan cấp phép thành lập doanh nghiệp, cơ quan thuế, cơ quan tư pháp...chưa tốt nên chưa có đủ dữ liệu đầu vào cần thiết cho TTTD. Hai là, Việc xử lý thông tin nhìn chung còn đơn điệu, chưa có các kinh nghiệm phân tích tiên tiến, chưa có các hoạt động gia tăng như chấm điểm tín dụng, thông tin cảnh báo, thông tin khách hàng có hiện tượng gian lận, khách hàng vi phạm tín dụng, thanh toán... Ba là, sản phẩm cung cấp ra còn nghèo nàn, tuy đã thiết kế được 22 sản phẩm, nhưng thực tế mới đáp ứng được khoảng 10 sản phẩm có chất lượng, có tính cập nhật. Chưa có sản phẩm đặc thù phục vụ riêng cho yêu cầu của từng loại hình TCTD. Bốn là, chưa triển khai đầy đủ, đúng nghĩa báo cáo TTTD tiêu dùng, nhất là chưa có thông tin về khách hàng tín dụng thẻ, trong khi hoạt động này đang phát triển mạnh và nhu cầu thông tin để phòng ngừa rủi ro rất lớn. Năm là, đối tượng được phép sử dụng TTTD bị thu hẹp trong phạm vi ngành ngân hàng, ngoài ra các tổ chức và cá nhân khác có nhu cầu chưa được tiếp cận sử dụng TTTD. Quyền lợi cá nhân của các khách hàng có hồ sơ tại kho dữ liệu TTTD chưa được đảm bảo. Họ chưa được phép tiếp cận và sửa đổi nguồn thông tin sai lệch trong bộ hồ sơ của mình. Nguyên nhân Có nhiều nguyên nhân làm cho hoạt động nghiệp vụ báo cáo TTTD còn nhiều bất cập, trong đó có một số nguyên nhân chính sau đây: - Chưa có sự phối hợp của các bộ ngành trong việc chia sẻ thông tin dẫn đến khó khăn trong việc kiểm tra, kiểm soát chất lượng thông tin đầu vào. - Tính công khai, minh bạch hóa hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam chưa cao, chế độ báo cáo tài chính doanh nghiệp còn nhiều bất cập, chưa có chế tài cụ thể cho những trường hợp vi phạm, hoạt động kiểm toán, kiểm soát nội bộ chưa phát triển, ý thức của doanh nghiệp trong việc báo cáo tài chính chưa cao, có khi doanh nghiệp có tới hai bảng cân đối kế toán để sử dụng cho những mục đích khác nhau. Để dễ tiếp cận với nguồn tín dụng, các doanh nghiệp đã lập các Báo cáo tài chính ma, có số liệu sai lệch thực tế. - Chưa chú trọng đến khâu tuyên truyền, quảng bá sản phẩm TTTD, đặc biệt là lợi ích hoạt động TTTD trong việc hạn chế và ngăn ngừa rủi ro. - Các TCTD chưa thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo thông tin và khai thác sử dụng thông tin góp phần hạn chế rủi ro cho hoạt động tín dụng. - Chưa có một hệ thống mã khách hàng chuẩn thống nhất trong toàn quốc, góp phần tạo thuận lợi và rút ngắn thời gian tìm kiếm thông tin về khách hàng tại các tổ chức, cơ quan, bộ ngành khác nhau. - Chưa chú trọng đến khâu nghiên cứu và phát triển sản phẩm TTTD dựa vào nhu cầu của người sử dụng. - Chưa có một chế tài cụ thể với những trường hợp vi phạm chế độ báo cáo, khai thác và sử dụng TTTD góp phần hạn chế và ngăn ngừa rủi ro của các TCTD. - Nguồn nhân lực tại các cơ quan trong hệ thống TTTD ngân hàng Việt Nam còn thiếu cả về số lượng và yếu về trình độ chuyên môn và các khả năng phụ trợ khác cho công việc (Ngoại ngữ, tin học…), chính điều này làm cho việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin những năm qua còn nhiều hạn chế. 1.2.4.2. Nghiệp vụ XLTD doanh nghiệp a) Tình hình thực hiện tại Trung tâm thông tin tín dụng Do đòi hỏi bức xúc của thực tiễn hoạt động tín dụng, nghiệp vụ XLTD doanh nghiệp của hệ thống TTTD ngân hàng Việt Nam đã hình thành, đi vào hoạt động từ 2002. Tiên phong trong nghiệp vụ này là CIC. Từ năm 2000, CIC đã xây dựng đề án XLTD doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng, đã tổ chức hội thảo lấy ý kiến tham gia của các vụ, cục, TCTD và một số nhà khoa học trong ngành và trình Thống đốc cho phép áp dụng thí điểm. Ngày 24/01/2002 Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 57/2002/QĐ-NHNN về việc cho phép CIC triển khai thí điểm đề án phân tích, XLTD doanh nghiệp trong thời gian 2 năm. Sau thí điểm Thống đốc đã ban hành Quyết định số 473/QĐ-NHNN ngày 28/4/2004 phê duyệt đề án phân tích, XLTD doanh nghiệp. Việc XLTD tiến hành tương đối đều, hàng năm CIC đã xếp loại được khoảng 3000 doanh nghiệp. Ngoài việc trả lời tin theo yêu cầu của NHTM, kết quả xếp loại được đăng tải liên tục trên Bản tin TTTD thường kỳ của CIC. Tóm tắt các bước tiến hành XLTD doanh nghiệp tại CIC thực hiện theo Quyết định số 1253/QĐ-NHNN ngày 21/06/2006 của Thống đốc NHNN về thực hiện phân tích, xếp hạng tín dụng doanh nghiệp như sau: Bước 1 - Thu thập thông tin Bước 2 - Phân loại doanh nghiệp theo ngành, bao gồm: Trồng trọt, chăn nuôi; Chế biến các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp; Xây dựng; Thương mại hàng hoá; Dịch vụ; Công nghiệp năng lượng (điện, than, dầu khí); Công nghiệp chế tạo; Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Bước 3 - Phân loại doanh nghiệp theo quy mô: Những tiêu thức cơ bản xác định quy mô doanh nghiệp gồm: Nguồn vốn kinh doanh; Lao động; Doanh thu thuần; Nộp ngân sách Nhà nước. Bước 4 - Xây dựng các chỉ tiêu phân tích cơ bản: * Các chỉ tiêu tài chính bao gồm: Các chỉ tiêu thanh khoản: Khả năng thanh toán ngắn hạn; Khả năng thanh toán nhanh Các chỉ tiêu hoạt động: Luân chuyển hàng tồn kho; Kỳ thu tiền bình quân; Hiệu quả sử dụng tài sản. Các chỉ tiêu về cân nợ: Nợ phải trả/tài sản; Nợ phải trả/ vốn chủ sở hữu; Nợ quá hạn/Tổng dư nợ ngân hàng Các chỉ tiêu về thu nhập: Tổng thu nhập trước thuế/Doanh thu; Tổng thu nhập trước thuế/Tổng tài sản có; Tổng thu nhập trước thuế/Nguồn vốn. * Các chỉ tiêu phi tài chính bao gồm 3 chỉ tiêu là trình độ, số năm kinh nghiệm của giám đốc và số năm hoạt động của doanh nghiệp. Bước 5 - Xây dựng bảng tính điểm theo quy mô, theo ngành kinh tế Bước 6 - Tổng hợp kết quả tính điểm, căn cứ vào hệ số của các chỉ tiêu, đối chiếu với bảng điểm để tính điểm cho từng doanh nghiệp. Bước 7- Đưa ra hệ thống XLTD doanh nghiệp (gồm 9 loại) Bước 8 - Áp dụng kỹ thuật tin học để tính toán, XLTD doanh nghiệp Bước 9 - So sánh kết quả XLTD doanh nghiệp qua các năm; Đưa ra một số nhận xét về điểm mạnh, yếu của doanh nghiệp, kiến nghị đề xuất. Tại Quyết định số 1253/QĐ-NHNN có một số điểm mới là đã tiến hành phân loại thành 8 ngành thay cho 4 ngành kinh tế và sản phẩm xếp loại được phép công bố cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Như vậy sau 4 năm thực hiện, nghiệp vụ XLTD doanh nghiệp tại CIC đã trải qua 3 giai đoạn chính là thí điểm, xếp loại theo 4 ngành và đến nay xếp loại theo 8 ngành kinh tế, từ chỗ chưa phân tích các chỉ tiêu phi tài chính đã từng bước bổ sung để đưa vào các chỉ tiêu phi tài chính nhằm bảo đảm kết quả xếp loại ngày càng hoàn thiện và phản ảnh sát thực hơn về khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn. b) Tình hình thực hiện tại các NHTM Do đòi hỏi từ thực tế trong quá trình đổi mới hoạt động của các NTHM, vì vậy khi các NHTM xây dựng ‘sổ tay tín dụng’ đã đưa nghiệp vụ XLTD vào phục vụ thực tiễn cho hoạt động tín dụng. Có thể nói đây là lần đầu tiên ở Việt Nam, các NHTM đã xây dựng được một mô hình XLTD doanh nghiệp tương đối hoàn chỉnh, một bước đi mạnh dạn trong việc phát triển và tiếp cận với các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại nhằm tiến tới hội nhập về công nghệ ngân hàng. Phương pháp XLTD đã học tập kinh nghiệm của CIC, của một số nước và dần theo thông lệ chung của quốc tế. Trên cơ sở tham khảo phương pháp xếp loại của NHTM Nhà nước đã đưa ra trong sổ tay tín dụng và đang áp dụng trong thực tiễn, có thể thấy rằng việc XLTD tại các NHTM được thực hiện trên nguyên tắc điểm ban đầu và điểm tổng hợp. Điểm ban đầu là điểm của từng tiêu chí chấm điểm tín dụng, người thực hiện xác định được sau khi phân tích tiêu chí đó. Điểm tổng hợp bằng điểm ban đầu nhân với trọng số. Trọng số là mức độ quan trọng của tiêu chí chấm điểm (chỉ tiêu tài chính hoặc phi tài chính) xét trên góc độ tác động rủi ro tín dụng. Qui trình, nội dung và phương pháp XLTD doanh nghiệp tại các NHTM, nhìn chung được áp dụng tương đối giống phương pháp của CIC, được chia thành 7 bước như sau: Thu thập thông tin; Phân loại doanh nghiệp theo ngành kinh tế; Chấm điểm qui mô doanh nghiệp; Chấm điểm các chỉ tiêu tài chính; Chấm điểm các chỉ tiêu phi tài chính; Tổng hợp điểm và xếp loại doanh nghiệp; Ứng dụng kết quả xếp loại doanh nghiệp. Ch­¬ng ii M« h×nh minh ho¹ t¸c dông vµ lîi Ých cña th«ng tin tÝn dông ng©n hµng ë viÖt nam TTTD ở Việt Nam là một lĩnh vực còn mới mẻ nhưng tầm quan trọng của nó là rất lớn. Việc sử dụng kinh tế lượng vào việc xây dựng mmô hình để từ đó phân tích vai trò và lợi ích của thông tin tín dụng là rất cần thiết, đảm bảo cho quá trình đổi mới và hoạt động ngành ngân hàng, bảo đảm sự an toàn, ngăn ngừa rủi ro, phát triển bền vững hệ thống ngân hàng Việt nam để phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp phát triển nền kinh tế đất nước trong thời kỳ bước vào ngưỡng cửa của nền kinh tế tri thức. 2.1. Giả thiết mô hình bài toán Xét bể vay của một nhóm người vay tiềm năng được định nghĩa bởi В º {1,2,…,n}, được chỉ tiêu hoá theo thứ tự phân bổ đồng đều của những tài sản hữu ích đầu tiên của người vay có hệ số ki ở đây iÎ В, trong đó ki+1 – ki =x, tức là: x = , k1 ứng với còn kn ứng với . Trong mỗi người vay iÎ В, coi quy mô khoản vay là Vi và lãi suất của khoản vay trong khu vực cho vay chính thức là ri, khoản vay sẽ mang lại khoản lợi nhuận thấp là âVi, với xác suất pi(ki,Vi) với β Vi(1+ri) hay ( > 1+ri ) với xác suất là 1 - pi(ki,Vi). Xác suất của lợi nhuận thấp, trong đó người vay buộc phải không trả được 1- β khoản vay, sẽ giảm xuống trong ki(pk 0), ở đây ta coi β = âVi/Vi, và = /Vi. Cần chú ý rằng những người cho vay thích cho vay những khoản vay lớn với nhiều rủi ro hơn vì họ sẽ đưa ra một mức lãi suất để đạt được trạng thái cân bằng nợ cao hơn, sự tăng quy mô của các khoản vay sẽ không dẫn đến sự tăng xác suất trả được nợ. Để đơn giản ta thừa nhận rằng pv > 0 và pk < 0 là hiển nhiên và pi = + pvVi + pkki, trong đó , pv, pk là xác suất vỡ nợ trung bình, xác suất tăng giảm quy mô khoản vay, xác suất tăng giảm hệ số tài sản đảm bảo. Chi phí lãi suất đối với khu vực tài chính chính thức là c và đối với mỗi khoản vay sẽ phát sinh ra một mức chi phí hành chính cố định cơ bản là F. 2.2. Mô hình bài toán Từ giả thiết trên ta có lợi nhuận của những người vay i là: =(1 - pi)( - (1 + ri))Vi Lợi nhuận của những người cho vay từ bất cứ người vay i nào là: = (1 - pi)(1+ ri)Vi + piβVi - (1+ c)Vi - F (1) Hình dáng đường iso-lợi nhuận của người cho vay sẽ cong trong khoảng{Vi,ri}, chúng ta lấy vi phân toàn phần của công thức (1) đối với Vi và ri để thu được: (2) Trong khu vực cho vay chính thức, nếu dự án của người vay thất bại khi đánh giá tín dụng với khoản vay có quy mô Vi với lãi suất ưu đãi ri < thì người vay có thể chấp nhận phương án dự án không có lãi bằng cách trả cho người cho vay cả βVi và những lợi nhuận tương lai của dự án. Cùng với việc được đặc trưng hoá bởi cấp độ của những tài sản hữu ích, mỗi người vay i lại còn được đặc định hoá bởi hệ số thời gian ưu đãi cá nhân ti trong khoảng thời gian cho vay mà lợi nhuận tương lai sẽ được khấu trừ. Chúng ta giả định rằng những người vay không trả được nợ sẽ không được vay bất cứ một khoản tiền nào nữa trong tương lai, và vì vậy lợi nhuận được khấu trừ đối với mỗi người vay i sẽ được tính bằng công thức: (3) Bằng cách lấy vi phân toàn phần hàm số lợi nhuận của người vay i đối với Vi và ri, chúng ta sẽ thấy được độ dốc của đường cong iso-lợi nhuận của nhóm người vay i trong khoảng {Vi, ri}: (4) Lưu ý rằng độ dốc của đường cong iso-lợi nhuận của người cho vay là nghịch đảo với giá trị của ) . Ngược lại, đường cong iso- lợi nhuận của người vay lại là đồng thuận với Vi , hay người vay sẽ bị mất tiền trong trường hợp xấu. Giả sử tình trạng cạnh tranh Bertrand tồn tại giữa những người vay sẽ giảm tại điểm cân bằng về nợ đối với người vay i. Tình trạng cân bằng sẽ xảy tại điểm tiếp xúc giữa đường iso-lợi nhuận của người vay và đường iso-lợi nhuận của người cho vay khi , phụ thuộc vào hệ số thời gian ưu đãi của người vay, xem trong đồ thị 2.01. Đồ thị 2.01 - Cân bằng nợ đối với người vay Vi Bây giờ chuyên đề đi xem xét những người vay không kiên nhẫn với hệ số thời gian ưu đãi "rất cao". Những người vay như vậy hầu như không đặt nặng vấn đề rủi ro gắn với những khoản vay khá lớn so với giá trị tài sản của anh ta khi đánh giá về tín dụng trong tương lai. Cụ thể, xem xét một người vay có tài sản đầu tiên là ki nhưng có hệ số ti đủ cao để khiến cho khoản lợi nhuận kỳ vọng (sau khi đã trừ hao) từ hợp đồng cân bằng đối với một khoản vay duy nhất sẽ nhỏ hơn hoặc bằng với khoản lợi nhuận anh ta sẽ kiếm được từ việc vay thành nhiều khoản vay nhỏ hơn. Điều này sẽ xảy ra nếu lãi suất đối với mỗi khoản vay nhỏ thấp hơn lãi suất đối với một khoản vay lớn. Để thấy rõ hơn về tác dụng và lợi ích của thông tin tín dụng, ta xem xét đến hệ số hợp tác a phản ánh khả năng của m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK3045.DOC
Tài liệu liên quan