Đề tài Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam những năm gần đây

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 3

CHƯƠNG I 4

CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LẠM PHÁT 4

1.1 Các khái niệm về lạm phát 4

1.1.1 Khái niệm lạm phát 4

1.1.2 Các chỉ số liên quan đến lạm phát 4

1.2 Phân loại lạm phát 5

1.2.1 Căn cứ vào định lượng gồm: 5

1.2.2 Căn cứ vào định tính: 6

1.3 Nguyên nhân lạm phát 7

1.3.1 Lạm phát do cầu kéo 7

1.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy 8

1.3.3 Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục 8

1.3.4 Các nguyên nhân khác 10

1.4 Hậu quả và những biện pháp khắc phục 11

1.4.1 Hậu quả của lạm phát 11

1.4.2. Những biện pháp khắc phục lạm phát 12

CHƯƠNG II 14

THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 14

2.1 Khái quát tình hình lạm phát ở Việt Nam từ trước năm 1986 đến 2006 14

2.1.1 Tình hình lạm phát ở Việt Nam trước những năm 1986 14

2.1.2 Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1986 – 2005 16

2.1.3 Các nguyên nhân chính 17

2.2 Lạm phát những năm 2007 – 2009 20

2.3 Tình hình lạm phát hiện nay đang trở nên vô cùng cấp bách 23

2.4 Tác động của lạm phát đối với kinh tế xã hội 26

CHƯƠNG III 30

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ LẠM PHÁT HIỆN NAY 30

KẾT LUẬN 32

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 33

 

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12065 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư vào một lĩnh lực kinh doanh nào đó … Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng được cân bằng cung cầu trên thị trường hang hoá không còn nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao, từ đó lạm phát sẽ xảy ra .Có thể thấy giá cả tăng lên làm tiêu dùng tăng, cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát.Thứ hai thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát cao. Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc phục bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ để vay vốn từ người dân nhằm bù đắp phần thiếu hụt .Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền và do vậy mà làm tăng mức cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát. Tuy nhiên khi sự thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng biện pháp in tiền.Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm tăng mức cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát.Tuy nhiên,đối với các nước đang phát triển ,việc phát hành trái phiếu chính phủ gặp nhiều khó khăn vì nguồn vốn trên thị trường còn hạn chế. Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả nhất .Vì thế mà khi thâm hụt ngân sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo và tỷ lệ gây lạm phát càng lớn. Còn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc phát hành trái phiếu có lợi hơn. Nhưng việc phát hành này kéo dài sẽ làm cầu về vốn sẽ tăng và lãi xuất tăng cao hơn .Lúc này để giảm lãi xuất trên thị trưòng Ngân hàng Trung ương lại phải mua vào các trái phiếu đó .Như thế mức cung tiền lại tăng lên và dễ gây lạm phát. Tóm lại, nếu như thâm hụt ngân sách kéo dài thì trong mọi trường hợp vẫn làm tăng cung tiền và lạm phát xảy ra là một điều chắc chắn. Một nguyên nhân nữa có thể gây ra lạm phát là tỷ giá hối đoái .Khi tỷ giá tăng đồng bản tệ sẽ bị mất giá Khi đó tâm lý những người sản xuất trong nước muốn đẩy giá hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái .Mặt khac khi tỷ giá hối đoái tăng, chi phí cho các nguyên vật liệu, hàng hoá nhập khẩu sẽ tăng lên. Do đó giá cả của các hàng hoá này tăng lên cao.Đây chính là lạm phát do chi phí đẩy. Bên cạnh đó các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước, chính sách thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý, mất cân đối cũng xảy ra lạm phát. 1.4 Hậu quả và những biện pháp khắc phục 1.4.1 Hậu quả của lạm phát Trong lĩnh vực kinh doanh: Trong điều kiện lạm phát ở mức độ cao, gía cả hang hóa bị tăng liên tục, điều này làm cho sản xuất gặp khó khăn. Qui mô sản xuất không tăng hoặc bị giảm sút do nhu cầu phải bổ sung vốn đầu tư liên tục. Cơ cấu nền kinh tế dễ bị mất cân đối vì sẽ có xu hướng phát triển những ngành sản xuất có chu kỳ ngắn hạn, thời gian thu hồi vốn nhanh, còn những ngành sản xuất có chu kỳ dài, thời gian thu hồi vốn chậm sẽ có xu hướng bị đình đốn, phá sản. Vì vậy trong điều kiện có lạm phát, lãnh vực thương nghiệp thường phát triển mạnh. Bên cạnh đó việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh không còn chính xác vì thước đo của đồng tiền bị thu hẹp, công tác hạch toán chỉ còn là hình thức. Trong lĩnh vực thương mại: Người ta từ chối tiền giấy trong vai trò là trung gian trao đổi đồng thời chuyển sang đầu cơ tích trữ vàng, hang hóa đẩy khỏi tay mình những đồng tiền mất giá. Điều này càng làm cho lưu thong tiền tệ bị rối loạn. Lạm phát xảy ra còn môi trường tốt để những hiện tượng tiêu cực trong đời sống phát sinh như đầu cơ, tích trữ gây cung – cầu hàng hóa giả tạo… Trong lĩnh vực về tiền tệ tín dụng: Tín dụng cũng bị rơi vào khủng hoảng khi người dân không an tâm đầu tư trong điều kiện lạm phát gia tăng. Lạm phát làm sức mua của đồng tiền bị giảm, lưu thông của tiền tệ diễn biến khác thường, tốc độ lưu thông của thị trường tăng lên một cách đột biến hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng do nguồn tiền gửi trong xã hội bị sụt giảm nhanh chóng, nhiều ngân hành bị phá sản do mất khả năng thanh toán và thô lỗ trong kinh doanh dẫn đến hệ thống tiền tệ bị rối loạn không thể kiểm soát nổi. Trong lĩnh vực tài chính nhà nước: Tuy lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập cho NSNN qua cơ chế phân phối lại sản phẩm và thu nhập qốc dân nhưng do ảnh hưởng nặng nề của lạm phát mà những nguồn thu của NSNN ( chủ yếu là thuế ) ngày càng bị giảm do sản xuất bị sút kém, do nhiều công ty xí nghiệp bị phá sản, giải thể… Trong lĩnh vực đời sống xã hội: đại bộ phận tầng lớp dân cư sẽ rất khó khăn và chật vật do phải chịu áp lực từ sự gia tăng của giá cả. Giá trị thực tế của tiền lương giảm sút nghiêm trọng dẫn trật tự an toàn xã hội bị phá hoại nặng nề. Như vậy lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sống kinh tế xã hội và nhà nước phải cân bằng được giữa nhu cầu khuyến khích tăng trưởng kinh tế và sự đòi hỏi phải kiểm soát được lạm phát. 1.4.2. Những biện pháp khắc phục lạm phát Thời kỳ các nước còn áp dụng chế đọ lưu thông tiền kim loại tùy theo mức độ mất giá của tiền giấy mà sẽ áp một trong ba biện pháp: Biện pháp loại bỏ tiền giấy không bồi hoàn ( Annulation ). Biện pháp khôi phục ( Rest Ration ). Biện pháp phá giá tiền tệ ( Devaluation ). Ngày nay trong thời đại lưu thông tiền giấy bất khả hoán, căn bệnh lạm phát hầu như là hiện tượng tất yếu ở các nước chỉ khác nhau ở mức độ cao, thấp. Trải qua lịch sử lạm phát hầu như chưa có ở nước nào có thể dập tắt hoàn toàn lạm phát mà vấn đề cần duy trì lạm phát ở mức độ vừa phải. Tuy nhiên, khi lạm phát tăng ở mức độ phi mã hoặc siêu lạm phát thì lạm phát không còn được xem là công cụ điều tiết kinh tế nữa mà nhà nước cần áp dụng những biệ pháp nhằm kiềm chế và đẩy lùi lạm phát sao cho thích ứng trong từng giai đoạn, tình huống của nền kinh tế. Nhìn chung, trong cơ chế thị trường những giải pháp chống lạm phát là rất đa dạng chúng ta có thể nêu lên một số giải pháp cơ bản sau: Biện pháp cơ bản chiến lược: Nhà nước cần xây dựng chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn nhằm tạo động lực cho sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển. Đây là tiền đề vững chắc để ổn định lưu thông tiền tệ góp phần đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng và suy thoái. Nhà nước cần xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Phát triển ngành mũi nhọn xuất khẩu. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế nhằm thúc đẩy các nhu cầu cơ bản của đời sống kinh tế xã hội và việc làm của nhân dân lao động. Nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước bằng các công cụ vốn có như luật pháp, các công cụ tài chính, tiền tệ, giá cả…để tác động đến mọi mặt hoạt động của nền kinh tế xã hội, do đó việc nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước. Được coi là biện pháp mang tính chất chiến lược để ổn định tiền tệ, tinh giản biên chế và cải cách hành chính. Nhà nước cần chống thâm hụt ngân sách. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 2.1 Khái quát tình hình lạm phát ở Việt Nam từ trước năm 1986 đến 2006 2.1.1 Tình hình lạm phát ở Việt Nam trước những năm 1986 Từ năm 1980 trở về trước, lạm phát đã tồn tại nhưng không công khai, các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam không sử dụng khái niệm lạm phát mà chỉ sử dụng các cụm từ “chênh lệch giữa thu và chi, giữa hàng và tiền”, “thị trường vật giá không ổn định...”. Hay nói cách khác, lạm phát trong giai đoạn này là “lạm phát ngầm”. Do cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước có vai trò định giá cho hầu hết các sản phẩm và dịch vụ lưu thông trên thị trường. Thời kỳ 1938-1945: Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền thực dân Pháp đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để vơ vét của cải nhân dân Việt Nam nhằm đem về Pháp đóng góp cho cuộc chiến tranh chống phát xít Đức. Hậu quả nặng nề của lạm phát là nhân dân Việt Nam phải chịu giá sinh hoạt từ năm 1939-1945 bình quân là 25 lần. Thời kỳ 1946-1954: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay cho đồng Đông Dương và sau đó là đồng ngân hàng thay cho sức người, sức của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp, kết quả giải phóng hoàn toàn nửa đất nước. Thời kỳ 1955-1965: Chính phủ tay sai Mỹ ở miền Nam Việt Nam liên tục lạm phát đồng tiền miền Nam để bù lại cuộc chiến tranh chống lại phong trào giải phóng dân tộc ở miền Nam. Mặc dù chính phủ Mỹ đổ vào miền Nam một khối lượng hàng viện trợ khổng lồ với giá trị hàng trăm tỉ đô la nhưng cũng không thể bù đắp được chi phí bỏ ra. Thời kỳ 1965-1975 : Ở miền Bắc Việt Nam, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, chống chiến tranh phá hoại của Mỹ tại miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Chính phủ đã phát hành số tiền lớn (gấp 3 lần tiền lưa thông của năm 1965 ở miền Bắc) để huy động lực lượng toàn dân đánh thắng quân xâm lược. Nhưng nhờ có sự viện trợ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em nên chúng ta đã hạn chế được lạm phát trong thời gian này. Thời kỳ 1976-1980: Sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu nhiều kinh nghiệm trong thời bình nên duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp toàn diện, không mở rộng sản xuất. XHCN không tiến hành hạch toán kinh doanh nên đã tự gây cho mình nhiều khó khăn, sản xuất không đủ tiêu dùng, ngân sách không đủ chi tiêu, lạm phát tiền giấy liên tục và bùng nổ dữ dội với tỷ lệ lên tới 3 con số. * Giai đoạn 1981-1985: Lạm phát thời kỳ này diễn ra trong điều kiện bắt đầu có những cải cách quan trọng trong nhiều lĩnh vực của cơ chế kinh tế. Lạm phát đã diễn ra trên quy mô cả nước. Giá cả hàng hoá tăng với tốc độ phi mã: Chỉ số giá bán lẻ năm 1985 tăng 13,97 lần so với năm 1980.Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ 1981-1985 lần lượt tăng là: 70%, 95%, 50%, 65% và 92%. Không có giải pháp tổng thể nào được đưa ra trong một thời gian dài cho đến khi xảy ra cuộc đổi tiền vào năm 1985. Có lẽ có quan niệm cho rằng đổi tiền sẽ khôi phục lại giá trị đồng bạc Việt Nam và lạm phát sẽ chấm dứt nên Chính phủ mới có qui định “Sức mua của đồng tiền mới bằng 10 lần sức mua của đồng tiền cũ” (Quyết định 01/HĐBT-TĐ ngày 13/9/1985). Nhưng sau đổi tiền, CPI năm 1985 tăng đến 92%. Cải cách 1981-1992 và 1985 không giúp lạm phát giảm mà còn trở thành tác nhân trực tiếp của lạm phát sau đó 2.1.2 Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1986 – 2005 * Siêu lạm phát 1986-1988: Tiếp tục hậu quả từ quy định về sức mua đồng tiền mới năm 1985, năm 1986 CPI tăng lên đến 775%, nền kinh tế bước vào thời kỳ lạm phát dữ dội với tỉ lệ tăng ba chữ số kéo dài trong 2 năm tiếp theo. Chỉ số giá bán lẻ năm 1988 tăng 181,48 lần so với năm 1985. Lạm phát trong giai đoạn này có năm đặc trưng cơ bản: 1. Lạm phát ba con số kéo dài 2 năm liên tục, được mở rộng bằng cuộc cải cách lớn về giá và lương cùng việc đổi tiền. 2. Thời kỳ này ảnh hưởng giá cả trong quan hệ xuất nhập khẩu tuy có nhẹ hơn thời kỳ 1981-1985 song vẫn bất lợi cho cán cân thanh toán của Việt Nam. 5. Tính chất công khai của lạm phát được bộc lộ rõ rệt hơn bất cứ giai đoạn nào trước đó. Hệ quả siêu lạm phát nghiêm trọng trong 2 năm là rất nặng nề. * Giai đoạn kiềm chế và đẩy lùi lạm phát cao (1989-1994): Sau một thập kỷ lạm phát cao liên tục, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng kéo dài nhưng đến năm 1989 đã chuyển sang một giai đoạn mới của lạm phát được đặc trưng bởi sự hạ sốt lạm phát và đến năm 1994 triển vọng bước qua thời kỳ kiểm soát lạm phát một con số là khả năng thực hiện được. Trong giai đoạn này, lạm phát giảm nhanh và giảm dần song song với tiến trình đổi mới kinh tế, chuyển hẳn và chuyển toàn diện sang kinh tế thị trường. * Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam từ 1995 – 2006: Biểu đồ 1: Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1995 - 2007 Theo định hướng chung, nền kinh tế Việt Nam (nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, xóa bỏ hoàn toàn chế độ quan liêu bao cấp) trong những năm này tiếp tục trên đà phát triển và mục tiêu đặt ra là kiểm soát chặt chẽ sự lạm phát. Từ năm 1995 đến năm 2006, mức lạm phát của nước ta luôn ở một con số. Trong giai đoạn này, nền kinh tế vì thế đã thoát khỏi khủng hoảng và phát triển khá bền vững. 2.1.3 Các nguyên nhân chính Một là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế mà thành phần kinh tế nhà nước chiếm tỉ trọng rất lớn: vốn cố định trong những năm 80 chiếm 85 - 87%, cán bộ kỹ sư - kỹ thuật chiếm 95%. Trong tay thành phần kinh tế nhà nước có nguồn tài nguyên to lớn, nhưng sử dụng kém hiệu quả. Đại bộ phận các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Doanh nghiệp nhà nước nhận các khoản trợ cấp từ ngân sách nhà nước gấp 3 lần các khoản doanh nghiệp nhà nước nộp cho ngân sách nhà nước. Các khoản trợ cấp này cao hơn số bội chi ngân sách nhà nước. Đây là một trong những nguyên nhân sâu xa và cơ bản dẫn đến lạm phát. Hai là, chính sách đổi tiền tăng giá là một trong những chính sách phá giá đồng tiền. Từ đầu những năm 1980 đến nay, Nhà nước ta đã ba lần tổng điều chỉnh giá với mức quá lớn, không đồng bộ. Nhà nước Trung ương không điều hành nổi cơ chế giá ở tầm vĩ mô, buộc phải chấp nhận cơ chế giá trượt trong thu mua nông sản, thực phẩm và bù giá vào lương. Nhiều ngành, địa phương đã tự điều chỉnh giá để kiềm chế sự chênh lệch giá. Điều này đã gây ách tắc, rối loạn thị trường và tăng bội chi ngân sách. Ba là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế mà độc quyền Nhà nước và cơ chế tập trung bao cấp, quan liêu mệnh lệnh thống trị, Nhà nước không chỉ nắm trong tay độc quyền lãnh đạo chính trị, quản lý và kiểm soát nền kinh tế nói chung (độc quyền này là cần thiết) mà còn độc quyền sản xuất, kinh doanh trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân. V.I.Lênin đã xác định, một trong những đặc trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc là tập trung sản xuất và tư bản đến trình độ phát triển cao dẫn đến độc quyền và nó có vai trò nhất định trong đời sống kinh tế. Độc quyền kinh tế; một mặt, thúc đẩy phát triển chủ nghĩa tư bản đương thời; mặt khác, nó kiềm hãm phát minh, sáng kiến, cạnh tranh. Sự phát triển của lực lượng sản xuất của nước ta trong những năm 70, 80 chưa đạt đến trình độ độc quyền kinh tế. Trong điều kiện đó, độc quyền nhà nước là độc quyền phi kinh tế vì nó không dựa trên cơ sở kinh tế. Trong thời gian dài tồn tại cơ chế tập trung bao cấp, quan liêu mệnh lệnh đã khuyến khích cấp dưới chờ cấp trên phân phối vật tư, lao động và tiền vốn, thiếu tính toán hiệu quả kinh tế. Tình hình trên làm cho hoạt động của nền kinh tế kém hiệu quả, dẫn đến lạm phát. Bốn là, cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư không hợp lý làm cho sản xuất chậm phát triểm trong khi dân số tăng nhanh, gây mất cân đối trên nhiều mặt , sản xuất chậm phát triển thu nhập quốc dân trong nước chỉ đảm bảo 80-90%quỹ tiêu dùng xã hộị Trong tình hình ấy tài chính - tín dụng có tài giỏi đến mấy cũng không thể phân phối và phân phối lại vượt quá mức số của cải trong nước làm ra cộng với số vay nợ, viện trợ hạn chế của nước ngoài. Sự phân phối và phân phối lại thông qua tài chính - tín dụng tuy có những yếu kém nhất định nhưng không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra lạm phát mà là hệ quả của cơ cấu đầu tư , cơ cấu kinh tế không hợp lý với sự duy trì bộ máy hành chính cồng kềnh và cơ cấu quản lý kinh tế kém năng lực. Năm là, lạm phát xuất hiện ở một nước, mà nền kinh tế phụ thuộc khá nhiều vào nước ngoài. Thu về xuất khẩu không đủ trang trải cho chi phí nhập khẩu. Để bù đắp chi phí nhập khẩu phải vay nợ nước ngoài. Tỉ trọng vay nợ nước ngoài so với chi bằng ngoại tệ vào các năm 1981 - 1985 là 52%, năm 1986 là 65% và năm 1989 là 39%. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều dựa vào vay nợ, viện trợ của nước ngoài, thiếu nó thì doanh nghiệp nhà nước không thể hoạt động bình thường. Sự viện trợ của nước ngoài giảm dần dẫn đến bội chi ngân sách nhà nước tăng dần và tạo điều kiện cho lạm phát phi mã. Sáu là, việc buông lỏng quản lý ngoại thương, ngoại hối cũng gây ra những tác hại lớn cho ngân sách nhà nước và lưu thông tiền tệ. Trong hoạt động xuất nhập khẩu đã phát sinh hiện tượng tranh mua, địa phương này treo giá cao để thu hút hàng của địa phương khác.Việc đẩy giá mua của hàng nội địa ảnh hưởng đến giá cả trong nước. Trên thị trường có sự tranh bán, nhiều mặt hàng xuất khẩu của ta bị ép giá gây thiệt hạI đến lợi ích quốc gia.Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm chỉ chiếm 30% tổng kim ngạch nhập khẩu.Mỗi năm ngân sách nhà nước phảI bù lỗ xuất nhập khẩu. Những chính sách trên đã làm cho nguồn thu ngày càng cạn kiệt, ngân sách nhà nước ngày càng thiếu hụt, lạm phát ngày càng gia tăng. 2.2 Lạm phát những năm 2007 – 2009 Trong giai đọan 2007 đến tháng 3/2008 (14 tháng), chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 31,1%; trong đó: Lương thực tăng 55,3%, Thực phẩm tăng 44,5%, Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 49,5%, Phương tiện đi lại tăng 27,6%,… Bảng : Chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam từ 2005 đến 2008 ( nguồn: Tổng cục Thống kê) 2005 2006 2007 3/2008 So 12/2007 Chỉ số giá quý I năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 Tháng 3/08 So Tháng 12/05 Chỉ số giá tiêu dùng 1,084 1,066 1,1263 1,0919 1,1637 1,311 Lương thực 1,078 1,141 1,1540 1,1791 1,2152 1,553 Thực phẩm 1,120 1,055 1,2116 1,1308 1,2840 1,445 Đồ uống và thuốc lá 1,049 1,052 1,0678 1,0773 1,0696 1,210 May mặc, giày dép, mũ nón 1,050 1,058 1,0670 1,0842 1,0757 1,224 Nhà ở và Vật liệu xây dựng 1,098 1,059 1,1712 1,2061 1,1794 1,496 Thiết bị và đồ dùng gia đình 1,048 1,062 1,0515 1,0663 1,0578 1,191 Dược phẩm, y tế 1,049 1,043 1,0705 1,0806 1,0773 1,207 Phương tiện đi lại, bưu điện 1,091 1,040 1,0727 1,1434 1,1004 1,276 Giáo dục 1,050 1,036 1,0197 1,0212 1,0199 1,079 Văn hóa, thể, giải trí 1,027 1,035 1,0169 1,0438 1,0261 1,099 Hàng hóa và dịch vụ khác 1,060 1,065 1,0902 1,1283 1,1193 1,310 Chỉ số giá vàng 1,113 1,272 1,2735 1,1846 1,4042 1,919 Chỉ số giá đô la Mỹ 1,009 1,010 0,9997 0,9812 0,9942 0,991 Nguyên nhân chính: Giá tiêu dùng tháng 12 năm 2007 tăng cao bên cạnh nguyên nhân chủ yếu là do giá lương thực, thực phẩm tăng cao thì việc tăng giá xăng dầu hồi đầu tháng 11 đã khiến nhiều mặt hàng tăng giá theo, trong đó tiêu biểu là nhóm phương tiện đi lại, bưu điện tăng tới 4,38%. Giá xăng dầu hiện góp mặt vào CPI cả trực tiếp và gián tiếp. Gián tiếp là thông qua chi phí sản xuất và trực tiếp là góp mặt vào rổ hàng hóa khi tính CPI. Hiện trong rổ hàng hóa, xăng dầu chiếm 2,58%. Ngày 25/2 vừa qua, giá xăng A92 trong nước tăng lên mức 14.500 đồng mỗi lít. Trong 5 năm qua, giá mặt hàng chiến lược này được điều chỉnh 19 lần, trong đó 5 lần giảm giá. Riêng trong năm 2008, giá xăng thế giới đã tăng 28% nhưng giá trong nước mới tăng bằng 81% mức tăng giá của thế giới. Giá thị trường thế giới liên tục tăng cao trong suốt thời gian từ đầu năm 2007 đến nay và vẫn trong xu thế tăng đã kéo giá trong nước tăng theo: đây là yếu tố khó tránh khỏi trong điều kiện nền kinh tế nước ta đã hội nhập với kinh tế thế giới. Trong điều kiện quy mô của nền kinh tế nhỏ, độ mở của nền kinh tế ở đầu vào đặc biệt lớn khi ta so tổng kim ngạch nhập khẩu với GDP năm 2006 bằng 74,13%, năm 2007 bằng 82,85%; mặt khác trong rổ hàng hóa nhập khẩu đó, tỷ trọng nhập khẩu nguyên liệu quá lớn như: xăng dầu 100%, phôi thép 65%-70%, nguyên liệu sản xuất thuốc 60%... mà đây lại là những mặt hàng thường bị “sốt” giá, nên mỗi khi những mặt hàng này “sốt” giá thì biến động giá ấy cũng kéo theo vào thị trường trong nước làm biến động giá trong nước. Giá cả thế giới tăng cao, làm tăng chi phí đầu vào, tất yếu dẫn đến giá cả đầu ra tăng cao. Giá cả đầu vào còn tăng "kép", tức là không chỉ do bản thân giá cả tính bằng ngoại tệ tăng, mà còn do tỷ giá VND/ngoại tệ - nhất là nhập khẩu và thanh toán bằng các đồng euro, bảng Anh, yên Nhật, các đồng nội tệ của các nước trong khu vực... Bên cạnh đó, các yếu tố bất khả kháng như thiên tai diễn biến phức tạp, dịch bệnh ở gia súc, gia cầm tuy được khống chế trong một số tháng qua, nhưng đã xuất hiện trở lại ở một số tỉnh và đang tiềm ẩn nguy cơ bùng phát dịch trở lại; giá thức ăn chăn nuôi, giống vật nuôi tăng cao cũng đã ảnh hưởng tới việc khôi phục và phát triển đàn gia súc, gia cầm; thời tiết không thuận lợi nên lượng đánh bắt hải sản giảm... dẫn đến nguồn cung thực phẩm thiếu hụt khiến giá một số thực phẩm vẫn ở mức cao.  Quan hệ cung cầu về hàng hóa, dịch vụ ở trong nước có diễn biến khác với các năm trước. Sản lượng lương thực bị giảm do thời tiết, sâu bệnh, bão lũ, trong khi dân số vẫn tăng trên 1 triệu người; giá cả thế giới tăng khá nhanh, xuất khẩu lại vẫn giữ khối lượng như năm trước nên giá lương thực tăng cao là khó tránh khỏi. Đàn gia cầm chưa phục hồi so với đỉnh cao cách đây mấy năm, nay lại thường xuyên bị các dịch đe dọa; đàn gia súc tăng thấp, nay lại bị dịch lở mồm long móng rồi đến dịch lợn tai xanh... rình rập, trong khi giá thức ăn thì đắt lên gấp bội... Nhiều làng thuần nông mà có đến một nửa số hộ không nuôi lợn, bởi chăn nuôi lợn trong nhiều năm chỉ "lấy công làm lãi" hoặc như đem tiền bỏ ống mà thôi. Bên cạnh đó những yếu kém về công tác phân tích dự báo còn nhiều hạn chế, chưa lường hết được sự biến động giá cả của thị trường thế giới, nhất là giá xăng dầu. Chính sách điều hành tiền tệ đã tác động nhất định đến chỉ số giá tiêu dùng. Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều, tuy tạo cơ hội lớn cho phát triển kinh tế của đất nước, nhưng cũng đã gây sức ép tăng giá đồng Việt Nam, đồng thời góp phần làm tăng tổng phương tiện thanh toán; việc điều hành các công cụ tiền tệ để rút tiền từ lưu thông về nhằm trung hòa với lượng tiền đưa ra mua ngoại tệ chưa thật nhịp nhàng, ăn khớp đã tạo sức ép tăng giá. Những yếu kém vốn có của nền kinh tế đã dồn tích từ nhiều năm nhưng chậm được xử lý, khắc phục. Cơ cấu kinh tế chậm cải thiện; công nghiệp khai thác tài nguyên và gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp phụ trợ chậm phát triển, phần lớn vật tư, nguyên liệu trung gian cho sản xuất phải nhập khẩu; giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp thấp. Tình trạng đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước vẫn còn dàn trải, không bảo đảm tiến độ, còn nhiều thất thoát, hiệu quả thấp... kéo dài, chậm được khắc phục. Chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ. 2.3 Tình hình lạm phát hiện nay đang trở nên vô cùng cấp bách Từ đầu năm 2010 đến nay tình hình lạm phát vẫn đang có nhưng diễn biến vô cùng phức tạp, đặc biệt từ đầu năm 2011 đến nay. Từ tết nguyên đán đến nay chỉ số giá tiêu dùng CPI liên tục tăng và tăng hơn nhiều lần so với cùng kỳ những năm trước và chưa hề có dấu hiệu giảm sút. Và tính đến thời điểm hiện tại thì lạm phát của 3 tháng đầu năm đã lên đến con số 6,1% , đó là một con số khá cao trong khi đó quốc hội đề ra chỉ tiêu đến cuối năm nay lạm phát chỉ là 7%. Như vậy nếu tình hình không thay đổi thì đến cuối năm chúng ta sẽ khó có thể giữ được mức 7% lạm phát như quốc hội đề ra. Biểu đồ 2: Chỉ số tiêu dùng quý I – 2011 Đơn vị: 100% Tháng 1 Tháng 2 Chỉ số giá quý I năm 2011so với cùng kỳ năm 2010 Chỉ số giá tiêu dùng 102.09 102.17 112.79 Lương thực 101.51 102.18 115.66 Thực phẩm 104.53 101.57 118.78 Đồ uống và thuốc lá 102.14 100.88 110.31 Nhà ở và Vật liệu xây dựng 100.83 103.67 115.53 Thiết bị và đồ dùng gia đình 100.64 101.22 106.89 Dược phẩm, y tế 100.30 100.71 104.29 Phương tiện đi lại, bưu điện 101.01 106.69 105.19 Giáo dục 100.89 100.90 123.42 Văn hóa, thể, giải trí 101.24 100.98 105.69 Hàng hóa và dịch vụ khác 101.36 101.39 109.98 Chỉ số giá vàng 99.65 105.00 137.07 Chỉ số giá đô la Mỹ 100.94 103.06 110.53 Trích: Tổng cục thống kê Nguyên nhân chính: Yếu tố “cầu kéo” Nền kinh tế phục hồi sau ảnh hưởng suy thoái kinh tế thế giới, nhu cầu tiêu dùng cũng như sản xuất dần tăng trở lại. Cầu tăng giúp kích thích nền kinh tế nhưng vấn đề đáng lo ngại hơn là nhu cầu giả tạo, làm giá cả tăng cao không cần thiết. Cán cân thương mại Việt Nam chịu thâm hụt lớn kéo dài trong nhiều năm (năm 2007 thâm hụt hơn 12 tỷ USD, năm 2008 mức thâm hụt tăng lên đến trên 17 tỷ USD). Sang năm 2009, khác với các nước khác, mất cân bằng cán cân thương mại thu hẹp lại khi chịu chịu tác động của khủng hoảng, mức thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam có giảm xuống nhưng không đáng kể, nhập siêu vẫn ở mức 12,2 tỷ USD ngang bằng với năm 2007 và cao hơn rất nhiều so với nhiều năm trước đó. Sự nới lỏng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa theo chương trình kích thích kinh tế đã đẩy mạnh nhập khẩu, góp phần làm thâm hụt cán cân thương mại lớn quay trở lại. Năm 2010 thâm hụt ngân sách có phần giảm tuy nhiên giới phân tích rất lo lắng trong khi chính phủ vẫn điềm tĩnh và cho rằng thâm hụt vẫn chưa ở mức đáng lo. Tình trạng thâm hụt cán cân thương mại triền miên và chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do tạo tâm lý lo ngại Việt Nam đồng mất giá, tạo ra cầu giả tạo, giá cả tăng cao. Tuy nhiên, với những động thái điều chỉnh tý giá gần đây của NHNN nhằm giúp giảm chênh lệch 2 mức tỷ giá để người dân giảm tích trữ hàng hóa, vàng, đô la, hạ thấp nhu cầu giả tạo, góp phần kiểm soát giá cả. Yếu tố “Chi phí đẩy” Bên cạnh đó, năm 2010, giá cả của nhiều đầu vào như giá than, giá điện, giá xăng và giá nước đồng loạt được điều chỉnh tăng. Ngoài ra, theo lộ trình, trong năm 2010 sẽ tăng lương, cộng với tình hình kinh tế thế giới ấm lên sẽ làm giá c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam những năm gần đây.doc
Tài liệu liên quan