MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Lời mở đầu 1
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN BÌNH LỤC 3
I. Khái quát về Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – chi nhánh huyện Bình Lục 3
1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Bình Lục 3
2. Sơ lược về ngân hàng nông nghiệp và phát triển nôn thôn Việt Nam và chi nhánh huyện Bình Lục 3
2.1 Cơ cấu tổ chức, mạng lưới hoạt động 5
2.2 Chức năng và nhiệm vụ chính của các Phòng (Tổ) tại NHNo huyện Bình Lục. 7
3. Hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNN & PTNT huyện Bình Lục 8
3.1 Hoạt động huy động vốn 10
3.2 Hoạt động sử dụng vốn 12
3.3 Hoạt động dịch vụ 14
3.4 Kết quả kinh doanh 17
II. Thực trạng hoạt động huy động vốn tại chi nhánh NHNo huyện Bình Lục 18
1. Theo đối tượng 18
2. Theo phương thức huy động 23
3. Theo kỳ hạn 29
4. Theo loại tiền 32
5. Đánh giá hoạt động huy động vốn tại chi nhánh NHNo huyện Bình Lục 35
5.1 Thành tựu đạt được 35
5.2 Hạn chế còn tồn tại 37
5.3 Nguyên nhân của những hạn chế 38
5.3.1 Nguyên nhân khách quan 38
5.3.2 Nguyên nhân chủ quan 39
CHƯƠNG 2: GIẢI PHÁP ĐỂ TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN BÌNH LỤC 41
1. Định hướng phát triển của chi nhánh NHNo huyện Bình Lục hướng phát triển chung 41
2. Định hướng hoạt động huy động vốn 43
3. Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Chi nhánh NHNN&PTNN Bình Lục 43
3.1 Nhóm giải pháp chủ yếu 44
3.1.1 Nâng cao công tác dự báo tình hình kinh tế 44
3.1.2 Giải pháp về sản phẩm huy động vốn 46
3.1.3 Chính sách khách hàng 52
3.1.4 Tăng cường hoạt động Marketing ngân hàng 54
3.1.5 Tăng cường chất lượng nguồn nhân lực 56
3.2 Nhóm giải pháp bổ trợ 57
3.2.1 Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng 57
3.2.2 Mở rộng mạng lưới hoạt động 59
3.2.3 Củng cố, nâng cao uy tín, tạo lòng tin đối với khách hàng 60
4. Kiến nghị 62
4.1 Kiến nghị với chính phủ và bộ ngành có liên quan 62
4.2 Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước 63
4.3 Kiến nghị với NHNN&PTNN Việt Nam 65
KẾT LUẬN 67
70 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1924 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Bình Lục – Hà Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lãi, thời hạn thanh toán… linh hoạt, phù hợp hơn với thị trường để có thể huy động được nguồn tiềm năng này một cách thường xuyên, liên tục và tận dụng được các ưu điểm của nó so với các nguồn khác.
3. Theo kỳ hạn
Bảng 7: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo kỳ hạn của NHNN&PTNN huyện Bình Lục trong thời kỳ 2006-2008
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Số tiền
06/05 (%)
Số tiền
07/06 (%)
Số tiền
08/07 (%)
Tiền gửi không kỳ hạn
65.704
244,4%
87.143
132,6%
76.378
87,65%
Tiền gửi dưới 12 tháng
71.389
102,5%
75.145
105,3%
157.253
209,3%
Tiền gửi từ 12 tháng trở lên
30.094
59,9%
48.203
160,2%
46.178
95,8%
Tổng NV huy động
167.187
134,61%
210.491
125,9%
279.809
132,93%
(Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHNN&PTNN huyện Bình Lục)
Biểu đồ tỷ trọng cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn
Việc phân theo kỳ hạn các nguồn vốn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xác định sự chuyển dịch cơ cấu vốn để đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng tăng của nền kinh tế.
Tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn thường được dùng chủ yếu cho mục đích tiêu dùng và thanh toán, có kỳ hạn thực tế rất ngắn và không ổn định. Tiền gửi không kỳ hạn bị ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố chu kỳ kinh doanh, tính thời vụ… của các tổ chức kinh doanh hoặc tiêu dùng các nhân.
Mặc dù đây là một nguồn vốn rất rẻ đối với ngân hàng nhưng nó không ổn định và có thể gây rủi ro thanh khoản cho ngân hàng. Do đó duy trì tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn ở mức cao gây khó khăn trong việc cân đối kỳ hạn giữa nguồn vốn và tài sản của ngân hàng.
Nhìn vào bảng số liệu phân tích có thể thấy rõ các nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn. Tiền gửi không kỳ hạn tăng từ 39,3% tổng vốn huy động năm 2006 lên tới 41,4% năm 2007. Do lãi suất huy động cao, năm 2008, tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn đã giảm xuống, tuy nhiên vẫn chiếm 27,3% tổng vốn huy động.
Chiếm tới 30% - 40% tổng vốn huy động, Chi nhánh hiện nay đang có tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn khá cao so với mức bình quân ngành, điều này gây khó khăn cho ngân hàng khi cho vay trung – dài hạn, làm giảm lợi nhuận, và không đáp ứng được các nhu cầu về vốn của khách hàng.
Tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng
Tiền gửi dưới 12 tháng thường là nguồn huy động lớn nhất của các ngân hàng do có kỳ hạn ngắn, linh hoạt, lãi suất cao hơn tiền gửi không kỳ hạn, nên được các tổ chức kinh tế và dân cư ưa thích hơn. Đồng thời, do tiền gửi dưới 12 tháng có kỳ hạn thực tế ngắn, nhưng khá ổn định với lãi suất không cao nên cũng là một nguồn huy động hấp dẫn đối với ngân hàng.
Do một phần tiền gửi có kỳ hạn của dân cư (tiền tiết kiệm) thường có kỳ hạn thực tế lớn hơn kỳ hạn danh nghĩa của nó, nên Tiền gửi có kỳ hạn loại này không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn cho vay ngắn hạn của ngân hàng mà còn đáp ứng một phần nhu cầu cho vay và đầu tư trung - dài hạn của ngân hàng. Đây là một nguồn quan trọng cần được chú trọng huy động.
Theo bảng số liệu ta có thể thấy, tiền gửi dưới 12 tháng ở Chi nhánh chiếm tỷ trọng không cao trong tổng nguồn vốn huy động. Tiền gửi dưới 12 tháng đã giảm từ 42,7% năm 2006 xuống còn 35,7% năm 2007. Năm 2008 nguồn vốn ngắn hạn này đã tăng lên, chủ yếu do lãi suất tăng mạnh và thất thường, chiếm tỷ trọng lớn là 56,2% tổng nguồn vốn, tăng tới 109,3% so với năm 2007 tương ứng 82.108 triệu đồng. Chi nhánh cần tiếp tục duy trì và tăng mức tiền gửi này.
Tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.
Loại tiền gửi này chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm dài hạn của dân cư. Tiền gửi có kỳ hạn dài thường có lãi suất huy động cao hơn so với tiền gửi dưới 12 tháng, tuy nhiên loại tiền gửi này là rất ổn định, và ngân hàng chỉ phải duy trì dự trữ bắt buộc và dự trữ thanh toán của loại tiền gửi này thấp hơn hẳn so với tiền gửi dưới 12 tháng và tiền gửi không kỳ hạn nên chi phí huy động thực tế không cao hơn nhiều so với các loại tiền gửi kỳ hạn ngắn.
Tuy nhiên, loại tiền gửi nay không được các khách hàng ưa thích, vì lạm phát cao, lãi suất không ổn định, bất ổn kinh tế… như hiện nay làm tăng rủi ro đối với khách hàng khi gửi với kỳ hạn dài. Do đó loại tiền gửi này thường chiếm tỷ trọng thấp trong tổng vốn huy động của ngân hàng.
Theo số liệu, tiền gửi kỳ hạn trên 12 tháng đã tăng từ 18% năm 2006 lên 22,9% năm 2007 tương ứng với mức 18.109 triệu đồng, là một mức tăng trưởng khá. Nhưng năm 2008, loại tiền gửi này đã giảm 2.025 triệu đồng, và chỉ chiếm 16,5% tổng vốn huy động, do lãi suất biến động thất thường.
Nhìn chung, nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn, khỏng hơn 80% trong tổng vốn huy động của Chi nhánh, trong đó tiền gửi không kỳ hạn là khá cao. Như vậy, Chi nhánh có kỳ hạn trung bình của vốn khá ngắn, cơ cấu kỳ hạn còn bất hợp lý. Các nguyên nhân của tình trạng này là:
Thứ nhất, như đã phân tích ở trên, một trong các nguồn vốn huy động chính của Chi nhánh là từ các Tổ chức kinh tế, vì thế các nguồn này thường là nguồn tiền gửi không kỳ hạn nhằm mục đích thanh toán.
Thứ hai, trong những năm gần đây, tình hình lạm phát tăng cao, vào năm 2007 tỷ lệ lạm phát là 8,3%, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2007 tăng 12,36% so với cùng kì năm ngoái, đến năm 2008 lạm phát quá cao có lúc tới 28,3% vào tháng 8 cao nhất trong 17 năm qua. Do vậy người dân chủ yếu giữ tiền để tiêu dùng hoặc gửi ngân hàng với kì hạn ngắn.
Thứ ba, do xuất hiện nhiều kênh đầu tư khác như thị trường chứng khoán và bất động sản… nên người dân chủ yếu gửi tiền với kỳ hạn ngắn để linh hoạt trong đầu tư.
Nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao làm cho lãi suất huy động bình quân thấp, chi phí đầu vào rẻ, từ đó dẫn đến lãi suất cho vay thấp, thu hút được nhiều khách hàng, nâng cao doanh số hoạt động tín dụng.
Tuy nhiên điều này lại đặt ra một thách thức đối với NHNN&PTNN huyện Bình Lục là làm sao để chủ động trong việc cho vay trung và dài hạn trong khi nguồn vốn huy động lại hầu hết là ngắn hạn. Ngân hàng huy động vốn không chỉ về số lượng mà còn phải vì chất lượng, có nghĩa là làm thế nào để có thể đảm bảo cân đối giữa vốn dài hạn và vốn ngắn hạn, để từ đó có thể đáp ứng được các nhu cầu vay vốn của khách hàng.
4. Theo loại tiền
Bảng 8: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo loại tiền của NHNN&PTNNhuyện Bình Lục thời kì 2006-2008
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Số tiền
06/05 (%)
Số tiền
07/06 (%)
Số tiền
08/07 (%)
Nội tệ
151.726
129,8%
189.288
124,75%
255.264
137,85%
Ngoại tệ
15.461
121,4%
21.203
137,13%
24.545
115,76%
Tổng NV
huy động
167.187
134,61%
210.491
125,9%
279.809
132,93%
( Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHNN&PTNN huyện Bình Lục)
Biểu đồ tỷ trọng huy động nguồn vốn theo loại tiền
Một trong những lý do mà người dân không yên tâm gửi tiền tại các ngân hàng là tâm lý e ngại sự trượt giá của bản tệ. Do đó, họ chọn cách giữ tiền hiệu quả hơn là mua vàng, bất động sản hoặc là ngoại tệ mạnh. Hiểu rõ tâm lý của khách hàng và cũng nhằm đáp ứng nhu cầu của các khách hàng trong thanh toán, Chi nhánh đã liên tục triển khai các hình thức huy động, trong đó bao gồm huy động cả ngoại tệ và nội tệ.
Vốn huy động bằng nội tệ
Nhìn vào bảng số liệu và biểu đồ phân tích có thể thấy nguồn vốn huy động chủ yếu của Chi nhánh là vốn huy động bằng đồng nội tệ, hằng năm chiếm khoảng xấp xỉ 90% tổng nguồn vốn huy động với mức tăng trưởng hằng năm khoảng 30%.
NHNN&PTNN huyện Bình Lục là ngân hàng hoạt động trên địa bàn có nhu cầu vốn nội tệ rất lớn, do đó, ngân hàng đã coi việc huy động vốn nội tệ là nhiệm vụ số một có tính quyết định phát triển kinh doanh. Trong môi trường lãi suất cạnh tranh, các Ngân hàng thương mại cổ phần luôn duy trì lãi suất tiền gửi cao hơn, Chi nhánh đã phải nỗ lực hết mình trong việc đa dạng hóa các hình thức huy động như tiết kiệm bậc thang, tiết kiêm gửi góp, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm khuyến mãi, gửi tiết kiệm đảm bảo bằng vàng … để thu hút thêm nữa khách hàng. Ngoài ra, Chi nhánh còn giữ mối quan hệ với các khách hàng cũ, tiếp cận, tìm kiếm thêm các khách hàng mới. Do đó, mặc dù trong điều kiện hết sức khó khăn nhưng nguồn vốn huy động bằng nội tệ vẫn tăng cao và tăng đều qua các năm, chiếm tỷ trọng khá ổn định, nhằm tài trợ cho các dự án bằng đồng nội tệ.
Vốn huy động bằng ngoại tệ
Kể từ khi Việt Nam hòa nhập với nền kinh tế thế giới, nhu cầu buôn bán xuất khẩu hàng hóa qua lại giữa Việt Nam với các nước bạn tăng cao, do đó nhu cầu sử dụng các đông ngoại tệ cũng tăng cao. Nhận thức được điều này, công tác huy động nguồn vốn bằng ngoại tệ luôn được các ngân hàng chú trọng và phát triển.
Thanh toán biên mậu là một thế mạnh của NHNN&PTNN huyện Bình Lục, với ưu thế là một ngân hàng có khối lượng giao dịch lớn, khách hàng đa dạng nên dịch vụ này đã được triển khai rộng rãi và đạt được kết quả tốt. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn ngoại tệ năm 2006 là 21,4% so với năm 2005, chiếm 9,25% trong tổng nguồn vốn huy động thì đến năm 2007 vẫn tốc độ tăng trưởng này là 37,13% so với năm 2006, chiếm 10,08% trong tổng nguồn vốn huy động. Tuy nhiên đến năm 2008, nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ tăng nhẹ 15,76% so với năm 2007 và chỉ chiếm 8,78% tổng nguồn vốn huy động. Sở dĩ trong năm vừa qua lại có tăng chậm như vậy là do năm 2008 là năm ghi nhận rất nhiều biến động về nền kinh tế: tỷ giá đồng USD không ổn định, giảm vào tháng 2, tăng mạnh vào tháng 6 và lại giảm trong những tháng cuối năm. Đây là sự giảm sút dây chuyền ảnh hưởng từ nền kinh tế Mỹ. Bên cạnh đó, giá vàng tăng cao nên người dân chủ yếu đầu tư vào vàng mà bỏ qua kênh đầu tư vào ngoại tệ mạnh. Mặt khác, do tình hình lạm phát tăng cao nên các ngân hàng thương mại được chỉ thị không huy động ngoại tệ vào để tránh cung cấp một lượng tiền nội tệ ra ngoài thị trường gây tăng lạm phát vào những tháng cuối năm.
Nói chung, việc tụt giảm trong huy động vốn bằng đồng ngoại tệ trong năm vừa qua không phải chỉ là do nguyên nhân khách quan từ phía chi nhánh mà phần nhiều là do nguyên nhân khách quan của nền kinh tế. Nhưng đối mặt với những yêu cầu cấp bách của hiện tại, khi Việt Nam đã gia nhập vào WTO, nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa tăng cao, nhập siêu càng ngày càng tăng, năm 2007 tăng gấp 2,6 lần so với năm 2006 thì nhu cầu sử dụng ngoại tệ càng tăng cao. Do đó, Chi nhánh cần có những biện pháp kịp thời và hiệu quả để làm tăng nguồn vốn huy động từ ngoại tệ, đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng.
5. Đánh giá hoạt động huy động vốn tại chi nhánh NHNo huyện Bình Lục
5.1 Thành tựu đạt được
Chi nhánh NHNN&PTNN huyện Bình Lục trải qua 12 năm xây dựng và trưởng thành đã vượt qua nhiều khó khăn và thử thách, từng bước khẳng định được năng lực của mình bằng những bước đi vững chắc và cùng hệ thống ngân hàng đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Hà Nam nói riêng và đất nước nói chung. Trong thời gian hoạt động, Chi nhánh luôn xác định hoạt động tăng cường huy động vốn là nhiệm vụ số một và mục tiêu hướng tới của mình. Do đó, ngoài đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, mở rộng nhiều dịch vụ tiện ích để phục vụ khách hàng thì Chi nhánh còn tích cực sử dụng nhiều chính sách phục vụ khách hàng, áp dụng lãi suất huy động một cách linh hoạt phù hợp với sự biến động giá cả trong từng thời điểm… Trong thời gian vừa qua, Chi nhánh đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Thứ nhất, tổng vốn huy động của Chi nhánh không ngừng tăng trưởng với tốc độ nhanh và luôn vượt chỉ tiêu đề ra. Mặc dù năm 2008 là năm có tình hình kinh tế khó khăn, lạm phát quá cao… nhưng tổng nguồn vốn huy động vẫn tăng 32.93% so với năm 2007 (chưa đạt chỉ tiêu đề ra 35%).
Thứ hai, các sản phẩm huy động vốn ngày càng được nâng cao vè chất lượng và số lượng. Ngoài hình thức huy động truyền thống thì NHNN&PTNN huyện Bình Lục đã bổ sung thêm nhiều hình thức như tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm khuyến mãi bằng hiện vật, phát hành các giấy tờ có giá với các phương thức trả lãi trước, trong và sau, kỳ hạn đa dạng, phong phú.
Thứ ba, cơ cấu nguồn huy động ngày càng hợp lý. Chi nhánh đã linh hoạt với những thay đổi của nền kinh tế thị trường, hoạt động không chỉ hướng tới khối công thương nghiệp mà đã phát triển theo hướng đa năng, chủ trương liên kết, hợp tác với tất cả các thành phần kinh tế. Do vây, chiến lược huy động cũng có từng bước chuyển dịch. Vốn huy động của các tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn, tiền gửi ngắn hạn với chi phí lãi thấp có tỷ trọng ngăy càng cao, phát hành giấy tờ có giá ngày càng thu hút được nhiều hơn nữa sự quan tâm của khách hàng.
Thứ tư, Chi nhánh đã làm tốt chiến lược chọn lọc tiếp cận khách hàng, nâng cao năng lực cán bộ cũng như đổi mới cung cách, thái độ phục vụ thể hiện văn minh công sở, mở rộng mạng lưới hoạt động, nâng cấp, sửa sang các phòng giao dịch đã góp phần quan trọng trong việc tăng thêm khách hàng giao dịch với chi nhánh. Do đó, tính đến 31/12/2008, Chi nhánh NHNN&PTNN huyện Bình Lục đã phát triển thêm lượng khách hàng cá nhân là trên 38.000 khách, khách hàng là tổ chức có 4000 khách.
Thứ năm, các chi nhánh trong hệ thống đều chủ động và tích cực huy động nguồn vốn tại chỗ. Trong công tác quản lý và điều hành vĩ mô, NHNN&PTNN huyện Bình Lục đã sớm đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ và biện pháp huy động vốn đúng đắn, thích hợp, luôn bổ sung và hoàn chỉnh các quy chế, phát huy quyền chủ động sáng tạo của từng chi nhánh phù hợp với địa phương mình.
Đạt được kết quả hôm nay là do sự cố gắng nỗ lực phấn đấu của các cán bộ công nhân viên trong toàn chi nhánh, dưới sự chỉ đạo của NHNN&PTNN Việt Nam, sự dìu dắt của Ban lãnh đạo Chi nhánh đã đưa Chi nhánh vượt qua khó khăn trong thời kỳ đầu đổi mới cho đến khi Việt Nam bước vào quá trình hội nhập, mở cửa sâu rộng.
5.2 Hạn chế còn tồn tại
Mặc dù Chi nhánh đã đạt được nhiều thành tựu to lớn song bên cạnh đó vẫn tồn tại nhiều mặt hạn chế.
Thứ nhất, nguồn vốn tuy tăng trưởng cao nhưng các hình thức huy động vốn vẫn tăng trưởng chưa ổn định. Nguồn tiền gửi từ dân cư không ổn định trong năm 2007, 2008.
Thứ hai, cơ cấu vốn có sự chuyển dịch tốt nhưng chưa thực sự hợp lý. Nguồn tiền gửi từ dân cư mặc dù chiếm tỷ trọng khá cao nhưng vẫn chưa đạt đến độ phù hợp với nhu cầu sử dụng, Bên cạnh đó, nguồn vốn huy động còn nghiêng về nguồn vốn ngắn hạn. Đây là nguồn vốn có chi phí huy động rẻ song lại đưa ra áp lực lớn đối với các khoản cho vay trung và dài hạn, khiến chi nhánh không thể cân bằng giữa huy động và cho vay, từ đó có thể gây ra rủi ro thanh khoản.
Thứ ba, các sản phẩm huy động vốn trong năm tuy có triển khai được nhiều nhưng vẫn chưa đủ và chưa tương xứng với sự phát triển của ngân hàng. Bên cạnh các sản phẩm tiền gửi đã áp dụng, ngân hàng chỉ mới có tiết kiệm bậc thang lãi suất chứ chưa có bậc thang về số tiền gửi, chưa có các gói tiết kiệm hay như rút gốc linh hoạt, chưa có các kì hạn ngắn như ngày, tuần… chưa triển khai phát triển nhiều loại thẻ dùng cho thanh toán phù hợp với từng loại đối tượng.
Thứ tư, Nguồn vốn mang tính chất không ổn định. Do nguồn huy động chủ yếu là từ các Tổ chức kinh tế, thường là các khoản tiền gửi không kỳ hạn nhằm mục đích thanh toán nên thời gian sử dụng vốn không dài, gây tình trạng bất ổn cho ngân hàng, gây khó khăn cho các hoạt động tín dụng và đầu tư của Chi nhánh.
Thứ năm, nguồn vốn ngoại tệ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn, không tới 10% và ngày càng có xu hướng thu hẹp trong khi nhu cầu sử dụng ngoại tệ lại đang tăng cao.
Để nguồn vốn có thể phát triển một cách ổn định, bền vững và đem lại hiệu quả thì tất cả các hạn chế nói trên của Chi nhánh cần phải được xem xét và đưa ra những biện pháp kịp thời để khắc phục nhanh chóng.
5.3 Nguyên nhân của những hạn chế
5.3.1 Nguyên nhân khách quan
Môi trường tồn tại xung quanh ngân hàng có thể thúc đẩy ngân hàng phát triển nhưng ở một khía cạnh nào đó, nó lại đang kìm hãm sự phát triển của ngân hàng,
Thứ nhất, nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn bất ổn với lạm phát tăng cao. Điều này làm cho người dân không muốn gửi tiền vào tiết kiệm mà phải dùng tiền cho hoạt động tiêu dùng hàng hóa
Thứ hai, nguyên nhân từ phía hệ thống cơ chế, chính sách. Hiện nay, chúng ta có nhiều văn bản pháp luật quy định về hoạt động của các NHTM cũng như các văn bản liên quan khác chưa được chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế hiện nay. Các văn bản này còn thiếu đồng bộ, nhiều khi thừa rắc rối lại thiếu chặt chẽ, chồng chéo lên nhau khiến cho các ngân hàng thương mại nói chung và Chi nhánh NHNN&PTNN huyện Bình Lục nói riêng còn lúng túng trong việc áp dụng.
Thứ ba, các khách hàng truyền thống của Chi nhánh là các doanh nghiệp Nhà nước do đó Chi nhánh thường xuyên có những ưu đãi. Nhưng trong nền kinh tế hiện nay, các Doanh nghiệp Nhà nước với cơ chế hoạt động đã cũ và hoàn toàn không còn thích hợp, hoạt động gặp nhiều khó khăn làm cho nguồn vốn huy động từ đối tượng này bị biến động mạnh.
Thứ tư, thị trường ngân hàng phải chịu sự cạnh tranh từ các thị trường khác như thị trường vàng năm 2008 do giá cả bất ổn.
Thứ năm, ngành ngân hàng trong những năm gần đây đang có sự phát triển vũ bão với ra đời va phát triển mạnh mẽ của hệ thống các Ngân hàng thương mại cổ phần trong và ngoài nước, các tổ chức tài chính và tổ chức tín dụng. Điều này đặt Chi nhánh vào một môi trường cạnh tranh gay gắt, làm cho thị phần của chi nhánh bị thu hẹp.
Thứ sáu, trình độ công nghệ thông tin chung của toàn ngành ngân hàng chưa đồng bộ, khó liên kết, mức độ tự động hóa các dịch vụ còn thấp, các chương trình hiện đại hóa ngân hàng chưa hoàn thiện và ổn định. Điếu này làm khách hàng ngần ngại tìm đến với các dịch vụ của ngân hàng.
Thứ bảy, do tâm lý của người dân trên địa bàn còn chưa quen với các công nghệ hiện đại, vẫn giữ thói quen thanh toán dùng tiền mặt, thích cầm tiền trong tay để phòng thân. Điều này cho thấy sự hiểu biết của người dân về hoạt động của ngân hàng còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, các thủ tục, chứng từ thanh toán qua ngân hàng chưa thật sự đơn giản, khiến cho người dân còn e ngại khi đến với ngân hàng.
5.3.2 Nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh các yếu tố khách quan bên ngoài, bản thân Chi nhánh còn tồn tại một số nguyên nhân chủ quan cần khắc phục.
Thứ nhất, Chi nhánh còn chủ yếu sử dụng các hình thức huy động vốn truyền thống, cạnh tranh chủ yếu bằng lãi suất, cách thức gửi và rút tiền còn rườm rà, gửi đâu rút đó, chưa có những dịch vụ hỗ trợ khách hàng thuận tiện hơn.
Thứ hai, Chi nhánh chưa thực hiện hiệu quả chính sách khách hàng trong huy động tiền gửi, các dịch vụ sau khi huy động vốn hầu như không có, đặc biệt khách hàng sau khi gửi tiền vào ngân hàng hoàn toàn không được cập nhập thêm những thông tin như sự biến động về số dư, lãi suất, tỷ giá…
Thứ ba, hoạt động Marketing, tuyên truyền quảng bá hình ảnh, các sản phẩm nghiệp vụ tuy đã có nhiều cố gắng và mang lại hiệu quả nhất định song vẫn còn hạn chế về chất lượng, mẫu mã, phương thức quảng bá, quảng cáo, tiếp thị… ít nhiều ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh.
Thứ tư, trình độ đội ngũ cán bộ chưa cao, quy trình giao dịch chưa đồng nhất, nhiều khâu còn phức tạp, đặc biệt các phòng giao dịch nhỏ còn chưa thực sự chủ động trong giao dịch với khách hàng. Một số trường hợp vẫn phải chuyển về Chi nhánh để giải quyết. Thời gian giao dịch chưa linh hoạt, bó hẹp trong giờ hành chính, hạn chế khả năng huy động vốn.
Thứ năm, trình độ khoa hoc công nghệ của Chi nhánh ở mức trung bình so với hệ thống các ngân hàng trên địa bàn và trong nước, việc ứng dụng công nghệ cao còn rất hạn chế, gây ảnh hưởng không nhỏ tới công tác giao dịch và phục vụ khách hàng.
Thứ sáu, tuy hoạt động lâu năm và có danh tiếng trên địa bàn nhưng cơ sở vật chất hiện tại vẫn đang còn lạc hậu so với măt bằng chung trên địa bàn và trong cả nước. Hệ thống thông tin chưa phát triển đồng bộ, mức độ tự động hóa thấp. Hầu như chưa thiết lập được hệ thống quản lý rủi ro hợp lý và chưa có chiến lược kinh doanh hiệu quả và bền vững.
CHƯƠNG 2: GIẢI PHÁP ĐỂ TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN BÌNH LỤC
1. Định hướng phát triển của chi nhánh NHNo huyện Bình Lục hướng phát triển chung
Năm 2008, NHNo huyện Bình Lục phấn đấu đạt các chỉ tiêu cơ bản theo thông báo KHKD năm 2007, Đề án phát triển kinh doanh giai đoạn 2005-2015 của NHNo Việt Nam phê duyệt và định hướng phát triển kinh doanh của NHNo huyện Bình Lục đề ra đó là:
Một là: Tập trung huy động nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn huy động từ dân cư, các TCKT, TCTC và tổ chức xã hội khác. Chú trọng huy động nguồn vốn trung và dài hạn cả nội và ngoại tệ.
Hai là: Tập trung khai thác và mở rộng cho vay các thành phần kinh tế làm ăn có hiệu quả, dự án khả thi, tình hình tài chính lành mạnh, đáp ứng đầy đủ quy định về vay vốn chú trọng khai thác đầu tư đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ sản xuất. Tiếp tục tìm mọi giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, rà soát hoàn chỉnh hồ sơ 100% khách hàng đang còn dư nợ. Tập trung tìm mọi giải pháp thu hồi nợ đã xử lý rủi ro..
Ba là: Tập trung triển khai nâng cao chất lượng phục vụ các loại hình dịch vụ, sản phẩm dịch vụ toàn diện có hiệu quả, thị hiếu trong cơ chế thị trường.
Bốn là: Tập trung triển khai toàn diện có hiệu quả, chất lượng cao công tác quảng cáo, quảng bá toàn diện kịp thời các mặt hoạt động nghiệp vụ ngân hàng, các loại hình dịch vụ, sản phẩm công nghệ hiện đại có hiệu quả, thị hiếu trong cơ chế thị trường nhằm nâng cao thương hiệu uy tín của NHNo huyện Bình Lục nói riêng và NHNo VN nói chung.
Năm là: Tiếp tục xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, đào tạo lại toàn diện các mặt nghiệp vụ tín dụng, kế toán, thanh toán quốc tế.... đặc biệt là nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học, khai thác chương trình công nghệ hiện đại trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nhằm đáp ứng tốt quy chuẩn cán bộ ngân hàng chuẩn bị hội nhập trong khu vực và quốc tế.
Thực hiện đề án kinh doanh 2005-2015, chi nhánh đã lên kế hoạch phát triển chung trong năm 2009 như sau:
- Tiếp tục giữ vững và phát huy kết quả kinh doanh trong năm 2008.
- Tổng nguồn vốn tăng 10% - 15% so năm 2008.
- Tổng dư nợ đạt tăng 10% - 15% so năm 2008. Trong đó, nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 : Từ 1,5% đến 2,5 % Tổng dư nợ. Bám sát chỉ tiêu kế hoạch tăng trưởng tín dụng, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu đầu tư, nâng tỷ trọng cho vay ngắn hạn, chiếm tư 35% đến 40% tổng dư nợ. Trích và xử lý rủi ro số nợ còn tồn đọng đúng quy định của TW, hạn chế tới mức tối đa nợ tồn đọng phát sinh mới. Kiên quyết thu hồi các khoản nợ đến hạn cả gốc và lãi, nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5. Tập trung thu hồi nợ đã xử lý rủi ro của các thành phần kinh tế, đặc biệt nợ của các đối tượng vay tiêu dùng đặc biệt cương quyết thu hồi phát mại tài sản thế chấp của khách hàng còn dư nợ. Mở rộng đầu tư quan hệ tín dụng đặc biệt là cho vay các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dự án đồng tài trợ khả thi, hạn chế rủi ro trong đầu tư tín dụng, từng bước nâng cao chất lượng, lành mạnh hoá chất lượng tín dụng. Thực hiện nghiêm túc QĐ 493 của NHNN.
- Phấn đấu có đủ Quỹ thu nhập để chi lương tối đa theo thông báo và quy định của NHNo Việt nam.
- Mở thêm và nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đưa tỷ lệ thu dịch vụ tăng 12% đến 15% so năm 2008.
2. Định hướng hoạt động huy động vốn
Từ định hướng phát triển chung của ngân hàng cũng như xem xét, dự báo tình hình kinh tế trong năm 2009, Chi nhánh đã xây dựng các kế hoạch cụ thể cho hoạt động huy động vốn trong năm 2009 như sau:
- Tổng nguồn vốn tăng 10% - 15% so năm 2008 tức là khoảng từ 40 tỷ đồng. Triển khai tiếp việc nâng cấp toàn diện các chi nhánh đặc biệt PGD có đủ điều kiện hoạt động các nghiệp vụ huy động vốn.
- Mở rộng màng lưới huy động vốn có chọn lọc nhằm nâng kết cấu nguồn huy động dân cư chiếm từ 30 đến 35% tổng nguồn, tiếp thị vận động thêm nhiều khách hàng về mở tài khoản giao dịch và vay vốn tại Chi nhánh.
- Tiếp tục thu hút các nguồn tiền gửi từ các TCKT, đảm bảo thực hiện khả năng thanh toán nhanh nhạy, chính xác.
- Đa dạng hóa các sản phẩm tiền gửi, tổ chức các hoạt động khuyến mãi để thu hút khách hàng.
- Phát triển thêm các dịch vụ đi kèm tiền gửi để thu hút nguồn vốn.
- Triển khai ứng dụng tốt chương trình hiện đại hoá ngân hàng, tiếp tục nâng cấp và bổ sung các phần mềm mới trong giao dịch với khách hàng (IPCAS), chương trình gửi nhiều nơi rút nhiều nơi, phần mềm kết nối thanh toán, chương trình giao dịch qua mạng Internet, SMS, VNStopUp…, nhằm cung cấp dịch vụ tiện ích tốt nhất cho khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh.
3. Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Chi nhánh NHNN&PTNN Bình Lục
Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chính và có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự sống còn cũng như phát triển của các NHTM. Nhất là trong nền kinh tế nước ta những năm gần đây, trước sự bùng nổ của hệ thống NHTM thì sự cạnh tranh trong việc thu hút vốn lại càng gay gắt hơn bao giờ hết. Năm 2008 cũng như những tháng đầu năm 2009 đã chứng kiến cuộc chạy đua lãi suất huy động của hệ thống các NHTM. Điều này càng chứng tỏ tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn trong các NHTM.
Chi nhánh NHNo & PTNT huyện Bình Lục cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó. Đối mặt với rất nhiều khó khăn trong nền kinh tế hiện đại, chi nhánh luôn nhận thức rõ tầm quan tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21752.doc