Dân số trung bình năm 2008 ước tính 86,16 triệu người, bao gồm nam 42,35 triệu người, chiếm 49,1% tổng dân số; nữ 43,81 triệu người, chiếm 50,9%. Trong tổng dân số cả nước, dân số khu vực thành thị là 24 triệu người, tăng 2,85% so với năm trước, chiếm 27,9% tổng dân số; dân số khu vực nông thôn là 62,1 triệu người, tăng 0,55% và chiếm 72,1%. Tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2008 ước tính 45 triệu người, tăng 2% so với năm 2007, trong đó lao động khu vực nhà nước 4,1 triệu người, tăng 2,5%, lao động ngoài nhà nước 39,1 triệu người, tăng 1,2%, lao động khu vực đầu tư nước ngoài 1,8 triệu người, tăng 18,9%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị ước tính 4,65%.
Dân số nước ta ngày càng đông và tăng nhanh, tạo áp lực tăng số người đến tuổi lao động và kéo theo đó là áp lực tạo việc làm. Trong điều kiện đó, người lao động có việc làm trong nền kinh tế vẫn tăng nhanh qua các năm, bình quân năm trong thời kì 2001-2006 tăng khoảng 871 nghìn người, và đến năm 2007 số lao động có việc làm trong nền kinh tế là khoảng 44,2 triệu người, điều đó cho thấy việc giải quyết việc làm còn cao hơn nhiều so với số đó vì còn phải thay thế cho những người không còn làm việc nữa. Kết quả trên đã làm cho tỷ lệ có việc làm ở khu vực thành thị tăng liên tục. Bên cạnh đó, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn cũng tăng lên, năm 2006 tỷ lệ này là 81,79% đã tăng lên tương đối so với tỷ lệ 74,16% năm 2000. Tuy đây là những con số rất đáng khích lệ nhưng vẫn còn thấp so với một số quốc gia khác trên thế giới và trong khu vực.
49 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3577 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Sử dụng mô hình kinh tế lượng phân tích một số các yếu tố ảnh hưởng tới cầu lao động trong các Doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
í, điện, nước); thương mại, dịch vụ, tài chính, du lịch, văn hóa, giáo dục, y tế.Tính cho tới năm 2007, khu vực thứ nhất chiếm 20,29 % GDP thực tế, khu vực thứ hai chiếm 41,58 % (trong đó công nghiệp chế biến chiếm 21,38 %). Ngành tài chính tín dụng chỉ chiếm 1,81 % GDP thực tế.
* Về địa lý kinh tế: lãnh thổ Việt Nam được chia thành 7 vùng địa lý-kinh tế, đó là: Tây Bắc Bộ, Đông Bắc Bộ, đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, đồng bằng song Cửu Long. Ngoài ra, cũng còn nhiều cách phân vùng kinh tế khác được áp dụng. Ở 3 miền của đất nước có 4 vùng kinh tế trọng điểm làm đầu tàu cho phát triển kinh tế của cả nước và vùng miền. Ở ven biển, có 13 khu kinh tế với những ưu đãi riêng để thu hút đầu tư trong và ngoài nước và làm động lực cho phát triển kinh tế của các vùng. Ngoài ra, dọc biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia có một loạt các khu kinh tế cửa khẩu, trong đó có 9 khu kinh tế cửa khẩu được ưu tiên phát triển (Móng Cái, Lạng Sơn-Đồng Đăng, Lào Cai, Cầu Treo, Lao Bảo, Bờ Y, Mộc Bài, An Giang, Đồng Tháp).
* Kinh tế vĩ mô - tài chính: Năm 2008, Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế tính theo đơn vị tiền tệ quốc gia của Việt Nam năm này là 6,18%. Những lo ngại về lạm phát tăng tốc nhanh trong năm 2007 và nửa đầu năm 2008 đã khiến Chính phủ quyết định thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ và tài chính cũng như tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu đã khiến kinh tế tăng trưởng chậm hơn dự kiến (dự kiến là 7%). Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước tuy thấp hơn 8,48% so với năm 2007, nhưng trong bối cảnh khửng hoảng kinh tế toàn cầu mà nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt tốc độ tương đối cao như trên là một cố gắng rất lớn
* Kinh tế đối ngoại - hội nhập kinh tế: Năm 2008, Việt Nam xuất khẩu được khoảng 64.8 tỷ dollar Mỹ, trong đó khoảng 32,1% giá trị xuất khẩu là hàng công nghiệp nặng và khoáng sản, 45.2% là hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, 23,5% là hàng nông, lâm, thủy sản. Trong khi đó cùng năm, giá trị nhập khẩu ước đạt 60,8 tỷ dollả, trong đó ước khoảng 30,2% giá trị nhập khẩu là máy móc, thiết bị, dụng cụ các loại, 63,7% là nguyên, vật liệu, chỉ có 6,1% là hàng tiêu dùng.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp ngày càng tích cực vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tính theo giá trị lũy kế từ năm 1988 đến hết năm 2007, công nghiệp và xây dựng là lĩnh vực thu hút được nhiều FDI nhất – 67% số dự án và 60% tổng giá trị FDI đăng ký. Sau đó đến khu vực dịch vụ - 22,3% về số dự án và 34,3% về giá trị. Trong 82 quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, các nước đầu tư nhiều nhất tính theo giá trị FDI đăng ký lần lượt là Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Nhật Bản. Riêng năm 2008, số FDI mới đăng ký (nghĩa là không tính số xin phép tăng vốn phát sinh trong năm) đạt 32,62 tỷ dollar. Việt Nam cũng đầu tư ra nước ngoài tới 37 quốc gia và lãnh thổ. Tính đến hết năm 2007, có 265 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký khoảng 2 tỷ dollar và vốn thực hiện khoảng 800 triệu dollar. Đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chiếm phần lớn, tiếp theo là nông, lâm nghiệp.
Bảng 2.1:Vốn đầu tư toàn xã hội vào các khu vực kinh tế từ 2000-2008
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn vào bảng trên, ta thấy từ năm 2000 tới năm 2007 tổng vốn đầu tư liên tục tăng, vốn đầu tư vào các khu vực kinh tế đều tăng, tuy nhiên vốn đầu tư của năm 2008 vào khu vực nhà nước giảm, trong khi tổng vốn đầu tư và vốn đầu tư vào các khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đều tăng tăng. Vốn đầu tư vào khu vực kinh tế ngoài nhà nước và vốn đầu tư vào khu vực có vốn nước ngoài tăng mạnh trong các năm 2007 và 2008. Năm 2006 vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước là 154006 tỷ đồng, tới năm 2007 tăng lên thành 204705 tỷ đồng và năm 2008 là 244081 tỷ đồng; còn trong khu vực vó vốn đầu tư nước ngoài thì năm 2007 là 129399 tỷ đồng, tăng gần gấp đôi năm 2006 (65604 tỷ đồng), tới năm 2008 con số này là 192360 tỷ đồng. Điều đó cho thấy, chính sách của chính phủ tăng cường thu hút vốn nước ngoài, đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế phi chính phủ tạo động lực phát triển kinh tế. Bảng 2.2 và Hình 2.1 cho ta thấy rõ hơn điều này
Bảng 2.2: Cơ cấu vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế từ 2000-2008
Nguồn: Tổng cục thống kê
Hình 2.1: Cơ cấu vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế từ 2000-2008
Nguồn: Tổng cục thống kê
Năm đầu tiên gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (2007), các yếu tố kinh tế vĩ mô của Việt nam tiếp tục ổn định và có sự tăng trưởng toàn diện trong hầu hết các lĩnh vực: GDP đạt mức tăng trưởng 8,5%, kim ngạch xuất khẩu đạt 48,4 tỷ USD (tăng 21,5% so với 2006), nhập khẩu đạt 60,8 tỷ (tăng 35,5%); thu hút vốn FDI đạt 20,3 tỷ USD (tăng gần gấp đôi so với năm 2006); lạm phát ở mức 12,63%. Đóng góp vào sự tăng trưởng, phát triển và ổn định nền kinh tế nói trên phải kể đến vai trò không nhỏ của hệ thống ngân hàng. Năm 2007, hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn lớn (tương đương 18% GDP) cho nền kinh tế, tăng trưởng tín dụng liên tục tăng qua các năm (năm 2007 tăng 54% so với mức tăng 37% của năm 2006, 39% năm 2005).
Sang năm 2008, kinh tế Việt nam trải qua giai đoạn khó khăn nhất trong suốt một thập kỷ phát triển tương đối ổn định: CPI những tháng đầu năm tăng cao với mức tăng cao nhất (3,91%) trong tháng 5, tính đến 31/8/2008, chỉ số CPI là 21,65% so với đầu năm (cùng kỳ 2007 chỉ là 6,8%); nhập siêu tăng mạnh chủ yếu do giá cả hàng hóa trên thế giới (đặc biệt giá lương thực, dầu mỏ tăng cao). Tháng 3/2008, nhập siêu ở mức kỷ lục là -3,3 tỷ USD và tỷ trọng nhập siêu/xuất khẩu lên tới 63%. Trước tình hình đó, Chính phủ đề ra 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Bảng 2.2:Tổng sản phẩm trong nước năm 2008 theo giá so sánh 1994
Tốc độ tăng so với năm trước (%)
Đóng góp của mỗi khu vực vào tăng trưởng 2008 (Điểm phần trăm)
2006
2007
2008
Tổng số
8,23
8,48
6,23
6,23
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
3,69
3,40
3,79
0,68
Công nghiệp và xây dựng
10,38
10,60
6,33
2,65
Dịch vụ
8,29
8,68
7,20
2,90
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy, do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, làm cho tổng sản phẩm trong nước tới năm 2008 giảm xuống; trong đó tốc độ tăng của công nghiệp và dịch vụ giảm, tốc độ tăng của nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng nguyên nhân là do năm 2008 người nông dân được mùa làm cho sản lưởng của ngành này tăng lên. Hình 2.2 cho ta thấy mức độ đóng góp của các ngành vào tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân; trong đó mức đóng góp cao nhất là của ngành dịch vụ và thấp nhất là của ngành nông nghiệp.
Hình 2.2: Đóng góp của mỗi khu vực vào tăng trưởng kinh tế
Nguồn: Tổng Cục Thống Kê
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu dẫn đến những xáo động đầy kịch tính về thị trường, tỷ giá, đầu tư và thương mại. Biến đổi khí hậu ngày càng làm cho thời tiết trở nên bất lợi hơn cho nông nghiệp, thiên tai xuất hiện với tần số cao hơn, sức tàn phá mạnh hơn, mùa màng thất bát, chi phí cho canh tác nông nghiệp tăng lên. Dịch bệnh (như cúm A/H1N1) cũng ảnh hưởng bất lợi đến tăng trưởng kinh tế trên quy mô toàn cầu (du lịch và hành khách hàng không giảm sút).
Tổng kết tình hình kinh tế trong năm 2009, Chính phủ đã trình ra Quốc hội những thành tích đáng trân trọng: tăng trưởng GDP 5,2%, trên mức trung bình khu vực song là mức thấp nhất từ một thập kỷ. Lạm phát được duy trì ở mức dưới hai con số. Xóa đói giảm nghèo giảm xuống 11%, nhanh hơn cả lộ trình cam kết thực hiện mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) là một điều đáng ngạc nhiên do được tính dựa trên chuẩn nghèo cũ, đã lạc hậu nhiều vì lạm phát. Cộng đồng quốc tế cũng ca ngợi thành tựu của Việt Nam về duy trì bình đẳng trong thu nhập thông qua chỉ số GINI và giảm nghèo rất ấn tượng trong khu vực nông thôn, theo những báo cáo chính thức của Chính phủ.
Những thành tựu đó đạt được nhờ có một nền nông nghiệp không chỉ bảo đảm an toàn lương thực mà còn đóng góp to lớn vào xuất khẩu, doanh nghiệp tư nhân năng động, người dân chịu đựng gian khổ và những nỗ lực của Chính phủ.
2.2. Phân tích đánh giá thực trạng lao động, việc làm trong các doanh nghiệp Việt Nam
Dân số trung bình năm 2008 ước tính 86,16 triệu người, bao gồm nam 42,35 triệu người, chiếm 49,1% tổng dân số; nữ 43,81 triệu người, chiếm 50,9%. Trong tổng dân số cả nước, dân số khu vực thành thị là 24 triệu người, tăng 2,85% so với năm trước, chiếm 27,9% tổng dân số; dân số khu vực nông thôn là 62,1 triệu người, tăng 0,55% và chiếm 72,1%. Tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2008 ước tính 45 triệu người, tăng 2% so với năm 2007, trong đó lao động khu vực nhà nước 4,1 triệu người, tăng 2,5%, lao động ngoài nhà nước 39,1 triệu người, tăng 1,2%, lao động khu vực đầu tư nước ngoài 1,8 triệu người, tăng 18,9%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị ước tính 4,65%.
Dân số nước ta ngày càng đông và tăng nhanh, tạo áp lực tăng số người đến tuổi lao động và kéo theo đó là áp lực tạo việc làm. Trong điều kiện đó, người lao động có việc làm trong nền kinh tế vẫn tăng nhanh qua các năm, bình quân năm trong thời kì 2001-2006 tăng khoảng 871 nghìn người, và đến năm 2007 số lao động có việc làm trong nền kinh tế là khoảng 44,2 triệu người, điều đó cho thấy việc giải quyết việc làm còn cao hơn nhiều so với số đó vì còn phải thay thế cho những người không còn làm việc nữa. Kết quả trên đã làm cho tỷ lệ có việc làm ở khu vực thành thị tăng liên tục. Bên cạnh đó, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn cũng tăng lên, năm 2006 tỷ lệ này là 81,79% đã tăng lên tương đối so với tỷ lệ 74,16% năm 2000. Tuy đây là những con số rất đáng khích lệ nhưng vẫn còn thấp so với một số quốc gia khác trên thế giới và trong khu vực.
Tuy số lao động có việc làm liên tục tăng nhưng do tốc độ tăng thấp hơn tốc độ gia tăng dân số nên tỷ lệ có việc làm trên dân số liên tục giảm trong vòng 10 năm trở lại đây từ 72,2% vào năm 1997 xuống còn 68,1% vào năm 2007. Xu hướng giảm tương đối liên tục chỉ trừ năm 2001 tăng làm gián đoạn xu hướng này. Tỷ lệ việc làm trên dân số giảm ở cả nam giới và nữ giới, tuy nhiên tỷ lệ này ở nữ giới giảm mạnh hơn, chênh lệch là 5% trong khi nam giới chỉ giảm 3%. tỷ lệ việc làm trên dân số ở Việt Nam tương đối cao nếu so sánh với khu vực tuy nhiên tỷ lệ này không cao bằng Đông Á
Hình 2.3 Tỷ lệ việc làm của ngành công nghiệp trong tổng số việc làm
Nguồn: Bộ Lao Động Thương Binh Xã Hội
Hình 2.4 Tỷ lệ việc làm của ngành dịch vụ trong tổng số việc làm
Nguồn: Bộ Lao Động Thương Binh Xã Hội
Nhìn trên hình vẽ ta thấy được tye lệ có việc làm trong cách ngành công nghiệp và dịch vụ tăng thoe thời gian. Điều nầy chứng tở sự dịch chuyển cơ cấu lao động, mà nguyên nhân xâu xa là sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngày càng tiến bộ.
Hình 2.5: Tỷ lệ việc làm chia theo khu vực thành thị, nông thôn 1996-2005
Nguồn: Thực trạng việc làm và thất nghiệp 1996-2005_ Bộ LĐTB & XH.
Do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, quy mô sản xuất trong nước bị thu hẹp dẫn đến tình trạng công nhân bị mất việc và thiếu việc làm tại nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cụ thể như: Công ty Panasonic Việt Nam với hơn 6 nghìn công nhân thuộc 3 công ty con đã báo cáo xin giảm 500 lao động; công ty Nishei xin giảm 1,6 nghìn lao động; công ty Canon Việt Nam xin giảm 1,2 nghìn lao động v.v... Tính chung trên địa bàn tỉnh Bình Dương có khoảng 2 nghìn công nhân thiếu việc làm; Vĩnh Phúc có 29 doanh nghiệp cắt giảm lao động với tổng số lao động bị cắt giảm là 1,1 nghìn người, trong đó công ty TNHH công nghiệp TS ARI cắt giảm 390 lao động, công ty TNHH công nghiệp chính xác Việt Nam I cắt giảm 200 lao động. Sang năm 2009 với nhưng tín hiệu đáng mừng của nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng, sự phục hồi kinh tế sẽ kéo theo số việc làm sẽ được tạo ra nhiều hơn, từ đó làm cho cầu lao động trong tăng theo.
Phân tích thực trạng các yếu tố ảnh hưởng tới cầu lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam
2.3.1. Yếu tố vốn
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn được xem như là mạch máu quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có nguồn lực tài chính đủ mạnh, một nguồn vốn lớn sẽ có khả năng tạo thêm được nhiều công ăn việc làm cho người lao động, nhu cầu về nhân lực của doanh nghiệp đó ngày càng cao nhằm đáp ứng quá trình mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh. Hiện nay, trong điều kiện nền kinh tế còn suy thoái, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp sa thải lao động hoặc không có nhu cầu tuyển thêm công nhân, một phần là do họ thiếu vốn để duy trì sản xuất kinh doanh và trả lương cho người lao động. Tại Hà Nội, trong số 367 doanh nghiệp báo cáo, năm 2008 có tới 25.000 người mất việc và thiếu việc. Và con số này của năm 2009 ước tính khoảng 9.000 người. Đứng trước tình trạng trên, nhà nước ta đã và đang triển khai rất nhiều biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp ( thậm chí là 0%) nhằm khuyến khích họ phát triển sản xuất, đồng thời hạ xuống mức tối thiểu số nhân công bị sa thải, giúp ổn định đời sống người lao động.
Xét trong hàm sản xuất của một doanh nghiệp, hai yếu tố vốn và lao động luôn đồng hành, tác động qua lại, hỗ trợ lãn nhau. Một doanh nghiệp có nguồn vốn càng lớn, càng có nhu cầu thuê thêm nhiều lao động. Đến phần mình, lao động tăng giúp mở rộng sản xuất, nâng cao sản lượng, làm cho nguồn vốn của doanh nghiệp ngày một lớn hơn. Một ví dụ thực tế ở tập đoàn công nghệ cao hàng đầu Hoa kỳ Intel. Theo thông cho biết, việc tăng vốn đầu tư từ 300 triệu USD lên 1 tỉ USD đồng nghĩa với việc cũng tăng diện tích nhà máy từ 45.000m2 lên 152.400m2 với diện tích sàn 46.000m2, gấp ba lần diện tích cũ; tập đoàn này đã góp phần tăng số lao động từ 1.200 người lên 4.000 người. Trong đó sẽ tuyển 2.500 lao động đơn giản (tốt nghiệp phổ thông và trường nghề) và 1.500 lao động cao cấp là các kỹ sư. Đánh giá về nguồn nhân lực VN sau hơn tám tháng xúc tiến việc xây dựng nhà máy, ông Rick Howarth - tổng giám đốc Công ty Intel Products VN - cho biết thời gian qua ông đã tiếp xúc với giảng viên và SV của các trường ĐH VN và các đánh giá đều rất tốt. Hiện nay Intel Products VN có 40 nhân viên thì có đến 22 người VN và ông hài lòng với công việc họ đang làm. Qua ví dụ trên có thể thấy rằng, nguồn vốn có vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng cao tỷ lệ có việc làm trong toàn nền kinh tế, góp phần thúc đẩy nhu cầu lao động không ngừng tăng lên; bởi vậy các doanh nghiệp cần chú ý tới vấn đề sử dụng hiệu quả nguồn vốn, góp phần gia tăng lợi nhuận cho bản thân doanh nghiệp. đồng thời ổn định cuộc sống, tạo thêm việc làm cho người lao động.
Bảng 2.3: Lượng lao động và vốn của doanh nghiệp qua các năm
Đơn vị: Lao động(nghìn người) Vốn Đầu Tư (triệu đồng)
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Lao động
2896,354
3202,530
3790,499
4185,039
4588,493
4907,525
5279,634
5876,103
Vonđầu tư
30814,4
64073,6
117384,8
83936,7
115967,9
119776,7
146453,4
266166,9
Nguồn: số liệu điều tra doanh nghiệp 2000-2007 tổng cục thống kê
Hình 2.6: Tỷ lệ gia tăng lao động trên vốn (Người/triệu đồng)
Nguồn: số liệu điều tra doanh nghiệp 2000-2007 tổng cục thống kê
Qua bảng 2.3 ta thấy: thông thường khi vốn tăng thì lượng lao động cũng tăng theo, năm 2003 tuy vốn đầu tư giảm nhưng lượng lao động vẫn tăng. Tuy nhiên nhìn vào hình 2.6 cho ta thấy tốc độ tăng lao động có xu hướng chậm hơn so với tốc độ tăng vốn. Điều này có thể giải thích, do các doanh nghiệp tăng vốn một phần sẽ thuê thêm lao động, một phần sẽ đầu tư vào cơ sở vật chất hạ tầng, mua thêm trang thiết bị máy móc, mở rộng sản xuất.
2.3.2. Loại hình sản xuất kinh doanh.
Loại hình doanh nghiệp cũng là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến nhu cầu lao động của doanh nghiệp đó. Mỗi loại hính khác nhau thì yêu cầu về số lượng, chuyên môn kĩ thuật, số giờ làm việc…của người lao động cũng rất khác nhau. Chẳng hạn, vói những doanh nghiệp nhà nước thì thường yêu cầu đa phần là những người có chuyên môn cao, số lượng chỉ ở một hạn mức nhất định do cơ quan, nhà nước kiểm soát, làm việc theo giờ hành chính. Còn ở doanh nghiệp tư nhân (đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất) thường làm việc theo ca, tuyển nhiều lao động ở các trình độ khác nhau.
Theo báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, hiện nay cả nước có hơn 4 triệu cơ sở kinh tế. Nhìn chung, các cơ sở kinh tế, loại hình doanh nghiệp tăng nhanh ở tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là bất động sản, truyền thông, năng lượng và ngân hàng... Hàng năm, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất thu hút khoảng từ 1,2 đến 1,5 triệu người vào làm việc. Lao động làm việc trong các khu vực cũng có sự chênh lệch lớn: Chỉ có 4 triệu người kiếm được việc làm tại khu vực nhà nước; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 1,67 triệu người, trong khi ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước thì có tới 40 triệu người. Chiếm tỷ lệ lao động lớn nhất nhưng khối kinh tế ngoài nhà nước chỉ đóng góp 47% GDP và 35% giá trị sản lượng công nghiệp. Trong khi đó, khối khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với số lượng lao động ít ỏi lại đóng góp gần 19% GDP và gần 45% giá trị sản lượng công nghiệp.
Qua những phân tích như trên có thể thấy rằng, chúng ta cần chú trọng đầu tư phát triển từng loại hình doanh nghiệp sao cho cân đối, phù hợp với chính sách kinh tế xã hội của đất nước, góp phần giải quyết tốt việc tạo thêm việc làm cho người lao động trong thời gian tới.
2.3.3. Doanh thu, lợi nhuận
Doanh thu và lợi nhuận là hai nhân tố vô cùng quan trọng quyết định doanh nghiệp có đầu tư phát triển sản xuất và tuyển thêm lao động cho kì tiếp theo hay không?. Nếu doanh nghiệp làm ăn tốt thu về lợi nhuận cao thì đó sẽ là động lực thúc đẩy họ tiếp tục sản xuất kinh doanh nhiều hơn kì trước, từ đó nhu cầu thuê thêm lao động cũng tăng theo. Co thể nói, lợi nhuận tỷ lệ thuận với nhu cầu lao động.
Thực tế hiện nay cho thấy, rất nhiều các công ty do tác động của khủng hoảng kinh tế làm cho lợi nhuận giảm mạnh. Theo đó, Công ty cổ phần đầu tư và thương mại TNG (TNG) vừa công bố nghị quyết HĐQT điều chỉnh kế hoạch doanh thu năm 2008 từ 733,602 tỉ đồng xuống còn 717,811 tỉ đồng (giảm 2,14% so với kế hoạch đầu năm); lợi nhuận từ 27 tỉ đồng xuống 22,736 tỉ đồng (giảm 15,8% so với kế hoạch). Trong tháng 9, các nhà đầu tư cũng chứng kiến việc giảm chỉ tiêu lợi nhuận của Công ty cổ phần nhựa Tân Đại Hưng (TPC), Công ty cổ phần bóng đèn Điện Quang (DQC), Công ty cổ phần XNK Sa Giang (SGC)... TPC giảm chỉ tiêu lợi nhuận năm 2008 còn 15,1 tỉ đồng (giảm gần 28,44% so với kế hoạch đầu năm); doanh thu vẫn giữ nguyên kế hoạch 243 tỉ đồng; cổ đông TPC cũng đồng ý thanh lý các hạng mục đầu tư vào các chứng khoán ACB, Eximbank, ALTA sao cho thu hồi được nhiều vốn nhất (ít lỗ nhất); tính đến 30.6, tổng số tiền đầu tư vào các chứng khoán trên của TPC là 127,81 tỉ đồng. SGC điều chỉnh giảm lợi nhuận sau thuế từ 17,9 tỉ đồng còn 12 tỉ đồng (giảm 33%). DQC điều chỉnh giảm doanh thu còn 650 tỉ đồng so với 1.270 tỉ đồng theo kế hoạch ban đầu (giảm 48,82%); lợi nhuận sau thuế còn 50 tỉ đồng so với 222 tỉ đồng theo kế hoạch ban đầu (giảm 77,48%)... Đứng trước tình hình đó, một loạt các công ty đã giảm lao động, sa thải hoặc cho nghỉ vô thòi hạn. Chẳng hạn như ở trung tâm giời thiệu việc làm Thanh niên cho hay, Trước Tết, Trung tâm thông báo có 500 đầu việc cần tuyển lao động, nhưng phần lớn là lao động làm việc thời vụ. Còn việc làm có tính ổn định lâu dài thì rất ít, chủ yếu là yêu cầu lao động có tay nghề cao, mức lương không thật hấp dẫn. Số yêu cầu tuyển dụng năm nay so với cùng thời điểm các năm trước giảm chỉ còn khoảng 20% hoặc thấp hơn.
Bảng 2.4: Số Lao động (nghin ngươi) và số doanh thu (triệu đồng) qua các năm
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Lao động
2896,354
3202,530
3790,499
4185,039
4588,493
4907,525
5279,634
5876,103
Doanh thu
634280,3
731600,8
957406,0
380473,6
1347244,9
1628252,1
1995824,5
2607523,5
Nguồn: số liệu điều tra doanh nghiệp 2000-2007 tổng cục thống kê
Hình 2.7 : Mức độ gia tăng lao động trên doanh thu (người/ triệu đồng)
Nguồn: số liệu điều tra doanh nghiệp 2000-2007 tổng cục thống kê
Bảng 2.4 cho ta thấy, khi doanh thu tăng thì lao động cũng tăng theo. Do khi doanh thu tăng, doanh nghiệp có xu hướng mở rộng sản xuất, do đó phải thuê thêm lao động làm cho cầu lao động tăng theo. Tuy nhiên năm 2003 do có cú sốc, cho nên làm gián đoạn quá trình này, doanh thu giảm trong khi lao động vẫn tăng. Hình 2.7 cho thấy mức độ gia tăng lao động trên vốn
Cũng như doanh thu, lợi nhuận càng cao thì càng nhiều doanh nghiệp đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, thuê thêm lao động; làm cho cầu lao động tăng thêm. Bảng 2.5 cho ta thấy rõ điều này.
Bảng 2.5: Số lao động (người) và lợi nhuận hàng năm (nghìn đồng)
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Lao động
2896354
3202530
3790499
4185039
4588493
4907525
5279634
5876103
Loi nhuan
53211140
52969503
50909652
62433601
86867721
90607448
127176262
203724896
Nguồn: số liệu điều tra doanh nghiệp 2000-2007 tổng cục thống kê
Hình 2.8: Tỷ lệ gia tăng lao động trên lợ nhuận (người/nghìn đồng)
Nguồn: số liệu điều tra doanh nghiệp 2000-2007 tổng cục thống kê
2.3.4. Yếu tố tài sản doanh nghiệp
Bảng 2.6: Số lao động (người) và tài sản hàng năm (triệu đồng)
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Lao động
2896354
3202530
3790499
4185039
4588493
4907525
5279634
5876103
tài sản
545138,7
631229,1
786717,9
921352,0
1204401,5
1461795,0
1801277,6
2909366,6
Nguồn: số liệu điều tra doanh nghiệp 2000-2007 tổng cục thống kê
Bảng 2.6 cho ta thấy, từ năm 2000 tới năm 2007 tài sản của doanh nghiệp tăng dần. Số lao động trong doan nghiệp cũng tăng theo thời gian. Cụ thể là năm 2000 tài sản khoảng 545 tỷ đồng; năm 2001 tăng lên thành 631 tỷ đồng tăng gần 90 tỷ đồng. Cho tới năm 2007 con số này đã lên tới 29093 tỷ đồng tăng gần gấp 6 lần sao với năm 2000. Trong khi đó lao động trong doanh nghiệp năm 2000 gần 30 triệu người, năm 2001 vào khoảng 32 triệu người tăng 2 triệu người. Cho tới năm 2007 số lao động trong doanh nghiệp đã là 58,7 triệu người tăng gần gấp đôi so với năm 2000. Như vậy có thể thấy, tốc độ gia tăng lao động chậm hơn so vơi tốc độ gia tăng về vốn. Nguyên nhân là do, khi doanh nghiệp đổi mới công nghệ, đầu tư xây dựng thêm cơ sở hạ tầng làm cho vốn tăng lên, thậm chí tăng rất mạnh và nhanh. Nhưng lượng lao động sẽ khoogn thể tăng theo tỷ lệ tương ứng, vì về mặt kỹ thuật, có thể mở rộng sản xuất lớn nhưng với tiến bộ công nghệ kỹ thuật lại chỉ cần ít lao động làm việc vận hành máy móc mà thôi; không những thế, khi mở rộng sản xuất, làm cho tài sản tăng rất nhanh, trong khi chỉ cần thuê thêm một vài lao động. Hình 2.9 cho tỷ lệ gia tăng lao động luôn thấp hơn tỷ lệ gia tăng về vốn.
Hình 2.9: Tỷ lệ gia tăng lao động trên tài sản
Nguồn: số liệu điều tra doanh nghiệp 2000-2007 tổng cục thống kê
2.3.5. Yếu tố vùng miền.
Cũng giống như loại hình doanh nghiệp, thì mỗi khu vực do nhũng nét đặc thù riêng về điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý nên nhu cầu về lao động cũng rất khác nhau. Hầu hết những khu vực, địa phương có những điều kiện thuận lợi sẽ thu hút được nhiều lao động. Điều này giống như con dao hai lưỡi, một mặt nó góp phần giải quyết nhu cầu lao động đang rất cao ở những khu vực có kinh tế phát triển, qua đó góp phần tăng trưởng kinh tế của cả nước. Nhưng mặt khác, điều này sẽ dẫn đến tình trạng mất cân bằng trong cung cầu lao động, nếu không giải quyết tốt sẽ xảy ra thất nghiệp, gây mất ổn định xã hội. Bộ Lao động đã nêu ra thực trạng hiện nay của thị trường lao động trong nước là lao động phân bố không đồng đều, bất hợp lý, lực lượng lao động tập trung phần lớn ở nông thôn, chiếm 73,5% lực lượng lao động trong cả nước. Trong số lao động có việc làm thì 70% làm việc không ổn định, dễ bị tổn thương, dễ rơi vào hoàn cảnh nghèo đói. Bởi vậy mỗi địa phương cần tận dụng triệt để lợi thế của mình để phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động, tránh tình trạng di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị, từ những vùng kinh tế kém phát triển sang vùng kinh tế phát triển một cách tràn lan và khó kiểm soát như hiện nay.
Thực tế cho thấy, ở mỗi địa phương thì nhu cầu lao động là rất khác nhau. Theo báo cáo của các địa phương, tình trạng lao động không có việc làm vẫn ở mức cao trong khi nhu cầu tuyển dụng hiện nay rất lớn. Ví Dụ: Tại Đồng Nai, hàng năm địa phương này thiếu hụt 20.000 lao động (5.000 lao động đã qua đào tạo và 15.000 lao động phổ thông). Trong khi đó, ở Tp. HCM, từ đầu năm đến nay có trên 23.000 lao động mất việc, nhưng nhu cầu tuyển dụng lên đến trên 61.000 người. Tại Bình Dương, số lao động cần tuyển là gần 42.000 người, Cần Thơ cần 5.212 người, Vũng Tàu cần khoảng 5.000 người, Long An trong 6 tháng đầu năm 2009 có nhu cầu tuyển đến 6.460 lao động. TP.HCM dẫn đầu về khu vực có nhiều cơ hội làm việc nhất, chiếm 57% tổng số công việc trên toàn quốc. Tiếp theo là Hà Nội với 24% trong tổng số các công việc đã được đăng tuyển và cũng là nơi có nhu cầu lao động t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Sử dụng mô hình kinh tế lượng phân tích 1 số các yếu tố ảnh hưởng tới cầu lao động trong các Doanh nghiệp Việt Nam.doc