Chuyên đề Nghiên cứu thống kê tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Dệt Minh Khai thời kỳ 1995-2003

Trong giai đoạn đầu mới thành lập Công ty thực hiện việc sản xuất kinh doanh theo kế hoạch Nhà nước giao nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa. Do đó Công ty chỉ quan tâm đến việc hoàn thành kế hoạch được giao mà không cần quan tâm đếm mẫu mã chủng loại, thị hiếu khách hàng

Khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì các doanh nghiệp phải tự hoạch định kế hoạch và hạch toán kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Vì vậy, theo xu thế chung của đất nước Công ty Dệt Minh Khai cũng đã thực hiện việc chuyển hướng sản xuất kinh doanh từ chỗ phục vụ nhu cầu nội địa là chủ yếu sang sản xuất phục vụ chủ yếu nhu cầu xuất khẩu. thị trường chính của Công ty là các nước Nhật Bản và một số nước Đông Âu, thị trường EU Công ty phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác để tìm kiếm khách hàng, tìm kiếm thị trường trong nước cũng như ngoài nước cũng đều gặp khó khăn.

 

doc75 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1555 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nghiên cứu thống kê tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Dệt Minh Khai thời kỳ 1995-2003, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác mức độ nghiên cứu là những số tuyệt đối thời kỳ, vì thế độ dài của khoảng cách thời gian có ảnh hưởng đến trị số của chỉ tiêu. Do đó ta có thể cộng trừ các trị số của chỉ tiêu để phản ánh quy mô của hịên tượng trong những khoảng thời gian dài hơn. Qua dãy số thời gian có thể nghiên cứu các đặc điểm về sự biến động của kim ngạch xuất khẩu, vạch rõ xu hướng và tính quy luật của sự phát triển đồng thời dự đoán ngắn hạn kim ngạch xuất khẩu, trong tương lai như dựa vào mức độ trung bình, lượng tăng giảm, tốc độ phát triển… 3.Phương pháp chỉ số Chỉ số là một số tương đối được biểu hiện bằng lần hoặc % tính bằng cách so sánh hai mức độ của hiện tượng. Phương pháp chỉ số có tác dụng nêu lên sự biến động của hiện tượng qua thời gian như chỉ số giá theo thời gian. Phương pháp chỉ số có tác dụng nêu lên sự biến động của hiện tượng qua không gian. Phương pháp chỉ số có tác dụng nêu lên nhiệm vụ kế hoạch xuất khẩu của doanh nghiệp và tình hình thực hiện kế hoạch đó. Phương pháp chỉ số có tác dụng phân tích ảnh hưởng biến động của từng nhân tố đối với sự biến động của toàn bộ hiện tượng như doanh thu xuất khẩu phụ thuộc vào hai nhân tố: giá bán đơn vị và lượng hàng hoá tiêu thụ. Như vậy phương pháp chỉ số có tác dụng tổng hợp sự biến động và phân tích các nhân tố gây nên sự biến động đó. Căn cứ vào tính chất của từng chỉ tiêu nghiên cứu có các chỉ số chỉ tiêu chất lượng và chỉ số chỉ tiêu khối lượng: + Chỉ số chỉ tiêu số lượng nói lên biến động của các chỉ tiêu khối lượng như lượng hàng hoá xuất khẩu. + Chỉ số chỉ tiêu chất lượng nói lên biến động của các chỉ tiêu chất lượng như giá xuất khẩu. Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu khác nhau mà chúng ta sử dụng mỗi loại chỉ số thích hợp. Ngoài ra khi nghiên cứu biến động của các thành phần tới tổng thể chúng ta còn sử dụng hệ thống chỉ số để nhằm xác định vai trò và ảnh hưởng của mỗi nhân tố đối với biến động của hiện tượng nhiều yếu tố. 4. Phương pháp hồi quy- tương quan Theo quan điểm của duy vật biện chứng thì các hiện tượng tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và nhiều vẻ, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Không có một hiện tượng nào phát sinh phát triển một cách cô lập, tách rời các hiện tượng khác. Vì vậy, việc nghiên cứu các mối liên hệ là một trong những nhiệm vụ quan trọng của thống kê. Trên cơ sở dãy số thời gian, người ta tìm ra một hàm số (gọi là phương trình hồi quy) để phản ánh sự biến động của hiện tượng qua thời gian. Yt : múc độ lý thuyết ao, a1…. an :các tham số t: thứ tự thời gian Để lựa chọn đúng đắn các dạng phương trình hồi quy đòi hổi phải dựa vào sự phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng qua thời gian, đồng thời kết hợp một số phương pháp đơn giản khác như dựa vào đồ thị, dựa vào đọ tăng giảm tuyệt đối… Trong thống kê xuất khẩu thì phương pháp hồi quy tương quan được thể hiện khi phân tích mối liên hệ chặt chẽ giữa giá (tiêu thức nguyên nhân) và lượng ( tiêu thức kết quả) của những mặt hàng xuất khẩu. Các tham số a,b thường được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất: Đối với dãy số thời gian áp dụng để viết phương trình hồi quy cho tình hình xuất khẩu ta thường áp dụng phương trình bậc nhất: Yx= a*X + b X: trị số của tiêu thức nguyên nhân Y: trị số của tiêu thức kết quả Chương II. Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích hoạt động xuất khẩu của Công ty dệt minh khai thời kỳ (1995-2003) I. khái quát về Công ty Dệt Minh Khai Quá trình hình thành và phát triển của công ty dệt Minh Khai Quá trình hình thành Công ty dệt Minh Khai là một doanh nghiệp Nhà Nước, một đơn vị kinh doanh thuộc sự quản lý của Sở Công Nghiệp Hà Nội thành lập vào năm 1974 theo quyết định của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội với tên gọi là Nhà máy dệt khăn mặt khăn tay. Trước đây Nhà máy Dệt khăn mặt, khăn tay được khởi công xây dựng từ những năm cuối của thập kỷ 1960 cho đến những năm đầu của thập kỷ 1970. Thế nhưng lúc bấy giờ, cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc Việt Nam đang ở giai đoạn ác liệt nhất. Cho nên mãi đến năm 1974 về cơ bản Công ty mới được xây dựng xong và được chính thức thành lập theo quyết định của Uỷ ban nhân dân Thành phố, chính vào năm đó Công ty đã bước đầu đi vào sản xuất thử và đến năm 1975 Nhà máy Dệt khăn mặt khăn tay chính thức nhận kế hoạch Nhà nước giao. Trong thời gian này, nhiệm vụ chủ yếu của Nhà máy Dệt khăn mặt, khăn tay là sản xuất các sản phẩm dệt may như sản xuất: khăn mặt, khăn bông, khăn tắm …nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Sau đó vào năm 1983 đổi tên thành Nhà máy dệt Minh Khai. Vào năm 1992 công ty được thành lập lại theo quyết định 338/TTg của Thủ tướng Chính phủ trong đó toàn bộ số vốn của công ty hoạt động là 8,680 tỷ đồng vốn kinh doanh bao gồm: Vốn ngân sách cấp: 1,3 tỷ đồng Vốn huy động ( vốn vay): 7.38 tỷ đồng Năm 1994 công ty đổi tên thành: Công ty dệt Minh Khai để thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường. Hiện nay tên công ty vẫn được giữ nguyên theo tên gọi năm 1994, đó là: Tên công ty: Công ty dệt Minh Khai Tên giao dịch quốc tế : Minh Khai Textile Company Trụ sở chính: 423 Minh Khai- Hai Bà Trưng- Hà Nội Công ty luôn chú trọng hoàn thiện nhà xưởng, nâng cao máy móc thiết bị, đào tạo thêm lao động mới… làm cho việc sản xuất đi vào ổn định, nâng cao hiệu quả sản xuất… Hiện nay, với diện tích khoảng gần 5 ha, với tổng số cán bộ công nhân viên của Công ty là 1020 người có trong danh sách Số ca làm việc trong ngày: 3 ca ( tuỳ theo phân xưởng ) Số giờ làm việc mỗi ca: 8h Số ngày làm việc trong năm: 350 ngày Đầu năm 2000 nguồn vốn của Công ty là: +Vốn cố định: 10.294.447.616đ +Vốn lưu động: 4.458.512.667đ Hiện nay, nhiệm vụ chủ yếu của Công ty là ngoài việc sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa Công ty còn tiến hành các hoạt động xuất khẩu các sản phẩm ra thị trường thế giới. Do đó, công ty có một vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp Hà nội, tạo công ăn việc làm cho người lao động. 1.2. Quá trình phát triển của Công ty dệt Minh Khai a. Giai đoạn mới thành lập 1974-1980 Trong khoảng thời gian đầu mới được thành lập và chính thức đi vào hoạt động Công ty gặp rất nhiều khó khăn do nhà xưởng xây dựng chưa hoàn thiện, máy móc thiết bị đều do Trung quốc viện trợ, khâu lắp đặt không đồng bộ, có nhiều khâu hoạt đông theo phương pháp thủ công. Ban đầu Công ty chỉ được trang bị với 260 số máy dệt thoi của Trung quốc và tài sản cố định khi đó chỉ có gần 3 triệu đồng. Trong khi đó, lực lượng lao động lành nghề còn thiếu, cán bộ công nhân viên còn thiếu chuyên môn nghiệp vụ,chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Thế nhưng, đội ngũ cán bộ công nhân viên Công ty đã mạnh dạn đưa vào sản xuất mặt hàng khăn bông với nhiều thông số kỹ thuật không có sẵn mà phải vừa làm vừa tìm tòi, nghiên cứu. Vì thế, trong những năm đầu tiến hành sản xuất Công ty chỉ mới đưa vào hoạt động được hơn 100 máy dệt (thừa gần 160 máy dệt thoi ), số cán bộ công nhân viên là 415 người. Năm 1975 Công ty chính thức nhận kế hoạch Nhà nước giao và Công ty tiến hành sản xuất đạt mức: +Sản phẩm chủ yếu đạt gần 2 triệu khăn bao gồm nhiều loại +Giá trị tổng sản lượng gần 2,5 triệu đồng Mặc dù có những khó khăn nhất định vào thời kỳ cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc đang ở giai đoạn ác liệt nhưng cán bộ công nhân viên Công ty đã có những cố gắng nỗ lực nhất định hoàn thành các chỉ tiêu đề ra nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân đồng thời với sự giúp đỡ quan tâm của các lãnh đạo ban ngành thành phố Công ty đã khắc phục những khó khăn, dần đi vào ổn định xây dựng và hoàn thiện dây chuyền sản xuất, lao động được bổ sung cả về số lượng lẫn chất lượng. Do đó mà năng suất lao động và doanh thu ngày càng được tăng thêm. b. Giai đoạn 1981-1989 Giai đoạn này Công ty phát triển với tốc độ cao là do được thành phố đầu tư thêm cho một dây chuyền công nghệ dệt kim đan dọc để dệt các loại vải rèm, tuyn, valide. Do vậy, vào thời điểm này Công ty được giao cùng một lúc quản lý và triển khai thực hiện hai quy trình công nghệ dệt khác nhau là dệt thoi và dệt kim. Để không ngừng nâng cao năng lực sản xuất Công ty đã tập trung đầu tư theo chiều sâu với các biện pháp kinh tế kỹ thuật nhằm đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất, đưa dần toàn bộ những máy móc thiết bị ở khâu đầu dây chuyền sản xuất như: nồi hơi, nồi nấu áp lực, máy nhuộm, máy sợi đi vào hoạt động sản xuất. Do đó mà Công ty đã chấm dứt được tình trạng khâu đầu của dây chuyền sản xuất không hoạt động được phải làm theo phương pháp thủ công. Trong giai đoạn này để giải quyết những khó khăn về nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ, để chủ động sản xuất kinh doanh Công ty đã chủ động chuyển hướng sang việc sản xuất chủ yếu phục vụ cho hoạt động xuất khẩu (ở cả hai thị trường XHCN và TBCN). Năm 1981, công ty đã ký hợp đồng xuất khẩu dài hạn sang nước CHDC Đức và sau đó ký hợp đồng xuất khẩu sang Liên xô. Công ty xuất khẩu sản phẩm khăn sang thị trường Nhật bản vào năm 1983 và từ đó cho đến nay lượng xuất khẩu sang thị trường này ngày càng tăng và đang dần trở thành một thị trường xuất khẩu chính của Công ty trong những năm gần đây. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty từ 1981-1989 luôn đạt mức tăng trưởng cao từ 9-11%/ năm, nhất là với chỉ tiêu doanh thu xuất khẩu. c. Giai đoạn từ 1990 đến nay Trong lúc đó nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế quản lý mới theo tinh thần nghị quyết Đại hội VI và VII của Đảng, tình hình chính trị trên thế giới có nhiều biến động nhất là đối với các nước XHCN. Hệ thống XHCN sụp đổ ở Liên xô và các nước Đông âu đã làm cho nhiều Doanh nghiệp Nhà nước trong đó có Công ty dệt Minh Khai gặp phải nhiều khó khăn. Vì thế, các quan hệ bạn hàng truyền thống của Công ty với các nước này không còn, công ty mất đi một thị trường xuất khẩu quan trọng. Đây là thời kỳ Công ty gặp phải nhiều khó khăn nhất trong suốt quá trình 30 năm hình thành, xây dựng và phát triển Công ty. Máy móc thiết bị của Trung quốc được đầu tư ở giai đoạn trước đã lỗi thời và lạc hậu, vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh còn thiếu nhiều không đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Đội ngũ lao động lành nghề còn thiếu, số lượng lao động quá đông không phù hợp và không dễ thích nghi với cơ chế mới vì đã quá quen với cơ chế bao cấp. Trong lúc nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế quản lý mới theo tinh thần nghị quyết Đại hội VI và VII của Đảng, tình hình chính trị trên thế giới có nhiều biến động nhất là đối với các nước XHCN. Hệ thống XHCN sụp đổ ở Liên xô và các nước Đông âu đã làm cho nhiều Doanh nghiệp Nhà nước trong đó có Công ty dệt Minh Khai gặp phải nhiều khó khăn. Vì thế, các quan hệ bạn hàng truyền thống của Công ty với các nước này không còn, công ty mất đi một thị trường xuất khẩu quan trọng. Đứng trước những khó khăn trên, bằng những cố gắng nỗ lực của cán bộ công nhân viên Công ty, sự quan tâm hỗ trợ nhiệt tình của các ban ngành lãnh đạo thành phố Hà nội và nhất là sự chỉ đạo của sở Công nghiệp Hà nội Công ty đã tập trung giải quyết những vấn đề như: thị trường, vốn, lao động…và không ngừng đầu tư thêm trang thiết bị mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, chăm lo tốt đời sống cán bộ công nhân viên, hoàn thành nhiệm vụ Nhà nước giao. Sau đây là bảng số liệu thống kê tình hình xuất khẩu của Công ty Dệt Minh Khai Bảng 1: Bảng số liệu doanh thu xuất khẩu của Công ty dệt Minh Khai thời kỳ 1995-2003 Năm Chi tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Doanh thu (trđ) 51600 52550 54000 54520 64550 67200 77600 81930 81930 Doanh thu xuất khẩu(trđ) 39216 40989 43038 47700 56500 53400 68800 68920 69930 Tỷ trọng xuất khẩu ( % ) 76 78 79,7 87,49 87,53 79,46 88,66 84,12 85,35 Qua bảng số liệu có thể thấy hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động chủ yếu đối với Công ty Dệt Minh Khai. Hàng năm, doanh thu xuất khẩu luôn có xu hướng tăng và chiếm một tỷ trọng lớn từ 76-85% tổng doanh thu mỗi năm. Nhìn lại quá trình 30 năm xây dựng và phát triển Công ty Dệt Minh Khai tuy có những thăng trầm song Công ty đã khẳng định được vị trí của mình là một doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh có hiệu quả, góp phần quan trọng trong sự phát triển của nước nhà. 2. Đặc điểm về chức năng và nhiệm vụ sản xuất của Công ty Trong qúa trình phát triển Công ty Dệt Minh Khai ngay từ khi mới được thành lập đã được Nhà nước giao cho thực hiện với chức năng nhiệm vụ chủ yếu là chuyên sản xuất các loại sản phẩm như khăn mặt, khăn tắm, màn tuyn, áo choàng tắm, rèm cửa … phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài nhằm tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu ngoại tệ và góp phần phát triển kinh tế nước nhà. Do đó, trong quá trình phát triển của mình Công ty không ngừng đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ, nâng cao mẫu mã chủng loại, nâng cao chất lượng hàng hoá…nhằm ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường. Công ty sản xuất kinh doanh không theo một kế hoạch dài hạn mà theo từng năm. hiện nay Công ty sản xuất theo đơn đặt hàng của khách hàng mà chủ yếu là khách hàng Nhật bản- một thị trường truyền thống của Công ty trong những năm qua. 3. Cơ cấu bộ máy quản lý và cơ cấu tổ chức sản xuất của Công ty Giám đốc Phó Giám đốc phụ trách kỹ thuật Phó Giám đốc phụ trách sản xuất Phòng kỹ thuật Phòng tổ chức bảo vệ Phòng hành chính y tế Phòng tài chính kế toán Phòng kế hoạch thị trường Bộ phận cơ điện Bộ phận kho Phân xưởng dệt thoi Phân xưởng tẩy nhuộm Phân xưởng hoàn thành Phân xưởng dệt kim Công ty Dệt Minh Khai là mộ doanh nghiệp Nhà nước có tổ chức bộ máy quản lý theo một cấp: Đứng đầu là giám đốc có nhiệm vụ quản lý chung mọi vấn đề của Công ty như công tác tài chính kế toán, hành chính…đồng thời giấm đốc còn giám sát các vấn đề về kỹ thuật và kế hoạch thị trường. Trợ giúp cho giám đốc còn có các phó giám đốc và các phòng ban nghiệp vụ. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban nghiệp vụ như sau: + Ban giám đốc: gồm có giám đốc và hai phó giám đốc ( phó giám đốc sản xuất và phó giám đốc kỹ thuật ) cùng chịu trách nhiệm về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và có vai trò quyết định trong định hướng và phát triển của Công ty. + Giám đốc: là người đứng đầu Công ty phụ trách chung những vấn đề đối nội đối ngoại. + Phòng kế hoạch thị trường: là phòng nghiệp vụ tham mưu cho giám đốc trong công tác xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạc sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu, tổ chức thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty. + Phòng tài chính –kế toán: Giúp giám đốc thống kê tài chính kế toán, kiểm tra giám sát tài chính, tình hình thu chi tài chính và hướng dẫn chế độ chi tiêu của hoạch toán kinh tế, đề xuất các biện pháp tài chính. + Phòng hành chính –y tế: Giúp giám đốc trong việc quản lý các công việc thuộc phạm vi hành chính, tổng hợp các giao dịch văn thư và truyền đạt chỉ thị của giám đốc đến các phòng ban phân xưởng, thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh cho cán bộ công nhân viên. + Phòng tổ chức: Giúp giám đốc xây dựng mô hình tổ chức sản xuất và quản lý Công ty, quản lý cán bộ công nhân viên, sắp xếp đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên sao cho phù hợp với nhu cầu sản xuất, thực hiện đầy đủ các chính sách đối với người lao động. + Phòng kỹ thuật: Nghiên cứu tham mưu giúp giám đốc về công tác quản lý sử dụng và biện pháp áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến trong thiết kế chế tạo sản phẩm và đưa công nghệ mới vào sản xuất. Đặc điểm về sản xuất kinh doanh của Công ty Dệt Minh Khai 4.1 Đặc điểm về sản phẩm Sản phẩm của Công ty là sản phẩm thiết yếu đối với người tiêu dùng, mọi người đều sử dụng đến sản phẩm này như:khăn mặt, khăn tắm, màn tuyn, rèm cửa… Những sản phẩm này có tính chất sử dụng nhiều lần trong sinh hoạt đời thường, có tác dụng giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ cho mỗi người dân. Do đó yêu cầu với loại sản phẩm này phải có độ bền, mịn, mềm, thấm nước, không phai màu, có nhiều kích cỡ khác nhau, mẫu mã đa dạng, có độ dày mỏng và bảo quản dễ…Khăn bông là nhóm sản phẩm chủ yếu của Công ty, chiếm tới 98% khối lượng sản phẩm của Công ty bao gồm: Khăn ăn: dùng cho nhà hàng và sinh hoat gia đình. Khăn rửa mặt: phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước tiêu thụ tông qua nhà buôn, siêu thị, cửa hàng để đến tay người tiêu dùng. Khăn tắm: phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Hiện nay nhu cầu về mặt hàng này của thị trường trong nước đang có xu hướng gia tăng. Các loại vải sợi bông sử dụng để may lót và may mũi giầy phục vụ cho các cơ sở may xuất khẩu như may X40… Sản phẩm màn tuyn có độ bền cao chống được ôxy hoá gây màn vàng là do Công ty sản xuất 100% sợi PETEX, sản phẩm này mới đưa vào sản xuất trong Công ty nên khối lượng chiếm tỷ trọng chưa nhiều. Như thế chất lượng sản phẩm phải đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của thị trường. Hiện nay Công ty đang trong quá trình triển khai áp dụng theo hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO9001:2000. 4.2 Đặc điểm về máy móc thiết bị Công ty Dệt Minh Khai Trong những năm đầu thành lập, máy móc thiết bị của Công ty chủ yếu do Trung quốc viện trợ lắp đặt không đồng bộ, khâu đầu của dây chuyền sản xuất không hoạt động được phải làm theo phương pháp thủ công. Những năm sau đó (1981-1989) Công ty được thành phố đầu tư cho một dây chuyền công nghệ dệt kim đan dọc, tập trung đầu tư theo chiều sâu để đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất. Nhờ đó mà khâu đầu của sản xuất Công ty không phải gia công, phụ thuộc bên ngoài. Hiện nay hệ thống máy móc thiết bị của Công ty hầu hết được trang bị khá hiện đại đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Ban đầu trình độ công nghệ mới chỉ đạt ở mức thủ công và cơ khí thì cho đến nay đã đạt được mức trung bình ở trong khu vực, nhiều bộ phận đã đạt được trình độ công nghệ tự động hoá. Điều đó cho thấy Công ty đã không ngừng chú trọng đầu tư đổi mới trang thiết bị hiện đại sao cho phù hợp với xu thế thị trường. 4.3. Đặc điểm về nguyên vật liệu sản xuất của Công ty Dệt Minh Khai Trong những năm qua Công ty luôn chú trọng vấn đề mua, cung cấp và bảo quản nguyên vật liệu sản xuất là do nhận thức được vai trò quan trọng của nguyên vật liệu đối với sản phẩm về chất lượng, chủng loại …Công ty chủ yếu nhập nguyên vật liệu đầu vào từ nước ngoài, còn lại do các cơ sở sản xuất trong nước cung cấp. 4.4. Đặc điểm về lao động của Công ty Dệt Minh Khai Với quy mô khoảng 1020 cán bộ công nhân viên, do đặc điểm của ngành dệt may cho nên số lao động nữ trong Công ty luôn chiếm đại đa số( khoảng 80% ) cơ cấu lao động. Trong những năm qua do yêu cầu của sản xuất Công ty đã tổ chức sắp xếp lại lao động sao cho phù hợp với tình hình mới. Với những công nhân có tuổi đời cao thì Công ty giải quyết theo chế độ nghỉ hưu, thôi việc, đồng thời tiếp tục tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng kiến thức tay nghề cho người lao động nhất là với những lao động tuổi đời còn trẻ. Bởi vì những lao động này thường tay nghề chưa cao, ít kinh nghiệm, vì thế mà có thể ảnh hưởng đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Bậc thợ bình quân Công ty mới chỉ là 3,6 nhưng Công ty có thể nâng cao bậc thợ cho phù hợp với thực tế cấp bậc công việc yêu cầu. Có thể khẳng định điều đó là do lượng lao động trẻ có điều kiện về sức khoẻ, có khả năng tiếp thu nhanh về tiến độ khoa học kỹ thuật trong thời đại mới. Do số lao động nữ chiếm tỷ lệ cao trong tổng số lao động toàn Công ty nên không thể tránh khỏi những ngày nghỉ phép, ngày công nghỉ thai sản … Thế nhưng họ lại có ưu điểm là lao động cần cù, chăm chỉ, khéo léo.. Như vậy, nhân tố lao động cũng như các nhân tố khác có vai trò quan trọng trong việc sản xuất kinh doanh, khi tay nghề bậc thợ càng cao thì năng suất lao động càng cao, chất lượng sản phẩm càng tốt đáp ứng được yêu cầu của thị trường. 4.5. Đặc điểm về thị trường Trong giai đoạn đầu mới thành lập Công ty thực hiện việc sản xuất kinh doanh theo kế hoạch Nhà nước giao nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa. Do đó Công ty chỉ quan tâm đến việc hoàn thành kế hoạch được giao mà không cần quan tâm đếm mẫu mã chủng loại, thị hiếu khách hàng… Khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì các doanh nghiệp phải tự hoạch định kế hoạch và hạch toán kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Vì vậy, theo xu thế chung của đất nước Công ty Dệt Minh Khai cũng đã thực hiện việc chuyển hướng sản xuất kinh doanh từ chỗ phục vụ nhu cầu nội địa là chủ yếu sang sản xuất phục vụ chủ yếu nhu cầu xuất khẩu. thị trường chính của Công ty là các nước Nhật Bản và một số nước Đông Âu, thị trường EU…Công ty phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác để tìm kiếm khách hàng, tìm kiếm thị trường trong nước cũng như ngoài nước cũng đều gặp khó khăn. 4.6 Đặc điểm phương thức sản xuất kinh doanh Hợp đồng xuất khẩu trực tiếp: Công ty là một trong những doanh nghiệp đầu tiên trong các doanh nghiệp ở miền Bắc tham gia hình thức xuất khẩu trực tiếp. Công ty trực tiếp tiếp xúc với khách hàng là các công ty thương mại nước ngoài. Khi có những thoả thuận trao đổi thống nhất về mẫu mã, số lượng sản phẩm thì hai bên sẽ tiến hành chính thức ký kết hợp đồng như mặt hàng khăn bông. Các mặt hàng khăn bông không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu được tiêu thụ tại thị trường nội địa chiếm tới 10% sản phẩm. Công ty chỉ có một vài sản phẩm sản xuất theo thiết kế phục vụ nhu cầu trong nước. Việc tiêu thụ chủ yếu thông qua các trung gian như các công ty thương mại trong và ngoài nước, các trung tâm thương mại, các siêu thị và đại lý tại Hà nội, các tư thương nhằm làm cho sản phẩm tới tận tay ngừơi tiêu dùng. Ngoài ra Công ty còn xuất khẩu sản phẩm theo hình thức xuất khẩu uỷ thác: Công ty xuất khẩu sản phẩm thông qua các công ty trung gian trong nước như: Tổng công ty dệt may Việt nam … công ty ký hợp đồng với các siêu thị tại Hà nội cung cấp các sản phẩm khăn bông để bán tại các siêu thị này với phương thức giao hàng trước thanh toán tiền khi giao hàng lô sau. Mặt khác, Công ty nhận sợi, hoá chất, thuốc nhuộm của khách hàng để tiến hành sản xuất cho khách hàng theo các hợp đồng gia công. Loại hợp đồng này với Công ty không nhiều, tuỳ thuộc vào khách hàng nhận gia công, đơn giá gia công, thời hạn giao hàng, định mức tiêu hao nguyên vật liệu … Ngoài ra Công ty còn thực hiện hợp đồng nhận vốn ứng trước. II. Hướng phân tích hoạt động xuất khẩu của Công ty 1. Phân tích cơ cấu hoạt động xuất khẩu. Thống kê cơ cấu hàng hoá xuất khẩu dựa vào đặc điểm của phân tổ thống kê mà chúng ta có thể phân chia thành: + Cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng + Cơ cấu xuất khẩu theo thị trường + Cơ cấu xuất khẩu theo phương thức xuất khẩu + Cơ cấu xuất khẩu theo phương thức xuất khẩu 2.phân tích lượng hàng hoá xuất khẩu và biến động kim ngạch xuất khẩu theo thời gian, không gian. Phương pháp dãy số thời gian cho phép xác định: xu hướng cơ bản biến động của quy mô xuất khẩu, mức độ biến động tuyệt đối và tương đối của quy mô hàng hoá xuất khẩu được lưu chuyển theo thời gian và không gian. Các chỉ tiêu thống kê có thể áp dụng được trong dãy số thời gian là: + Giá trị kim ngạch xuất khẩu bình quân qua các năm + Lượng tăng giảm liên hoàn định gốc trong một thời kỳ + Tốc độ tăng giảm liên hoàn định gốc trong một thời kỳ + Tốc độ phát triển liên hoàn định gốc trong một thời kỳ Dựa vào đặc điểm các chỉ tiêu và phương pháp biểu hiện của dãy số thời gian chúng ta có thể áp dụng nghiên cứu thống kê xuất khẩu như dựa vào tốc độ phát triển, mức độ trung bình, lượng tăng giảm…đồng thời chúng ta có thể dự báo tương lai. Trong thống kê xuất khẩu luôn tồn tại mối quan hệ giữa thời gian và lượng hàng hoá xuất khẩu, do đó dựa vào đặc điểm của phương pháp hồi quy tương quan mà ta có thể nghiên cứu thống kê xuất khẩu hàng hoá. Trong thống kê xuất khẩu hàng hoá, dựa vào đặc điểm của phương pháp chỉ số ta có thể nghiên cứu sự biến động của quy mô xuất khẩu hàng hoá theo thời gian( đó là chỉ số đơn về lượng hàng hoá xuất khẩu ), nghiên cứu sự biến động của quy mô xuất khẩu hàng hoá theo không gian. 3. Phân tích hiệu quả hoạt động xuất khẩu Các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động xuất khẩu đều là chỉ tiêu tương đối biểu hiện quan hệ so sánh giữa doanh thu xuất khẩu với chi phí sản xuất kinh doanh (chỉ tiêu hiệu quả thuận ). Qua đó ta có thể đánh giá ảnh hưởng của hiệu quả đến kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. III. Vận dụng một số phương pháp để phân tích 1. Phân tích kim ngạch xuất khẩu theo thị trường xuất khẩu Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả đều phải có thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định và rộng lớn. Thị trường có vai trò quyết định trong sự tồn tại và phát triển của Công ty vì thị trường liên quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy Công ty phải biết lựa chọn đánh giá và phân tích những thị trường có triển vọng nhất phù hợp với việc tiêu dùng sản phẩm của mình sao cho xây dựng được chiến lược cạnh tranh phù hợp. Thị trường Nhật Bản là một trong những thị trường chính và truyền thống của Công ty đồng thời là một trong những thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Công ty chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản những sản phẩm khăn bông bao gồm: Khăn ăn, khăn mặt, khăn tắm, áo choàng tắm… các loại phong phú về kiểu dáng mẫu mã. Giá trị kim ngạch xuất khẩu của Công ty sang thị trường này luôn chiế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTE366.DOC
Tài liệu liên quan