Chuyên đề Nâng cao chất lượng thẩm định cho vay tại hội sở ngân hàng thương mại cổ phần quân đội

Trước khi đi vào tính toán dòng tiền của dự án, các ngân hàng cần phải tiến hành thẩm định tính hợp lý của các bảng dự trù tài chính được trình bày trong luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án. Có ba bảng dự trù tài chính mà các ngân hàng quan tâm đó là: Bảng dự tính mức lãi lỗ (doanh thu – chi phí), bảng dự trù cân đối kế toán và bảng dự tính cân đối thu chi của dự án. Khi thẩm định các bảng dự trù tài chính, các ngân hàng tiến hành việc phân tích sự phù hợp và tính chính xác của các chỉ tiêu so với các định mức kinh tế kỹ thuật của Nhà nước, của ngành và của bản thân dự án. Nếu phát hiện thấy sự bất hợp lý, ngân hàng sẽ xây dựng lại hoặc tư vấn để các doanh nghiệp chủ động xem xét lại các bảng dự trù tài chính nhằm đảm bảo tính khoa học của các thông số kinh tế kỹ thuật được đưa ra trong dự án. Đây là một nội dung có ảnh hưởng quan trọng khi thẩm định dự án đầu tư vì các bảng dự trù tài chính là cơ sở để xây dựng bảng tính dòng tiền của dự án, từ đó tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án.

doc117 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1511 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng thẩm định cho vay tại hội sở ngân hàng thương mại cổ phần quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i vay vốn...Đây là nội dung đầu tiên được xem xét khi thẩm định dự án.Nếu coi nhẹ hoặc bỏ qua nội dung nào gây khó khăn cho việc thực hiện dự án.Đã có những dự ấn phải ngừng hoạt động khi chưa hết thời hận do chủ đầu tư không đủ năng lực về tài chính và năng lực kinh doanh. + thẩm định sự phù hîp của dự án với các văn bản quy định của pháp luật,các quy định,chế độ khuyến khích ưa đãi. + thẩm định các nhu cầu sử dụng đất,tài nguyên,khả năng giải phóng mặt bằng. 4.2. Thẩm định sự cần thiết phải đầu tư và mục tiêu của dự án. - Mỗi một dự án, đánh giá được sự cần thiết phải đầu tư và những mục tiêu mà dự án cần đạt được là mối quan tâm hàng đầu của người thẩm định. Cụ thể, người thẩm định cần phải nắm bắt được những nội dung chủ yếu sau đây: - Mục tiêu của dự án có phù hợp và đáp ứng mục tiêu của ngành, của địa phương và của cả nước không? - Đánh giá về sự cần thiết phải phát triển doanh nghiệp trước những đòi hỏi ngày càng cao và đa dạng của thị trường? Dự án nếu được thực hiện sẽ mang lại lợi ích cho chủ đầu tư, cho nền kinh tế - xã hội như thế nào? - Đánh giá quan hệ cung cầu của sản phẩm hiện tại và dự đoán trong tương lai, từ đó xác định được khả năng tham gia thị trường cũng như tiềm năng phát triển của dự án. Nếu là đầu tư để cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất của doanh nghiệp hiện có thì đánh giá về trình độ sản xuất, chất lượng quy cách, giá cả sản phẩm trước và sau khi đầu tư. Phân tích năng lực máy móc, thiết bị, quy mô sản xuất hiện có so với nhu cầu thị trường hiện tại, từ đó, nêu bật lên sự cần thiết phải đầu tư để đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Nếu dự án được thực hiện thì sẽ đem lại những lợi ích cụ thể gì cho địa phương, cho ngành và cho nền kinh tế quốc dân? Nhìn một cách tổng thể, các dự án có rất nhiều mục tiêu khác nhau cần phải đạt được. Tuy nhiên, đối với một dự án sản xuất kinh doanh thì mục tiêu quan trọng nhất là tối đa hóa giá trị doanh nghiệp từ đồng vốn đầu tư. Bên cạnh đó, dự án có thể giải quyết nhiều mục tiêu khác như tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo sản phẩm thay thế nhập khẩu, xuất khẩu tăng thu ngoại tệ hoặc đem lại những lợi ích kinh tế xã hội khác,… 4.3. Thẩm định phương diện thị trường của dự án. Nghiên cứu thị trường trong dự án đầu tư xuất phát từ việc nắm bắt các thông tin và nhu cầu của giới tiêu thụ để quyết định sản xuất mặt hàng gì, quy cách phẩm chất thế nào, khối lượng là bao nhiêu, lựa chọn phương thức bán, phương thức tiếp cận thị trường như thế nào để tạo chỗ đứng cho sản phẩm trên thị trường hiện tại và tương lai. Thực tế cho thấy, trong nền kinh tế thị trường, sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là rất lớn, khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng chiếm lĩnh và mở rộng thị trường quyết định trực tiếp đến sự thành bại của dự án. Do đó, việc chủ đầu tư nghiên cứu kỹ về nội dung thị trường và NHTM thẩm định lại những luận cứ của chủ đầu tư đã đưa ra là hết sức cần thiết để có thể khẳng định tính vững chắc về mặt thị trường của dự án. Mục đích của việc thẩm định thị trường là xác định và đánh giá xem dự án đầu tư sẽ khai thác sản phẩm nào là có triển vọng nhất, khu vực nào sẽ tiêu thụ các sản phẩm đó. Trên cơ sở nghiên cứu về thị trường như quy mô tiêu thụ hiện tại, tình hình cạnh tranh,…cán bộ thẩm định sẽ khẳng định được về khả năng tiêu thụ của sản phẩm đồng thời đánh giá được tính đúng đắn về chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả, chiến lược phân phối sản phẩm và chiến lược khuyến thị của dự án. Nội dung thẩm định thị trường bao gồm các vấn đề sau: a. Đánh giá tổng quan về nhu cầu sản phẩm dự án. + Cần xác định rõ thị trường của dự án là thị trường trong nước, nước ngoài hay cả hai thị trường đó. Trên cơ sở định hướng thị trường cần tiếp tục nghiên cứu phân tích đến tình hình dân số, tốc độ tăng dân số, khả năng thu nhập và thị hiếu, tập quán tiêu dùng của người dân từng khu vực,…Từ đó hình thành nên định hướng sản xuất sản phẩm cũng như cách thức phân phối bán hàng đến từng khu vực để đạt hiệu quả cao nhất. + Phân tích quan hệ cung – cầu đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án. + Định dạng sản phẩm của dự án. + Đặc tính của nhu cầu đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án. Tình hình sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ thay thế đến thời điểm thẩm định. + Xác định tổng nhu cầu hiện tại và dự đoán nhu cầu tương lai đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án, ước tính mức tiêu thụ gia tăng hàng năm của thị trường nội địa và khả năng xuất khẩu sản phẩm dự án trong đó lưu ý liên hệ với mức gia tăng trong quá khứ, khả năng sản phẩm dự án có thể bị thay thế bởi các sản phẩm khác có cùng công dụng. + Trên cơ sở phân tích quan hệ cung cầu, tín hiệu của thị trường đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án, đưa ra nhận xét về thị trường tiêu thụ đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án, nhận định về sự cần thiết và tính hợp lý của dự án đầu tư trên các phương diện như: Sự cần thiết phải đầu tư trong giai đoạn hiện nay Sự hợp lý của quy mô đầu tư, cơ cấu sản phẩm Sự hợp lý về việc triển khai thực hiện đầu tư (phân kỳ đầu tư, mức huy động công suất thiết kế) b. Đánh giá về cung sản phẩm. - Xác định năng lực sản xuất, cung cấp đáp ứng nhu cầu trong nước hiện tại của sản phẩm dự án như thế nào, các nhà sản xuất trong nước đã đáp ứng được bao nhiêu phần trăm, phải nhập khẩu bao nhiêu. Việc nhập khẩu là do sản xuất trong nước chưa đáp ứng được hay sản phẩm nhập khẩu có ưu thế cạnh tranh hơn. Dự đoán biến động của thị trường trong tương lai khi có các dự án khác, đối tượng khác cùng tham gia vào thị trường sản phẩm và dịch vụ đầu ra của dự án. Sản lượng nhập khẩu trong những năm qua, dự kiến khả năng nhập khẩu trong thời gian tới. Dự đoán ảnh hưởng của các chính sách xuất nhập khẩu khi Việt Nam gia nhập các tổ chức khu vực và quốc tế như AFTA, WTO, APEC, Hiệp định thương mại Việt – Mỹ đến thị trường sản phẩm của dự án. Đưa ra số liệu dự kiến về tổng cung, tốc độ tăng trưởng về tổng cung sản phẩm, dịch vụ. c. Thị trường mục tiêu và khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án. Trong nền kinh tế thị trường, khả năng độc quyền sản xuất và phân phối một mặt hàng nào đó là rất hiếm có. Thường có rất nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất và kinh doanh một số sản phẩm tương tự như nhau. Ngoài ra, xu hướng tự do hóa thương mại trên thế giới phát triển một cách nhanh chóng dẫn đến khả năng hàng hóa của các nước khác nhau có cơ hội thâm nhập vào thị trường Việt Nam ngày càng nhiều. Điều này tạo nên một sức cạnh tranh gay gắt trên thị trường nước ta hiện nay và trong những năm sắp tới. Xuất phát từ thực tiễn trên, trong công tác thẩm định dự án đầu tư, cán bộ thẩm định cần tập trung phân tích một số điểm sau đây: * Đối với thị trường nội địa: Đã có những sản phẩm của các doanh nghiệp nào đang được tiêu thụ trên thị trường, hình thức, mẫu mã, chất lượng sản phẩm của dự án so với các sản phẩm đó, có ưu điểm gì không. Các doanh nghiệp đó đang áp dụng phương thức cạnh tranh chủ yếu nào, cạnh tranh qua giá bán hay qua chất lượng sản phẩm, qua phương thức phân phối, qua chế độ hậu mãi,… * Đối với thị trường nước ngoài: + Cán bộ thẩm định cần nắm bắt tình hình và triển vọng trong quan hệ kinh tế và chính trị giữa Việt Nam và những nước dự kiến sẽ nhập khẩu sản phẩm của dự án. + Những quy định và mức độ khắt khe của thị trường nhập khẩu về tiêu chuẩn chất lượng, về bao bì, về vệ sinh thực phẩm,… + Mức độ gay gắt về cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu, yếu tố nào được các nhà sản xuất khác sử dụng trong cạnh tranh trên thị trường đó: giá cả, chất lượng hàng hóa, phương thức phân phối, phương thức thanh toán hay sức mạnh quảng cáo. Trên cơ sở các thông tin thu thập được, đối với Ngân hàng, khi thẩm định phương diện thị trường phải tập trung phân tích: - Khả năng tiêu thụ sản phẩm, xem xét tính chính xác, trung thực của các số liệu thông tin dựa vào luận chứng kinh tế kỹ thuật trên các mặt: giá cả, quy cách phẩm chất, mẫu mã hàng hóa, thị hiếu người tiêu dùng, đặc biệt đối với thị trường nước ngoài. - Tình hình tiêu thụ sản phẩm cùng loại trong thời gian qua. Kinh nghiệm của đơn vị trong quan hệ thị trường về sản phẩm, khả năng nắm bắt các thông tin về thị trường quản lý xuất nhập khẩu của các nước có quan hệ. - Các hợp đồng tiêu thụ hoặc bao tiêu sản phẩm về số lượng, chủng loại, giá cả, thời gian và phương thức thanh toán. - Các văn bản giao dịch về sản phẩm như đơn đặt hàng, hiệp định đã ký, các biên bản đàm phán. Chú ý tính hợp lý, hợp pháp và mức độ tin cậy của các văn bản nói trên, tránh những trường hợp giả mạo, rủi ro có thể xảy ra. Về phương thức tiêu thụ hàng hóa cần tính toán để không nên chỉ bán hàng cho một thị trường hoặc một nhà tiêu thụ duy nhất mà cần chiếm lĩnh nhiều thị trường, tạo lập nhiều đầu mối tiêu thụ để chủ động bán được nhiều hàng hóa, tránh ép giá và ứ đọng hàng. Nếu các kết quả phân tích trên cho thấy nhu cầu của thị trường chỉ mang tính nhất thời hay đang dần dần bị thu hẹp lại thì cần phải hết sức thận trọng khi bỏ vốn đầu tư cho dự án. d. Phương thức tiêu thụ và mạng lưới phân phối: Xem xét, đánh giá trên các mặt: - Sản phẩm của dự án dự kiến được tiêu thụ theo phương thức nào, có cần hệ thống phân phối không. - Mạng lưới phân phối của sản phẩm dự án đã được xác lập hay chưa, mạng lưới phân phối có phù hợp với đặc điểm của thị trường hay không. Cần lưu ý trong trường hợp sản phẩm là hàng tiêu dùng, mạng lưới phân phối đóng vai trò khá quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm nên cần được xem xét, đánh giá kỹ. Cán bộ thẩm định cũng phải ước tính chi phí thiết lập mạng lưới phân phối khi tính toán hiệu quả của dự án. - Phương thức bán hàng trả chậm hay trả ngay để dự kiến các khoản phải thu khi tính toán nhu cầu vốn lưu động ở phần tính toán hiệu quả dự án. Nếu việc tiêu thụ chỉ dựa vào một số đơn vị phân phối thì cần có nhận định xem có thể xảy ra việc bị ép giá hay không. Nếu đã có đơn hàng cần xem xét tính hợp lý, hợp pháp và mức độ tin cậy khi thực hiện. e. Đánh giá, dự kiến khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án. Trên cơ sở đánh giá thị trường tiêu thụ, công suất thiết kế và khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án, cán bộ thẩm định phải đưa ra được các dự kiến về khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án sau khi đi vào hoạt động theo các chỉ tiêu chính sau: Sản lượng sản xuất, tiêu thụ hàng năm, sự thay đổi cơ cấu sản phẩm nếu dự án có nhiều loại sản phẩm. Diễn biến giá bán sản phẩm, dịch vụ đầu ra hàng năm. 4.4. Nghiên cứu và thẩm định phương diện kỹ thuật. Đảm bảo kỹ thuật cho một dự án là một nội dung quan trọng. Trong điều kiện nhất định về vốn, về thị trường, về điều kiện xã hội, lựa chọn công nghệ và trang thiết bị, nguyên liệu phù hợp, lựa chọn địa điểm xây dựng của dự án tối ưu chẳng những thỏa mãn các yêu cầu kinh tế kỹ thuật dự án đề ra mà còn tránh gây ô nhiễm môi trường và thuận lợi trong việc tiêu thụ sản phẩm. Cho nên, nghiên cứu kỹ thuật của dự án thực sự góp phần rất quan trọng vào việc đảm bảo tính khả thi của dự án. Khi nghiên cứu và thẩm định phương diện kỹ thuật phải xem xét, phân tích trên các mặt chính sau: a. Thẩm định về địa điểm xây dựng Đây là một khâu quan trọng ban đầu và cũng rất khó khăn. Để đảm bảo sự hoạt động của công trình về sau thì việc lựa chọn địa điểm xây dựng phải đảm bảo được các yêu cầu sau: Gần nơi cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu hoặc nơi tiêu thụ chính. Giao thông thuận tiện, chi phí vận chuyển, bốc dỡ hợp lý. Thuận tiện đi lại cho cán bộ công nhân viên nhà máy. Tận dụng được cơ sở hạ tầng sẵn có: đường sá, bến cảng, điện, nước,…để tiết kiệm chi phí đầu tư. Mặt bằng phải phù hợp với quy mô hiện tại và dự phòng khả năng dự án phát triển, mở rộng trong tương lai. Đảm bảo yêu cầu vệ sinh công nghiệp, xử lý ô nhiễm môi trường, phòng cháy, chữa cháy,… Địa điểm xây dựng phải tuân thủ các văn bản quy định của Nhà nước về quy hoạch, đất đai, kiến trúc xây dựng (có giấy phép của cấp có thẩm quyền). Cần tính toán đầy đủ chi phí đền bù, di dân, giải phóng mặt bằng, san lấp tạo nền móng cho công trình có thể đi vào xây dựng. Thông thường một dự án có thể dự kiến nhiều địa điểm xây dựng khác nhau. Mỗi địa điểm có những thuận lợi và khó khăn riêng. Cần tập trung phân tích những thuận lợi và khó khăn theo các tiêu chuẩn đã nêu trên, từ đó lựa chọn được phương án tối ưu. b. Thẩm định quy mô công suất của dự án. Công suất của dự án là khả năng tạo ra sản lượng sản phẩm và dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định như một tháng, một quí hoặc một năm. Công suất của dự án bao gồm các loại sau: Công suất lý thuyết: Công suất lý thuyết là công suất lớn nhất mà dự án có thể thực hiện được trong điều kiện sản xuất lý thuyết. Điều kiện sản xuất lý thuyết được hiểu theo giả thiết là máy móc hoạt động liên tục, không bị gián đoạn vì bất kỳ lý do nào. Công suất lý thuyết mang tính chất tham khảo, khó có thể đạt được. Công suất thiết kế: Công suất thiết kế là công suất mà dự án đạt được trong điều kiện sản xuất bình thường. Điều kiện sản xuất bình thường được hiểu là máy móc thiết bị hoạt động theo đúng quy trình công nghệ, không bị ngừng vì những lý do không được dự tính trước, các yếu tố đầu vào được cung cấp đầy đủ, kịp thời. Công suất thiết kế của dự án được tính dựa vào công suất thiết kế của máy móc, thiết bị chủ yếu trong một giờ cùng với số giờ, số ca và số ngày làm việc. Khi tính công suất thiết kế một năm, thông thường số ngày làm việc trong năm lấy bằng 360 ngày, còn số ca/ngày, số giờ/ca lấy theo dự tính trong dự án. Công suất thực tế: Công suất thực tế là công suất đạt được trong điều kiện sản xuất cụ thể của dự án. Điều kiện sản xuất cụ thể của dự án được hiểu là sự chi phối của các yếu tố như: sự thành thạo của người công nhân, kinh nghiệm tổ chức sản xuất, khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào và các trục trặc kỹ thuật khác. Công suất thực tế được xác định trên cơ sở công suất thiết kế. Công suất tối thiểu: Công suất tối thiểu là công suất tạo ra mức sản phẩm tối thiểu cần thiết để dự án không bị lỗ. Đây là công suất tương ứng với điểm hòa vốn. Nếu sản lượng sản phẩm dưới mức sản lượng hòa vốn thì chi phí cố định cho một đơn vị sản phẩm sẽ gia tăng, khiến giá thành cao, từ đó việc sản xuất trở thành không kinh tế nữa, mặc dù về mặt chất lượng kỹ thuật có thể vẫn đảm bảo. Phân tích về quy mô công suất của dự án chủ yếu căn cứ vào các yếu tố sau: Mức độ yêu cầu của thị trường hiện tại và tương lai đối với các loại sản phẩm của dự án. Khả năng chiếm lĩnh thị trường của dự án. Khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào của sản xuất, nhất là các loại nguyên vật liệu phải nhập khẩu. Khả năng mua được các thiết bị công nghệ có công suất phù hợp. Khả năng đáp ứng về vốn đầu tư và năng lực quản lý của doanh nghiệp. c. Thẩm định về công nghệ và trang thiết bị. Công nghệ và thiết bị của dự án là nhân tố quyết định chủ yếu đến chất lượng sản phẩm. Do đó, trong thẩm định dự án đầu tư, đây là vấn đề cần được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, đối với cán bộ thẩm định của NHTM, quá trình phân tích về công nghệ và thiết bị thường gặp phải những khó khăn nhất định chủ yếu là do không được đào tạo chuyên môn kỹ thuật và thiếu các thông tin cần thiết về công nghệ - kỹ thuật. Để khắc phục tình trạng này, có thể áp dụng cơ chế thuê chuyên gia trong thẩm định nội dung kỹ thuật tuy nhiên, cán bộ thẩm định cũng cần phân tích, đánh giá được một số vấn đề như sau: Lý do lựa chọn công nghệ thiết bị hiện tại. Công nghệ thiết bị đó là của nước nào. Quy trình công nghệ có tiên tiến, hiện đại không, ở mức độ nào của thế giới. Công nghệ có phù hợp với trình độ hiện tại của Việt Nam hay không, có khả năng tạo ra sản phẩm có chất lượng phù hợp với yêu cầu của thị trường đòi hỏi không. Phương thức chuyển giao công nghệ có hợp lý hay không, có đảm bảo cho chủ đầu tư nắm bắt và vận hành được công nghệ hay không. Giá cả thiết bị và phương thức thanh toán có hợp lý, đáng ngờ không. Thời gian giao hàng và lắp đặt thiết bị có phù hợp với tiến độ thực hiện dự án dự kiến hay không. Uy tín của các nhà cung cấp thiết bị, các nhà cung cấp thiết bị có chuyên sản xuất các thiết bị của dự án hay không. Nếu là thiết bị cũ thì có đảm bảo các tiêu chuẩn mà Nhà nước đã quy định với các loại công nghệ và thiết bị đã qua sử dụng không. Thẩm định số lượng, công suất, quy cách, chủng loại danh mục thiết bị, tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất, năng lực hiện có của doanh nghiệp so với quy mô của dự án. Đối với thiết bị nhập ngoại cần qua đấu thầu cạnh tranh quốc tế hoặc chọn thầu nhằm bảo đảm chất lượng và giá cả. Kiểm tra các hợp đồng cung ứng, các bản chào hàng, xem xét phương thức thanh toán,…tránh các sơ hở gây thiệt hại cho chủ đầu tư và Ngân hàng tài trợ vốn. d. Thẩm định về việc cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào khác. Trên cơ sở hồ sơ dự án (báo cáo chất lượng, trữ lượng tài nguyên, giấy phép khai thác tài nguyên, nguồn thu mua bên ngoài, nhập khẩu,…) và đặc tính kỹ thuật của dây chuyền công nghệ, đánh giá khả năng cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cho dự án: + Nhu cầu về nguyên vật liệu đầu vào để phục vụ sản xuất hàng năm. + Các nhà cung ứng nguyên vật liệu đầu vào: một hay nhiều nhà cung cấp, đã có quan hệ từ trước hay mới thiết lập, khả năng cung ứng, mức độ tín nhiệm. + Chính sách nhập khẩu đối với các nguyên liệu đầu vào (nếu có). + Biến động về giá mua, nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào, tỷ giá trong trường hợp phải nhập khẩu. Tất cả những phân tích, đánh giá trên nhằm kết luận được hai vấn đề chính sau: _Dự án có chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào hay không. _Những thuận lợi, khó khăn đi kèm với việc để có thể chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào. e. Thẩm định về quy mô, giải pháp xây dựng công trình. Những vấn đề cần quan tâm phân tích trong thẩm định nội dung này là: Xem xét quy mô xây dựng, giải pháp kiến trúc có phù hợp với dự án hay không, có tận dụng được các cơ sở vật chất hiện có hay không. Tổng dự toán/dự toán của từng hạng mục công trình, có hạng mục nào cần đầu tư mà chưa được dự tính hay không, có hạng mục nào không cần thiết hoặc chưa cần thiết phải đầu tư hay không. Tiến độ thi công có phù hợp với việc cung cấp máy móc thiết bị, có phù hợp với thực tế hay không. Vấn đề hạ tầng cơ sở: giao thông, điện, cấp thoát nước,… f. Thẩm định về môi trường, phòng cháy chữa cháy. Xem xét, đánh giá các giải pháp về môi trường, phòng cháy chữa cháy của dự án có đầy đủ, phù hợp chưa, đã được các cơ quan có thẩm quyền chấp thuận trong trường hợp yêu cầu phải có hay chưa. Trong phần này, cán bộ thẩm định cần phải đối chiếu với các quy định hiện hành về việc dự án có phải lập, thẩm định và trình duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, phòng cháy chữa cháy hay không. g. Kiểm tra tính hợp lý về kế hoạch tiến độ thực hiện dự án. Đây là yếu tố quan trọng liên quan đến kế hoạch sử dụng vốn, kế hoạch sản xuất và kế hoạch giải ngân, thu nợ của ngân hàng. Xác định thứ tự ưu tiên, tập trung vốn đầu tư hoàn thành dứt điểm từng phần để đưa vào sử dụng; trước hết là để các hạng mục công trình sản xuất, tiếp đến các hạng mục phụ trợ, cuối cùng đến các hạng mục phi sản xuất. Tính toán để hoàn thành các hạng mục cần thiết có thể đưa dự án vào hoạt động từng bộ phận, cố gắng đảm bảo thi công xong đến đâu đưa vào sản xuất đến đó. Tránh hiện tượng thi công dàn đều không hiệu quả, thậm chí có khả năng thiếu vốn, thiếu nguyên liệu. 4.5. Thẩm định phương diện tổ chức quản trị nhân sự của dự án. Con người và bộ máy tổ chức hoạt động của nó là những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của kinh doanh. Bởi vậy, tính khả thi của một dự án phụ thuộc rất nhiều vào công tác tổ chức điều hành, vào việc xác định chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ tác nghiệp giữa các bộ phận chức năng. Ngoài ra còn phụ thuộc vào số lượng, chất lượng và cơ cấu nhân sự xác định cho dự án. Từ những nguyên nhân trên, bất cứ một luận chứng kinh tế kỹ thuật nào cũng phải được nghiên cứu nghiêm túc nội dung tổ chức quản trị và nhân sự bao gồm: a. Hình thức kinh doanh Là doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp của các đoàn thể, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn,…Các văn bản pháp lý chi phối loại hình kinh doanh. b. Cơ chế điều hành Dự án có nhiều hay một đơn vị tham gia xây dựng điều hành, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ, sự phối hợp các bên, thành phần Hội đồng quản trị, quyền hạn, trách nhiệm. mô hình tổ chức được lựa chọn xuất phát từ nhu cầu sản xuất kinh doanh và nhu cầu vận hành của dự án, chủ đầu tư cần thuyết minh các giải pháp bố trí nhân sự cho dự án: Dự trù cơ cấu ngành nghề và năng lực người lao động (như kỹ sư, các cán bộ điều hành, các công nhân lành nghề, công nhân phổ thông,…). Mỗi loại có bao nhiêu người, số người này được bố trí cụ thể và các bộ phận như thế nào. Trên cơ sở lao động đã được phân loại, phải dự kiến được mức lương cơ bản theo từng chức danh, bậc thợ cụ thể. Từ đó xác định được tổng quỹ lương của doanh nghiệp. Xác định sự cần thiết phải đào tạo các cán bộ quản lý, các kỹ thuật viên, công nhân sản xuất,…cho dự án. Xem xét kế hoạch đào tạo một cách cụ thể: cần đào tạo bao nhiêu người, đào tạo ở đâu, thời gian và kinh phí là bao nhiêu. Xác định sự cần thiết phải thuê chuyên gia cho dự án. Cụ thể là phải thuê chuyên gia cho những vị trí công tác nào, số chuyên gia cần thuê, thời gian và chi phí là bao nhiêu. Khi thẩm định về quản trị và nhân sự của dự án, cần xem xét khả năng chuyên môn, kinh nghiệm quản lý của các thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, ban Giám đốc, và các thành viên quan trọng khác…Đó chính là những điều kiện quan trọng góp phần đảm bảo thành công cho dự án. 4.6. Thẩm định phương diện tài chính của dự án. Tài chính là nội dung quan trọng của dự án vì xét cho cùng, nó thể hiện được hiệu quả của việc đầu tư dự án thông qua các chỉ tiêu tài chính. Do đó, nội dung tài chính của dự án được chủ đầu tư và NHTM tài trợ vốn đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, vấn đề tài chính của dự án phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, mà trước hết là yếu tố thị trường, các giải pháp công nghệ - kỹ thuật và quản trị quá trình thực hiện dự án. Như vậy, thẩm định tốt nội dung thị trường và kỹ thuật của dự án là cơ sở quan trọng để đảm bảo cho thẩm định tài chính được tiến hành một cách thuận lợi. Nghiên cứu và thẩm định phương diện tài chính cần đi sâu vào các nội dung sau: a. Thẩm định tổng mức vốn đầu tư cho dự án. Tổng mức vốn đầu tư là toàn bộ chi phí đầu tư và xây dựng (kể cả vốn sản xuất ban đầu) và là giới hạn chi phí tối đa của dự án được xác định trong quyết định đầu tư. Tổng mức vốn đầu tư được xác định dựa trên cơ sở năng lực sản xuất theo thiết kế, khối lượng các công tác chủ yếu và sản xuất đầu tư, giá chuẩn hay đơn giá tổng hợp do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Việc thẩm định tổng vốn đầu tư là rất quan trọng để tránh việc khi thực hiện, vốn đầu tư tăng lên hoặc giảm đi quá lớn so với dự kiến ban đầu, dẫn tới việc không cân đối được nguồn, ảnh hưởng đến hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án. Xác định tổng vốn đầu tư sát thực tế sẽ là cơ sở để tính toán hiệu quả tài chính và dự kiến khả năng trả nợ của dự án. Trong phần này, cán bộ thẩm định phải xem xét, đánh giá tổng vốn đầu tư của dự án đã được tính toán hợp lý hay chưa, tổng vốn đầu tư đã tính đủ các khoản cần thiết hay chưa, cần xem xét các yếu tố làm tăng chi phí do trượt giá, phát sinh thêm khối lượng, dự phòng việc thay đổi tỷ giá ngoại tệ nếu dự án có sử dụng ngoại tệ. Thông thường, kết quả phê duyệt tổng vốn đầu tư của các cấp có thẩm quyền là hợp lý. Tuy nhiên, trên cơ sở những dự án tương tự đã thực hiện và được Ngân hàng đúc rút ở giai đoạn thẩm định dự án sau đầu tư (về suất vốn đầu tư, phương án công nghệ, các hạng mục cần thiết và chưa thực sự cần thiết trong giai đoạn thực hiện đầu tư,…), cán bộ thẩm định sau khi so sánh nếu thấy có sự khác biệt lớn ở bất kỳ một nội dung nào thì phải tập trung phân tích, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra nhận xét. Từ đó đưa ra cơ cấu vốn đầu tư hợp lý mà vẫn đảm bảo được mục tiêu dự kiến ban đầu của dự án để làm cơ sở xác định mức tài trợ tối đa mà Ngân hàng nên tham gia. Trường hợp dự án mới ở giai đoạn chủ trương, hoặc tổng mức vốn đầu tư mới ở giai đoạn khái toán, cán bộ thẩm định phải dựa vào số liệu thống kê, đúc rút ở giai đoạn thẩm định sau đầu tư để nhận định, đánh giá và tính toán. Tổng vốn đầu tư bao gồm: Vốn đầu tư xây lắp. Vốn đầu tư thiết bị. Vốn lưu động. Dự phòng vốn đầu tư. *Khi thẩm định về tổng mức vốn đầu tư cho dự án, ngân hàng cần xem xét: + Đối với vốn đầu tư xây lắp: Khi tính toán thường được ước tính trên cơ sở khối lượng xây dựng phải thực hiện và đơn giá xây lắp tổng hợp. Khi kiểm tra cần lưu ý: .Kiểm tra những công việc có tính chất trùng lắp. .Những công việc không nằm trong thành phần chi phí xây lắp. .Kiểm tra tính đúng đắn và tính hiện hành của các định mức, đơn giá sử dụng trong dự án. + Đối với vốn đầu tư thiết bị: Đây là loại vốn chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong các công trình sản xuất công nghiệp, thường chiếm tới 60 - 70% tổng mức vốn đầu tư. Vì vậy đối với ngân hàng, khi tiến hành kiểm tra cần chú ý: Kiểm tra lại d

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21742.doc
Tài liệu liên quan