MỤC LỤC Trang
LỜI MỞ ĐẦU
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ CHO VAY TRONG NHTM
1.Vai trò của nghiệp vụ cho vay
trong NHTM
2.Phân loại nghiệp vụ cho vay
2.1 Phân loại theo kỳ hạn
2.1.1 Ngắn hạn
2.1.2 Trung hạn
2.1.3 Dài hạn
2.2 Phân loại theo mức độ tín nhiệm
đối với khách hàng
2.1.1 Cho vay có bảo đảm
2.1.2 Cho vay không có bảo đảm
3. Quy trình nghiệp vụ cho vay
3.1 Hợp đồng cho vay
3.1.1 Khái niệm hợp đồng cho vay
3.1.2 Các yếu tố cấu thành một hợp đồng cho vay
3.2 LãI suất cho vay ở các NHTM
3.2.1 Khái niệm lãi suất cho vay
3.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất
cho vay của NHTM
3.3 Quy trình cho vay
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động
cho vay của các NHTM
4.1 Vốn
4.2 Tính ổn định của các khoản ký thác
4.3 Điều kiện kinh tế
4.4 Chính sách tiền tệ và tài chính
4.5 Đội ngũ nhân viên
4.6 Nhu cầu của khu vực phục vụ
4.7 Rủi ro của các khoản vay
5. Nguyên tắc quản lý tiền cho vay
5.1 Sàng lọc và giám sát
5.2 Lựa chọn các hình thức đảm bảo tiền
vay và số dư bù
5.3 Hạn chế tín dụng
5.4 Quan hệ khách hàng lâu dàI
và hạn mức tín dụng
Chương 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY Ở CÁC NHTM
1. Thực trạng hoạt động cho vay
2. Đánh giá thực trạng hoạt động
cho vay của NHTM
2.1 Kết quả
2.2 Hạn chế
2.3 Nguyên nhân của những hạn chế
Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NHTM
1. Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay
2. Giải pháp hạn chế rủi ro
KẾT LUẬN
57 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2409 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp đối với hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đảm được hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng, mới bù đắp được những chi phí mà ngân hàng phải bỏ ra trước đó. Hay cạnh tranh giữa các ngân hàng, đây cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lãi suất. Để đảm bảo thu hút được khách hàng về phía mình các ngân hàng luôn luôn phải cân nhắc, giảm lãi suất cho vay đến một mức độ nhất định hòng giành khách hàng với các ngân hàng khác. Nói chung khả năng cho vay của ngân hàng tuỳ thuộc vào mức dự trữ thặng dư trong hệ thống Ngân hàng. Nếu nhu cầu về tín dụng ngân hàng tương đối ổn định, các khoản dự trữ thặng dư gia tăng, lãi suất cho vay sẽ giảm khi các ngân hàng tìm kiếm các tích sản sinh lợi. Tuy nhiên nếu có nhu cầu mạnh được tín dụng ngân hàng và khoản dự trữ thặng dư tiếp tục ổn định hay phát triển chậm hơn nhu cầu tin dụng, lãi suất sẽ tăng lên. Thái độ con người cũng ảnh hưởng đến lãi suất. Nếu người ta có cái nhìn bi quan về kinh tế thì các giám đốc Ngân hàng không hạ mức lãi suất mặc dù nguồn vốn cho vay có thể bảo đảm. Nếu lạc quan nghĩa là họ thấy rằng hệ thống dự trữ sẽ cấp thêm vốn cần đến, lãi suất không bị tăng lên một cách rõ rệt, mặc dù dự trữ thặng dư tương đối thấp lãi suất thị trường cũng chịu sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước theo chính sách tiền tệ thắt chặt hay mở rộng. Nếu Ngân hàng Nhà nước muốn mở rộng tiền tệ thì lãi suất thị trường giảm để thu hút người vay và ngược lại khi Ngân hàng Nhà nước muốn thắt chặt tiền tệ thì lãi suất sẽ tăng lên để hạn chế tín dụng. Ngoài ra, lãi suất còn chịu sự chi phối của kỳ hạn vay. Kỳ hạn càng dài thì rủi ro càng cao, thanh toán khó khăn nên lãi suất cao để bù đắp những khó khăn có thể xảy ra.
3.3 Quy trình cho vay
Quy trình cho vay của các ngân hàng thông thường diễn ra qua 5 bước sau:
a) Hướng dẫn khách hàng làm thủ tục xin vay vốn
Nếu lần đầu xin vay thì khách hàng phải cung cấp cho ngân hàng những tài liệu chứng minh tính pháp lý của mình. Gửi đơn xin vay, trong đó điền đầy đủ những thông tin cần thiết . Ngoài ra, người xin vay phải nộp kế hoạch sản xuất kinh doanh để xác định nhu cầu, cung cấp cho ngân hàng những hợp đồng kinh tế liên quan đến việc thực hiện kế hoạch, dự án để xác định tính khả thi của dự án. Nộp báo cáo tài chính kinh doanh hiện tại của khách hàng, kèm theo những tài liệu chứng minh về đảm bảo an toàn tiền vay như : giấy tờ sở hữu, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh.
b)Ngân hàng tiến hành thu thập thông tin
Căn cứ vào các tài liệu trên thì ngân hàng tiến hành kiểm tra về tính pháp lý của các tài liệu, uy tín của khách hàng, khả năng sinh lời của dự án, quyền sở hữu tài sản để xem khách hàng có đảm bảo đủ độ tin cậy hay không . Ngân hàng có thể kiểm tra thông qua các cách sau:
+Phỏng vấn người xin vay:
Qua phỏng vấn người xin vay, nhân viên tín dụng sẽ biết được lý do vay, biết được yêu cầu xin vay có đáp ứng được các đòi hỏi khác nhau do các chính sách cho vay của ngaan hàng ấn định không. Qua phỏng vấn, nhân viên tín dụng có mmột ý niệm nào đó về tính thật thà và khả năng của người vay và coa thể có ý kiến xem có cần thiết phải có vật thế chấp hay không. Những thông tin về lịch sử và sự phát triển của ngành kinh doanh, bản chất của các sản phẩm dịch vụ, nguồn nhiên liệu, thế cạnh tranh và các kế hoạch trong tương lai có thể có được qua phỏng vấn.
+Kiểm tra qua sổ sách của ngân hàng
Một ngân hàng có thể lưu trữ tập trung của cả người ký thác và người vay, từ đó có thể nhận được thông tin về tín dụng. Thậm chí, nếu người xin vay chưa từng là khách hàng của ngân hàng, hồ sơ tập trung cũng có một số thông tin nào đó.
+ Điều tra nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay
Người xin vay phải cho phép một nhân viên tín dụng đến tham quan nơi kinh doanh của mình. Một nhân viên tín dụng có kinh nghiệm sẽ biết được một cách đáng kể về mức độ phát triển hiện nay trong kinh doanh của người vay cũng như trình độ quản lý thông qua tham quan các tiện nghi của nó.
+ ĐIều tra qua việc thẩm định các báo cáo tài chính
Việc đánh giá chính xác thông tin phản ánh trong những báo cáo tài chính là rất quan trọng trong phân tích tín dụng. Ngân hàng dựa trên báo cáo tài chính để đánh giá các khoản mục tài sản, tài sản và vốn tự có, đánh giá báo cáo lãi lỗ, những thay đổi tình hình tài chính.
Nếu không chấp nhận thì gửi giấy báo từ chối trong vòng 10 ngày. Chấp nhận thì ra quyết định cho vay.
c)Ra quyết định cho vay
Khi ra quyết định cho vay thì ngân hàng sẽ ấn định mức cho vay căn cứ vào nhu cầu xin vay vốn của khách hàng và khả năng có thể đáp ứng được của ngân hàng, xác định thời hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ và mức trả nợ của những kỳ hạn. Những đIều này thể hiện trên hợp đồng cho vay được ký kết giữa ngân hàng với khách hàng.
d) Giải ngân
Việc tiến hành cho vay diễn ra căn cứ vào mức cho vay đã được xác định. Ngân hàng mở tài khoản xin vay vốn của khách hàng. Rồi tiền hành chuyển tiền cho khách hàng một lần hoặc nhiều lần.
e)Kiểm tra giám sát khách hàng
Sau khi trao tiền vào tay khách hàng, ngân hàng vẫn phải tiếp tục thường xuyên theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Ngân hàng cần kiểm tra xem người vay có sử dụng tiền đúng mục đích như đã cam kết hay không? kinh doanh có hiệu quả không? Nếu có dấu hiệu của thua lỗ, khó có thể vớt vát được thì lập tức còn rút vốn về nhằm hạn chế những tổn thất có thể xảy ra, và có những hình phạt thích đáng đối với những cá nhân vì lợi ích của bản thân mà đang tâm lừa đảo chiếm đoạt.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại.
4.1 Nguồn vốn
Vốn kinh doanh của một ngân hàng thực chất là tiền gửi của người ký thác. Quy mô nguồn vốn của một NHTM quyết định đến quy mô của khối lượng tín dụng mà ngân hàng đó có thể phát ra, ảnh hưởng đến số lượng rủi ro mà ngân hàng có thể chấp nhận. Một ngân hàng có quy mô lớn có thể phát ra một khối lượng tín dụng lớn với kỳ hạn dài hơn nhưng đi kèm theo đó là rủi ro cũng nhiều hơn.
Mục đích lớn nhất của ngân hàng là lợi nhuận. Do vậy, tất cả các ngân hàng đều xem xét đến yếu tố quan trọng này,các chính sách tín dụng thường tìm cách nâng cao tỉ phần sinh lợi của tài sản,đặc biệt là nâng cao khả năng cung cấp tín dụng. Các ngân hàng có nhu cầu lớn hơn về lợi nhuận thường áp dụng chính sách cho vay năng động hơn so với các ngân hàng không xem lợi nhuận là quan trọng nhất. Chẳng hạn như các ngân hàng này sẽ cho vay vốn với khối lượng lớn hơn, mức lãi suất cao hơn so với cho vay ngắn hạn mặc dù biết là mình có nguy cơ gặp phải rủi ro nhiều hơn.
4.2 Tính ổn định của các khoản ký thác
Ngân hàng luôn xem xét sự biến động của các khoản ký thác khi quyết định chính sách cho vay. Khi các khoản ký thác ổn định ngân hàng có thể hoạch định chính sách tín dụng mà ở đó quy mô thơì hạn tín dụng được ổn định, tỉ phần sinh lợi của tài sản co cũng có thể được hoạch định cao hơn. Tuy nhiên nếu sự ký thác không ổn định thì buộc các ngân hàng phải xem xét đến tính sử dụng của các khoản ký thác,luôn luôn phải dự trữ hiện kim và dự trữ thứ cấp để đảm bảo thanh toán khi cần thiết.
4.3 Điều kiện kinh tế
Điều kiện kinh tế được coi là một yếu tố khách quan thể hiện sự tăng trưởng hay trì trệ của nền kinh tế. Một nền kinh tế đang ở trong một hoàn cảnh ổn định thuận lợi , sức mua cao, xuất khẩu dễ dàng cho phép các NHTM bành chướng tín dụng, thực hiện một chính sách cho vay tự do. Ngược lại, với một nền kinh tế bị trì trệ lệ thuộc vào các biến động thời vụ và chu kỳ thì tín dụng sẽ bị co hẹp lại. Các khoản ký thác trong nền kinh tế không ổn định thường chao đảo , biến động mạnh so với các khoản ký thác trong một nền kinh tế ổn định, điều kiện kinh tế có thể thể hiện qua toàn bộ hoạt động kinh tế cũng có thể thể hiện ở các ngành kinh tế, lĩnh vực kinh tế.
4.4 Chính sách tiền tệ và chính sách tài chính
Chính sách tiền tệ và tài chính của Nhà nước bao gồm các chính sách như dự trữ pháp định, chính sách chiết khấu, chính sách thị trường mở…Những chính sách này mang tính cưỡng chế của pháp luật, áp dụng lên toàn bộ nền kinh tế nên các NHTM buộc phải tuân theo. Nếu các chính sách tài chính tiền tệ được mở rộng thì hệ thống NHTM được cấp thêm vốn dự trữ, khả năng cho vay của ngân hàng được gia tăng. Ngược lại, khi Nhà nước muốn hạn chế tín dụng, sử dụng chính sách thắt chặt thì buộc các ngân hàng cũng phải hạn chế tín dụng.
4.5 Khả năng và kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên
Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu để vạch ra các chính sách kinh doanh của ngân hàng nói chung và chính sách tín dụng nói riêng. Tùy thuộc vào khả năng chuyên môn, khả năng quản lý của nhân viên mà các NHTM mở rộng tín dụng vào những phạm vi mà nhân viên của mình có thể quản lý được. Bởi lẽ, cho vay luôn đi liền với những rủi ro nếu như các nhân viên không đủ trình độ, khả năng đánh giá sự trung thực của các hồ sơ khách hàng, tính khả thi của các dự án xin vay thi sẽ đem lại rủi ro rất lớn cho hoạt động của ngân hàng.
4.6 Nhu cầu của khu vực phục vụ
Các ngân hàng muốn đực cấp giáy phép hoạt động thì cần phải đáp ứng phục vụ được nhu cầu tín dụng của cộng đồng. Tại khu vực mà nền kinh tế chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi thì đương nhiên ngân hàng không thể từ chối những khoản xin vay như vậy mà trái lại phải điều chỉnh hoạt động, đIều chỉnh các chính sách để đáp ứng được nhu cầu hoạt động của khu vực kinh tế này. Do vậy, trong mỗi một môi trường sông khác nhau, các ngân hàng luôn phải cố gắng tìm hiểu nhu cầu, điều kiện sống của dân chúng và nền kinh tế của địa phương mà có chính sách phục vụ cho phù hợp. Có như vậy thì ngân hàng mới có thể tồn tại và phát triển được.
4.7 Rủi ro và khả năng sinh lợi của các khoản cho vay khác nhau
Thông thường một khoản tín dụng có khả năng cho vay sinh lợi cao thì độ rủi ro cũng cao và ngược lại. Chẳng hạn như đối với những khoản cho vay dài hạn, với một khối lượng tiền lớn, đi kèm theo một độ rủi ro cao do vậy các ngân hàng thương mại thường đặt ra một mức lãi suất cho vay cao đối với các khoản vay dài hạn. Hay cho vay nông nghiệp cũng là hình thức cho vay gặp rủi ro rất lớn. Rủi ro xảy ra cho nông nghiệp thường không dự tính trước được bởi lẽ nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào thời tiết và khí hậu. Thiên tai dịch bệnh bất ngờ xảy ra có thể mất trắng toàn bộ….
Trong hoạt động cho vay thường gặp rủi ro thông tin không cân xứng. Thông thường các ngân hàng muốn có những thông tin về khách hàng của mình nhưng những thông tin này thường không đầy đủ và không chính xác
Có hai loại rủi ro thường gặp: Thứ nhất là rủi ro do lựa chọn sai đối nghịch tức là chọn sai khách hàng cần cho vay, có độ rủi ro cao thường không thu hồi được vốn. Loại thứ hai là rủi ro đạo đức: là rủi ro xảy cho những người có vốn cho vay do đạo đức của những người vay vốn gây ra. Họ cố tình cung cấp những thông tin không chính xác, những thông tin giả để thuyết phục những người có vốn cho vay và chiếm dụng luôn số vốn vay đó hoặc sử dụng sai mục đích với những cam kết ban đầu nên không thu hồi được vốn để trả nợ cho ngân hàng.
Rủi ro là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay của ngân hàng, đến sự tồn tại, phát triển của ngân hàng. Do vậy, các ngân hàng thường xuyên phải tìm kiếm các giải pháp để hạn chế đến mức thấp nhất những tác động của rủi ro nhằm bảo đảm an toàn cho các khoản vốn cho vay của mình.
5. Nguyên tắc quản lý tiền cho vay
Rủi ro xảy ra là điều khó có thể tránh khỏi trong hoạt động cho vay của ngân hàng nhưng không phải là không có cách để hạn chế nó. Quản lý tiền cho vay bao gồm sàng lọc và giám sát khách hàng, thế chấp tài sản và số dư bù, hạn chế tín dụng, quan hệ khách hàng lâu dài và quy tắc tính dụng là một trong những cách mà các ngân hàng luôn luôn sử dụng để kìm chế sự xuất hiện của các loại rủi ro.
5.1 Sàng lọc và giám sát
Thông tin không cân xứng có mặt trong các thị trường cho vay bởi những người đi vay thường không muốn cung cấp đầy đủ, chính xác về thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay của mình cho người cho vay. Tình trạng này đưa đến hai hoạt động sản xuất thông tin do các ngân hàng thực hiên: Sàng lọc và giám sát.
5.1.1 Sàng lọc
Bởi lẽ ngân hàng luôn phải đối đầu với những thông tin bất đối xứng, do vậy ngân hàng phải tiến hành sàng lọc những khách hàng có nhu cầu vay vốn để cho ra những khách hàng có đủ độ tin cậy để cho vay. Để sàng lọc thì ngân hàng phải tổ chức, thu thập nắm giữ những thông tin từ tất cả các khách hàng có nhu cầu vay vốn ( tài sản thế chấp, cầm cố, thuyết trình tỷ lệ nợ của khách hàng, bản báo cáo tài chính…). Sau đó ngân hàng tiến hành sàng lọc bằng cách phân tích, thẩm định đánh giá độ chính xác của các hồ sơ. Đối với những hồ sơ thoả mãn tiêu chuẩn của ngân hàng thì người có trách nhiệm đối với khoản tín dụng sẽ ký quyết định cho khách hàng vay và vay bao nhiêu.
5.1.2 Giám sát
Chỉ sàng lọc không thôi cũng chưa đảm bảo rằng ngân hàng sẽ không gặp phải một rủi ro nào khác nữa sau khi tiền được xuất ra khỏi ngân hàng, bởi lẽ ngân hàng còn gặp phải rủi ro về đạo đức. Để giảm bớt những rủi ro về đạo đức, các ngân hàng phải viết ra những điều khoản cam kết trong các hợp đồng cho vay để nhằm hạn chế người vay không được thực hiện những hoạt động làm phát sinh rủi ro cho ngân hàng. Ngân hàng tiến hành kiểm tra, phân tích, theo dõi khách hàng trước và sau khi cho vay, kiểm tra xem liệu người vay có thi hành đúng những quy định trong hợp đồng không và sẽ có những biện pháp cưỡng chế đối với cá nhân vì lợi ích bản thân mà cố tình vi phạm cam kết.
5.2- Thế chấp tài sản và số chi bù
Vật thế chấp là vật sở hữu được hứa cho người cho vay nếu người vay vỡ nợ, làm giảm bớt hậu quả của lựa chọn đối nghịch bởi vì nó giảm các tổn thất của người cho vay trong trường hợp xẩy ra vỡ nợ. Sự bắt buộc về vật chất tài sản đối với khoản tiền vay là một trong những công cụ quan trọng để hạn chế rủi ro. Nếu người vay vỡ nợ, không đủ khả năng để hoàn trả lại ngân hàng thì ngân hàng có thể bán tài sản thế chấp và dùng tiền thu được để bù đắp lại những tổn thất của mình do món cho vay đó gây ra. Thông thường đảm bảo bằng tài sản thế chầp thì mức cho vay của ngân hàng thấp hơn bởi tính lỏng của loại tài sản cố định rất thấp. Họ chỉ xem xét cho vay 70% giá trị của tài sản thế chấp tại thời điểm cho vay.
Khi người vay nhận được tiền vay, NHTM yêu cầu người vay phải giữ một số tối thiểu bắt buộc trong các tài khoản ở ngân hàng gọi là “số dư bù”. Đây là một dạng riêng của vật thế chấp bắt buộc khi một ngân hàng cho vay thương mại. Nếu khách hàng không trả được nợ thì Ngân hàng sẽ thu nợ từ “số dư bù”. Cho vay “số dư bù” thì người vay phải có tài khoản tại ngân hàng cho vay. Do vậy có lợi cho ngân hàng là có thể giám sát được khách hàng vay thông qua hoạt động tài khoản của họ. Bất kỳ thay đổi quan trọng nào trong các thủ tục thanh toán của người vay đều là một tín hiệu báo cho Ngân hàng vay phải tiến hành điều tra.
5.3- Hạn chế tín dụng
Đây là một phương pháp cũng giúp cho ngân hàng đối phó với lựa chọn đối nghịch về rủi ro đạo đức. Hạn chế tín dụng có hai dạng: Dạng thứ nhất là ngân hàng hoàn toàn từ chối một khoản cho vay nếu qua sàng lọc kiểm tra thấy độ rủi ro cao, khách hàng không đáng tin cậy với số lượng bất kỳ nào đối với người vay, ngay cả khi người vay này sẵn lòng thanh toán một lãi suất cao hơn. Dạng thứ hai diễn ra khi một ngân hàng không từ chối hoàn toàn, vẫn cho vay nhưng hạn chế mức vay đó dưới mức mà vay muốn. Với khoản cho vay nhỏ như thế thì ngân hàng vẫn có thể thu lãi suất và người đi vay cũng có đủ khả năng thanh toán.
5.4- Quan hệ khách hàng lâu dài và quy tắc tín dụng
Để thu nhập được thông tin về người vay tiền, ngân hàng có thể dựa trên quan hệ khách hàng lâu dài. Người vay tiền có tài khoản séc hay tài khoản tiết kiệm hoặc đã từng vay ở ngân hàng trong một thời gian dài thì ngân hàng sẽ biết được nhiều thông tin về họ bởi người phụ trách việc cho vay sẽ căn cứ vào hoạt động quá khứ đối với tài khoản đó mà tìm hiểu về khách hàng. Chẳng hạn như ngân hàng sẽ biết người vay tiền này không vững chắc như thế nào, vào lúc nào trong năm người đó rất cần tiền mặt, ai đã cung cấp tiền vay cho khách hàng này và những ghi chép khác liên quan đến khách hàng.
Mặt khác do người vay này trước đây đã vay tiền ở ngân hàng cho nên ngân hàng đã có sẵn phương thức giám sát khách hàng. Do vậy mà chi phí sẽ giảm thấp hơn so với những khách hàng mới. Đồng thời quan hệ lâu dài này cũng mang lại lợi ích cho cả hai bên khách hàng lẫn ngân hàng. Đối với khách hàng thì do quan hệ cũ nên dễ được vay ở lãi suất thấp, thời gian quy định cho vay nhanh hơn. Còn đối với ngân hàng thì có thêm một lợi ích nữa là việc khách hàng biết rằng với quan hệ lâu dài thì có thể được giảm lãi suất . Do đó anh ta sẽ cố gắng giảm thiểu những rủi ro của mình để gây được niềm tin trong ngân hàng. Nhờ vậy mà ngân hàng có thể đối phó được với những rủi ro đạo đức bất ngờ xảy ra ngay cả khi ngân hàng cũng không lường trước được lúc ban đầu.
Các ngân hàng cũng xây dựng mối quan hệ lâu dài và tập hợp thông tin bằng cách đưa ra một mức tín dụng cho khách hàng Thương mại. NHTM cam kết (trong một khoảng thời gian nhất định) cung cấp cho khách hàng các món vay tới một mức nhất định với một lãi suất gắn với một lãi suất thị trường nào đó. Lợi ích của việc này đối với ngân hàng là ở chỗ hạn mức tín dụng sẽ đưa đến một mối quan hệ lâu dài và tạo điều kiện dễ dàng cho việc tập hợp thông tin. Thoả ước tín dụng là phương pháp hữu hiệu để giảm chi phí cho việc sàng lọc và tập hợp thông tin.
Chương hai
Thực trạng hoạt động cho vay
ở các ngân hàng thương mạI hiện nay
1-Thực trạng hoạt động cho vay ở các ngân hàng thương mại
Tham gia vào thị trường cho vay vốn, ngoài hệ thống các tổ chức tín dụng còn có hệ thống kho bạc Nhà nước, Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển của các địa phương… Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết các tổ chức này đều có nguồn vôn cho vay từ nguồn Ngân sách Nhà nước, có cơ chế riêng. Các tổ chức khác chiếm thị phần rất nhỏ bé. Do đó thị trường cho vay chủ yếu vẫn là hoạt động của các tổ chức tín dụng, hệ thống ngân hàng. Đây là lực lượng chủ lực trên thị trường vốn. Cho nên, hoạt động cho vay của các Ngân hàng Thương mạI hiện nay thực sự có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế. Nhìn chung, tình hình cho vay của hệ thống các Ngân hàng Thương mại hiện nay như sau:
- Về thị phần cho vay :
Giữa các Ngân hàng Thương mại quốc doanh (NHTMQD) với các NHTM ngoàI QD luôn có sự cạnh tranh gay gắt về thị phần cho vay. Thị phần của các NHTMQD luôn bị đe doạ, vẫn chưa chiếm được ưu thế về phía mình. Tại hai khu vực tài chính lớn nhất của cả nước: Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, thị phần của nhóm NHTMQD bị tác động rõ rệt và luôn bị dao động.
Diễn biến thị phần cho vay của các khối ngân hàng trên
địa bàn TP HCM.
Khối ngân hàng
12/ 96
12/ 97
12/ 98
12/ 99
12/ 00
NHTMQD
39,6
37,9
46,2
45,9
49,3
NHTM ngoàiQD
Trong đó:
NHTM CP
NHNg & NHLD
60,4
34,4
26,0
62,1
28,6
33,5
53,8
24,4
29,4
54,1
22,5
31,6
50,7
23,3
27,4
Diễn biến thị phần cho vay của các khối Ngân hàng trên địa bàn TP Hà Nội
Khối ngân hàng
12/ 96
12/ 97
12/ 98
12/ 99
NHTMQD
36,8
33,0
34,2
32,0
NHTM ngoàiQD
Trong đó:
NHTM CP
NHNg & NHLD
63,2
19,4
43,7
67,0
17,0
50.0
65,8
17,1
48,6
68,0
15,3
52,7
Chú thích: Ngân hàng thương mại cổ phần:NHTHCP
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài: NHNg
Ngân hàng liên doanh: NHLD
NHTMQD mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn bị NHTM ngoài QD chén ép, chưa giành giật được ưu thế cạnh tranh về phía mình. ở TP HCM năm 2000, các NHTMQD đã vươn lên xấp xỉ gần 50% thị phần cho vay. Trong khi đó ở TP Hà Nội, 4 năm liên tiếp chưa lần nào vượt quá 40%.
-Về tỷ trọng cho vay:
Tín dụng ngân hàng tập trung vào các ngành công nghiệp tăng 21%, nông lâm ngư nghiệp tăng 16%, thương nghiệp và dịch vụ tăng 18%(số liệu năm 1995 so với năm 1994). Năm 1997, tín dung cho nền kinh tế tiếp tục tăng (22,6%) so với năm 1996. Trong đó, tín dụng cho khu vực kinh tế tư nhân, ngoài quốc doanh tăng mạnh chiếm tỷ trọng 50% tổng dư nợ.
Cho vay trung và dài hạn tăng lên. Năm 1991 cho vay trung dài hạn chiếm 15% tổng dư nợ. Năm 1995 chiếm 29% tổng dư nợ. Năm 1998 chiếm 37% tổng dư nợ.
-Về lãi suất cho vay.
Việc xây dựng lãi suất cho vay của từng ngân hàng phụ thuộc vào khả năng của mỗi ngân hàng đó. Ngân hàng nhỏ tiềm lực không lớn nên khả năng cạnh tranh gặp nhiều khó khăn. Đối với ngân hàng lớn khả năng cạnh tranh cao hơn. Do đó, rất dễ xẩy ra việc phân chia đối tượng khách hàng, địa bàn hoạt động giữa các ngân hàng. Hiện nay, nhiều ngân hàng hạ lãi suất cho vay trong nỗ lực cạnh tranh khách hàng. Ví dụ: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã chào lãi suất cho vay nhưng khách hàng uy tín chỉ từ 0,47% - 0,55%/tháng cho các khoản vay dài hạn, từ 0,56% - 0,58%/tháng cho các khoản vay trung và dài hạn. Mức lãi suất này ngang bằng với mức lãi suất cho vay ưu đãi của Chính phủ.
-Về tỷ lệ nợ quá hạn.
Năm 1998, tổng dư nợ của toàn bộ hệ thống NHTM lên tới con số 100.000 tỷ Việt Nam đồng. Trong đó, nợ quá hạn chiếm khoảng 10% và tính riêng số nợ khó đòi khoảng gần 6,8% so với tổng dư nợ. Xét 2 thành phố lớn Hà Nội và Hồ Chí Minh ta có số liệu cụ thể sau:
+ TP HCM: nợ quá hạn cho vay của các NHTM trên địa bàn ở mức khá cao chiếm khoảng gần 20% khoản dư nợ. Năm 1999, tỷ lệ nợ quá hạn và nợ chờ xử lý/tổng dư nợ là 25,03%.
+ TP HN: Tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTM chiếm 5% tổng dư nợ (30/9/1998) trong đó nợ quá hạn khó đòi chiếm khoảng 50%.
Đây quả là vấn đề đáng báo động đối với các NHTM hiện nay.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một trong những NHTM lớn hiện nay. Ta đi xem xét tình hình cho vay của ngân hàng này trong những năm 1999 và 2001.
Cho vay ngắn hạn
Năm 1999: đến hết ngày 31/12/1999, dư nợ cho vay của ngân hàng đạt 1106 tỷ đồng, tăng 27% so với cuối năm 1998 và chiếm 68% tổng dư nợ cho vay ( dư nợ cho vay tăng chủ yếu ở phần cho vay bằng ngoạI tệ với dư nợ đạt 37 triệu USD, tăng 17 triệu USD so với cuối năm 1998).
Năm 2001:dến 31/12/2001, dư nợ cho vay của ngân hàng đạt 1513 tỷ Việt Nam đồng tăng 102 tỷ( 7,23%) so với cùng kỳ năm trước); trong đó dư nợ nội tệ là 1077 tỷ đồng tăng 328 tỷ đồng(44%),dư nợ ngoạI tệ là 29 triệu USD, giảm 17 triệu USD. So với năm 2000, doanh số cho vay năm 2001 tăng 14,6% đạt 3900 tỷ đồng, doanh số thu nợ tăng 15,6% đạt 3717 tỷ đồng.
Cho vay trung dài hạn.
Năm 1999: dư nợ cho vay trung dài hạn tính đến 31/12/1999 chỉ bằng 41% năm 1998.
Năm 2001: dư nợ cho vay trung dàI hạn quy VND tạI thời đIúm 31/12/2000 chỉ có 767 tỷ đồng. Sang năm 2001 số dư nợ tăng đều qua các tháng ,đến tháng 7 năm 2001 thì đạt 1000 tỷ đồng và trong quý 3 dao động ở mức 1100 tỷ đồng và tăng mạnh trong quý 4 đạt 1596 tỷ đồng vào ngày 31/12/2001.
Nợ quá hạn.
Năm 1999: tổng số nợ quá hạn đến 31/12/1999 là 76569 triệu đồng, giảm 4,82% so với năm trước và chiếm 4,69% tổng số dư nợ cho vay.
Tình hình xử lý: tổng nợ quá hạn, khó đòi đã thu được từ con nợ là 522.000 USD, bán tàI sản thế chấp thu được 4 tỷ đồng.
Năm 2001: trong năm 2001 nợ quá hạn là 89.000 USD.
Giải quyết nợ tồn đọng: trong năm 2001 đã thu hồi được 71 tỷ đồng và 415.000USD nợ quá hạn.
2.Đánh giá thực trạng hoạt động cho vay của ngân hàng thương mạI
2.1 Những kết quả thu được
Nghiệp vụ cho vay là một trong những nghiệp vụ cấu thành nên hoạt động của các NHTM, đem lại lợi nhuận trực tiếp giúp ngân hàng bù đắp những chi phí đã bỏ ra ( chi phí tiền gửi, lệ phí ngân hàng…) để thu được những khoản lãi cho ngân hàng. Không chỉ có rất quan trọng đối với ngân hàng mà cho vay còn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nền kinh tế. Cùng với sự mở cửa và hội nhập của đất nước thì nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của các cá nhân, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế ngày càng lớn. Vậy họ sẽ lấy vốn ở đâu ra để thực hiện? Ngoài vốn tự có của bản thân, vay mượn của bạn bè, đóng góp của các thành viên thì nhiều cá nhân doanh nghiệp đã đi từ các NHTM. Với tư cách là người cho vay, các ngân hàng đã đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Các NHTM đã sử dụng nghiệp vụ cho vay kết hợp hài hoà với nghiệp vụ huy động tiền gửi để tạo nên một dòng luân chuyển vốn từ những người tạm thời có vốn nhàn rỗi trong xã hội đến những người có nhu cầu vay vốn. Doanh nghiệp cần vốn để khởi đầu, để duy trì và mở mạng hoạt động. Tuy nhiên ngay trong bản thân các doanh nghiệp đã xảy ra tình trạng mất cân bằng các luồng ngân quỹ, họ cần bỏ ra các khoản chi phí trước khi có thu nhập tạo ra từ việc bán các sản phẩm và dịch vụ. Việc mua sắm các trang thiết bị phục vụ sản xuất, thuê mướn nhân công, đào tạo nhân lực, phát triển địa điểm kinh doanh mới, tạo ra các sản phẩm mới …sẽ không khả thi nếu không được sự hỗ trợ kịp thời của các khoản cho vay kinh doanh. Hay những người nông dân nhỏ vay vốn để có khả năng mua hạt giống, thức ăn, phân bón và nhiều nhu cầu cần thiết khác cho trồng trọt chăn nuôi, thu hoạch trên đồng ruộng của mình. Bằng nghiệp vụ cho vay, các NHTM đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình, gián tiếp làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng, nhiều ngàng nghề sản xuát được củng cố, ổn định, được cả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 841.DOC