Chuyên đề Thực trạng và các giải pháp phát triển hoạt động tín dụng nhập khẩu ở Chi nhánh Đông Đô- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

 Tín dụng là hoạt động nghiệp vụ quan trọng nhất của các ngân hàng và của các trung gian tài chính nói chung, nó chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản và hoạt động này cũng tạo ra thu nhập từ lãi lớn nhất cho các ngân hàng. Tuy nhiên, điều này lại đồng nghĩa với việc đây là hoạt động mang lại rủi ro lớn nhất cho các ngân hàng. Vậy, tín dụng là gì?

 Tín dụng (cho vay) là hình thức quan hệ giữa hai đối tượng: người đi vay và người cho vay, trong đó người cho vay nhượng lại quyền sử dụng vốn cho người đi vay dựa trên sự tín nhiệm và theo nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi sau một thời gian nhất định. Sự hoàn trả này không chỉ bảo tồn về mặt giá trị mà vốn tín dụng còn được tăng thêm dưới hình thức lợi tức. Đây chính là biểu hiện cho thấy sự khác biệt giữa tín dụng và các hình thức kinh tế khác.

 

doc59 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và các giải pháp phát triển hoạt động tín dụng nhập khẩu ở Chi nhánh Đông Đô- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợp pháp của người lao động. Chi nhánh không ngừng chăm lo, cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho người lao động, để có thể giữ chân nhân viên tránh tình trạng chảy máu chất xám và để họ thấy rằng “BIDV là ngôi nhà chung của mình”. 5. Tình hình tài chính của Chi nhánh Hướng tới mục tiêu trở thành một tập đoàn tài chính vững mạnh, BIDV có tình hình tài chính ổn định, minh bạch, lợi nhuận trước thuế năm 2006 đạt 1.340 tỷ đồng trong đó Chi nhánh Đông Đô chiếm 25,9 tỷ đồng. Huy động vốn bình quân của Chi nhánh đạt 1.579 tỷ đồng, dư nợ tín dụng 1.378 tỷ đồng, trích DPRR (luỹ kế trong năm) đạt 11% trong năm 2006. Kể từ khi đi vào hoạt động từ 31/7/2004 đến nay, chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đông Đô đã đạt được một số kết quả kinh doanh như sau: Bảng 1 Tình hình tài chính trong 3 năm qua (2004-2006) tại Chi nhánh Đông Đô – NH ĐT&PT VN Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 31/12/2004 31/12/2005 2006 1 Tổng huy động vốn 752,973 1278,900 2107 2 Tổng dư nợ tín dụng 289,377 731,400 1378 3 Thu dịch vụ 1,200 3,915 Nguồn: Phòng Kế hoạch Nguồn vốn 6. Tình hình sử dụng công nghệ của Chi nhánh Đông Đô và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Xác định công nghệ là điều kiện để phát triển một mô hình ngân hàng hiện đại, BIDV đã đầu tư nguồn lực phát triển lĩnh vực nàỵ, trang bị công nghệ tiên tiến đồng bộ cho các Chi nhánh, phòng giao dịch trong đó có Chi nhánh Đông Đô. Bên cạnh việc kết nối mạng thanh toán với gần 200 đơn vị, tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng swift-telex, kết nối mạng thanh toán song biên với một số ngân hàng bạn; trang bị đầy đủ hệ thống máy chủ, máy trạm và các chương trình thanh toán tập trung, hạch toán kế toán, thông tin... phục vụ quản trị điều hành. Đặc biệt, với việc triển khai thành công dự án hiện đại hoá ngân hàng do WB tài trợ, đến hết năm 2005, BIDV đã triển khai thành công dự án tại 144 BDS (Chi nhánh), mở rộng mạng lưới ATM, POS lên hơn 500 máy tại tất cả các địa bàn trọng điểm trên cả nước. Nhiều sản phẩm dịch vụ ứng dụng công nghệ thông tin đã được áp dụng, triển khai ở từng qui mô, cấp độ khác nhau: Dịch vụ ATM, Dịch vụ Homebanking, Phone banking, Mobile banking… CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NHẬP KHẨU CỦA CN ĐÔNG ĐÔ-NH ĐT&PT VN I.KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ-NH ĐT&PT VN TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 1. Kết quả công tác huy động vốn Ngay từ những năm đầu Chi nhánh đi vào hoạt động, Ban lãnh đạo đã thống nhất quan điểm tập trung chỉ đạo toàn Chi nhánh triển khai các giải pháp, biện pháp nhằm mục tiêu: Phấn đấu hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh với chất lượng tốt nhất nhằm đảm bảo sự an toàn và đạt hiệu quả cao trển cơ sở ổn định và tăng trưởng bền vững. Thực hiện nghiêm túc các quy chế, quy định của NHNN và sự chỉ đạo của NH ĐT&PT VN về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, chất lượng hoạt động, tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn, các giới hạn đảm bảo an toàn hoạt động, dữ trữ thanh toán, trạng thái ngoại tệ về hoạt động ngân hàng… Bảng 2 Tình hình vốn huy động qua 3 năm 2004-2006 tại Chi nhánh Đông Đô – NH ĐT&PT VN Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 31/12/2004 31/12/2005 31/12/2006 Tổng huy động vốn 753 1.279 2.107 Theo loại hình huy động - Huy động dân cư 726 939 1.475 - Huy động TCKT 27 340 632 Theo loại ngoại tệ - VND 450 839 1635 - Ngoại tệ 303 440 472 Theo thời hạn huy động - Dưới 1 năm - Trên 1 năm 453 680 708 300 599 767 Nguồn: Phòng Kế hoạch Nguồn vốn Trong công tác huy động vốn, Chi nhánh đã hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra, trong cả 03 năm từ 2004 đến 2006. Nguồn vốn huy động của Chi nhánh bao gồm vốn từ các tổ chức tín dụng, từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế…Trong năm 2004, tổng vốn huy động của cả Chi nhánh chỉ đạt 753 tỷ đồng, sang đến năm 2005, 2006 đạt 1.279 và 2107 tỷ đồng tức là tăng trung bình 66.5% mỗi năm, tốc độ này là cao so với chỉ tiêu đặt ra chỉ là 41% mỗi năm trong giai đoạn từ 2005-2007. Trong đó: Huy động TCKT năm 2006 đạt 632 tỷ đồng, tăng 259% so với 2004 và 85% so với 2006, chiếm tỷ trọng 30% so với tổng vốn huy động (năm 2006). Điều đó chứng tỏ Chi nhánh đã chú trọng công tác phát triển khách hàng tiền gửi là các TCKT. Huy động vốn dân cư đạt 1.475 tỷ đồng năm 2006, chiếm 70% trên tổng số vốn huy động và có tốc độ tăng lần lượt là 29% và 57% so với hai năm trước đó. Nguồn vốn này huy động từ dân cư và có tính ổn định cao đã tạo cho công tác huy động vốn của Chi nhánh có nền khác hàng tương đối ổn định. Nguồn vốn dân cư tăng lên do Chi nhánh đã thực hiện chủ trương của TW là phối kết hợp triển khai nhiều hình thức huy động vốn, đa dạng phong phú. Huy động theo loại ngoại tệ: tỷ trọng tiền gửi bằng VND tăng dần qua các năm, năm 2004 đạt 60%, đến năm 2005 và 2006 đạt lần lượt là 66% và 78% do đó tiền gửi bằng ngoại tệ có tỷ trọng giảm tương ứng. Tuy nhiên lượng tiền gửi bằng VND và ngoại tệ đều tăng lên nhưng tốc độ tăng của tiền gửi VND vẫn nhanh hơn. Theo thời hạn huy động: lượng tiền gửi vào Chi nhánh qua 3 năm đều tăng, song tốc độ tăng tiền gửi có kỳ hạn trên 1 năm là lớn hơn tốc độ tăng tiền gửi ngắn hạn, điều này là rất tốt bởi hoạt động tín dụng trung dài hạn ở Chi nhánh chiếm tỷ trọng khá lớn so với tín dụng ngắn hạn. * Về cơ cấu, tăng trưởng, chất lượng nguồn vốn như sau: Cơ cấu nguồn vốn tương đối đồng đều về kỳ hạn đảm bảo tốt nhu cầu thanh khoản, giải ngân tín dụng cũng như đầu tư tiền gửi tại Chi nhánh góp phần làm tăng nguồn vốn huy động của toàn Ngân hàng. Bảng 3 Cơ cấu huy động vốn trong 3 năm qua (2004-2006) tại Chi nhánh Đông Đô – NH ĐT&PT VN Đơn vị: % Chỉ tiêu 31/12/2004 31/12/2005 31/12/2006 Huy động VNĐ/Tổng huy động 60 66 78 Huy động ngoại tệ/Tổng huy động 40 34 22 Huy động ngắn hạn/Tổng huy động 55 57 60 Huy động dài hạn/Tổng huy động 45 43 40 Huy động dân cư/Tổng huy động 96 73 70 Huy động TCKT/Tổng huy động 4 27 30 Nguồn: Phòng Kế hoạch Nguồn vốn Trong ba năm qua, Chi nhánh liên tục đưa ra thị trường các sản phẩm huy động vốn tiện ích, hấp dẫn phù hợp với từng khu vực trên cơ sở ứng dụng công nghệ hiện đại để tăng cường huy động vốn từ dân cư tạo nên sự ổn định, vững chắc của nền vốn. Việc ứng dụng công nghệ và các sản phẩm dịch vụ mới khác biệt vào huy động vốn để tạo niềm tin, sự tin cậy đối với sản phẩm của Chi nhánh nói riêng và BIDV nói chung. * Về công tác điều hành, quản lý nguồn vốn và huy động nguồn vốn: Chi nhánh đã chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định, chỉ đạo của NH ĐT&PT VN trong công tác huy động, lãi suất. Ban giám đốc đã chỉ đạo triển khai các chương trình huy động của TW tại Chi nhánh đạt hiệu quả cao. Điển hình việc các nhân viên của Chi nhánh đã làm tốt công tác tuyên truyền vận động khách hàng về tiện ích và hiệu quả kinh tế của các sản phẩm huy động vốn mới như: Tiết kiệm rút dần, rút trước hạn, phân tầng, ổ trứng vàng, tiết kiệm dự thưởng, kỳ phiếu… Chi nhánh cũng là một trong những đơn vị thí điểm chương trình quản lý vốn tập trung của BIDV, dự kiến trong năm 2007 này, BIDV sẽ triển khai chương trình này trong toàn hệ thống, như vậy nguồn vốn tập trung tại TW tránh cho các Chi nhánh rủi ro về thanh khoản, giải quyết tốt các khó khăn về nguồn vốn. Chi nhánh đã thực hiện tốt các chỉ số an toàn, các giới hạn trong huy động và sử dụng vốn, cân đối sử dụng nguồn vốn tiết kiệm hiệu quả; lãi suất huy động bình quân hợp lý; vốn hữu dụng cao, đảm bảo cơ cấu về kỳ hạn, loại tiền, cấu trúc mức sinh lời tốt nhất và an toàn. Chi nhánh đã tạo được lòng tin và uy tín với các khách hàng là dân cư, hình thành một khối lượng khách hàng tiền gửi truyền thống gắn bó với Chi nhánh, đây là nguồn vốn có tính ổn định cao, mức độ biến động làm ảnh hưởng đến kết quả huy động vốn không lớn. Tuy nhiên, Chi nhánh cũng gặp không ít khó khăn trong công tác huy động vốn mà nguyên nhân thì nhiều trong đó phải kể đến sự cạnh tranh về lãi suất giữa các Ngân hàng, đặc biệt là việc áp dụng lãi suất cao tại các NHTMCP, sự biến động của giá vàng, giá đôla mà gần đây nhất thì do sự phát triển quá “nóng” của thị trường chứng khoán là nguyên nhân chính dẫn đến nguồn vốn huy động tăng chậm trong thời gian gần đây. Sự phát triển sơ khai của thị trường chứng khoán trong thời gian qua đang dẫn đến xu hướng chuyển dịch dòng tiền từ gửi tiết kiệm sang đầu tư chứng khoán. Ai cũng muốn đầu tư vào chứng khoán, vì hầu hết mọi người tham gia vào sân chơi mới mẻ “cung ít cầu nhiều” này đều có lợi. Điều này đang làm ảnh hưởng trực tiếp đến kênh huy động vốn đầu vào từ dân cư của các ngân hàng nói chung và BIDV nói riêng. 2. Hoạt động tín dụng, thẩm định bảo lãnh Dư nợ tín dụng hết năm 2006 đạt 1.387 tỷ đồng tăng so với năm 2005 là 656 tỷ đồng, hoàn thành 99% kế hoạch năm 2006 và đạt 115% kế hoạch năm 3 năm (2005-2007), dư nợ bình quân đầu người năm 2006 là 11,2 tỷ đồng, tăng hơn so với 2005 là 5,4 tỷ. Doanh số phát vay, thu nợ cả năm (năm 2006) tương đối cao: Doanh số phát vay đạt 1460 tỷ đồng và 34.5 triệu USD. Doanh số thu nợ đạt 900 tỷ đồng và 28 triệu USD. - Nợ quá hạn là 2 tỷ đồng chiếm 0.14% tổng dư nợ, không có nợ khó đòi. Dư nợ xấu theo quy định từ nhóm 3 trở xuống là 14 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 1%, mặc dù nằm trong nhóm nợ xấu nhưng tính đến thời điểm hiện tại thì các doanh nghiệp vẫn có khả năng trả nợ Chi nhánh. Do đặc điểm là một Chi nhánh mới thành lập từ 31/7/2004 nên tỷ lệ nợ xấu của Chi nhánh rất thấp 0.026% năm 2006. Cơ cấu tín dụng như sau: Bảng 4 Cơ cấu dư nợ tín dụng trong 2 năm 2005-2006 tại Chi nhánh Đông Đô – NH ĐT&PT VN Đơn vị: % Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006 Dư nợ ngắn hạn/Tổng dư nợ 53 51 Dư nợ trung dài hạn/Tổng dư nợ 47 49 Dư nợ ngoài quốc doanh/Tổng dư nợ 78 69 Dư nợ có tài sản đảm bảo/Tổng dư nợ 22 59 Nguồn: Phòng Tín dụng I Hoạt động tín dụng của Chi nhánh trong 2 năm 2005-2006 đã có nhiều tín hiệu khả quan, đó là việc dư nợ tín dụng ngoài quốc doanh đã giảm so với dư nợ của các doanh nghiệp Nhà nước, từ 78% giảm xuống còn 69%. Tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo tăng gấp gần ba lần trong hai năm qua, đây là một kết quả đáng ghi nhận trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh nó cho thấy hiệu quả hoạt động tín dụng của Chi nhánh điều này sẽ giúp Chi nhánh nâng cao hệ số an toàn. Tuy nhiên tỷ trọng nợ trung dài hạn so với nợ ngắn hạn vẫn còn khá lớn mà nợ trung dài hạn lại có hệ số rủi ro rất lớn, trong khi huy động ngắn hạn lại nhiều hơn so với huy động vốn trung dài hạn. Thực hiện sự chỉ đạo của NH ĐT&PT VN về các mục tiêu, định hướng hoạt động tín dụng, bảo lãnh và căn cứ vào tình hình thực tế của Chi nhánh, Ban giám đốc cụ thể hoá bằng việc giao chỉ tiêu cho các phòng, ban có liên quan theo nguyên tắc: Tăng cường tín dụng phải đi đôi với đảm bảo an toàn và hiệu quả không chạy theo thành tích. Điều này đã được quán triệt tới từng nhân viên trong Chi nhánh giúp họ có tác phong làm việc đúng đắn, hiệu quả phù hợp với “tác phong BIDV”. Cũng theo tinh thần này thì NH ĐT&PT VN đã tổ chức tập huấn cho cán bộ Ngân hàng trong đó có Chi nhánh Đông Đô các cơ chế, chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng, bảo lãnh: Quyết định về xếp hạng tín dụng nội bộ tại công văn số 8598/QĐ-BNC ngày 31/10/06; Triển khai thực hiên phân loại nợ và trích lập quỹ DPRR theo quyết định số 9365/QĐ-QLTD4 ngày 27/11/2006; Triển khai áp dụng mẫu hợp đồng mới về đảm bảo tiền vay theo công văn số 8532/CV-PC ngày 24/10/2006… Chi nhánh đang tích cực mở rộng đối tượng khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh ở tất cả các ngành, các lĩnh vực. Trong đó, có những chính sách đối với những khách hàng chiến lược sử dụng các dịch vụ ngân hàng và có đóng góp nhiều vào doanh thu của Chi nhánh. Từng bước nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án, khoản vay, tăng cường đến mức tối đa tài sản đảm bảo nợ để nâng cao độ an toàn đối với hoạt động tín dụng bảo lãnh. Một khó khăn đạt ra với công tác tín dụng, bảo lãnh ở Chi nhánh là hiệu của các doanh nghiệp xin vay vốn thường chỉ đạt ở mức trung bình chưa thực sự đảm bảo tính bền vững, nguồn vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp này thường chiếm tỷ trọng tập trong tổng nguồn vốn kinh doanh… 3. Hoạt động dịch vụ Tổng thu dịch vụ năm 2006 ước đạt 8.1 tỷ đồng, hoàn thành 110% so với kế hoạch đề ra, tăng 208% so với năm 2005. Bảng 5. Doanh thu từ các hoạt động dịch vụ tại Chi nhánh Đông Đô –NH ĐT&PT VN Đơn vị: triệu đồng 31/12/2005 31/12/2006 Tổng thu từ dịch vụ 3900 8100 Thu từ nghiệp vụ bảo lãnh 2108 3510 Thu từ nghiệp vụ thanh toán 1604 3730 Thu từ nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ 278 860 Nguồn: Phòng Kế hoạch Nguồn vốn Một trong những định hướng phát triển của Chi nhánh là phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ, phục vụ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do vậy doanh thu từ hoạt động dịch vụ đã tăng với tốc độ khá cao là một tín hiệu tốt đối với hoạt động của Chi nhánh, thu từ các nghiệp vụ đều tăng trong đó chủ yếu là từ nghiệp vụ thanh toán và bảo lãnh còn thu từ nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ còn khiêm tốn. Một điều đáng ghi nhận trong hoạt động của Chi nhánh trong những năm gần đây là số lượng khách hàng sử dụng các dịch vụ của Chi nhánh đã được giữ vững và có sự gia tăng đáng kể. Hiện tại, chúng ta có 4 ngân hàng nhà nước lớn, khoảng 40 ngân hàng TMCP và một số ngân hàng nước ngoài đang hoạt động. Để có thể giữ vững thị phần và phát triển bền vững công tác tư vấn, thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng được nâng cao. Tuy nhiên, thu dịch vụ hiện nay tập trung chủ yếu vẫn là dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế, dịch vụ bảo lãnh và kinh doanh ngoại tệ… các dịch vụ mới vẫn chưa được người tiêu dùng hưởng ứng. Dịch vụ ATM chưa đa dạng mới chỉ dừng ở việc rút tiền mặt, gửi tiền tiết kiệm, vấn tin tài khoản, chuyển khoản… mà chưa kết hợp được với các dịch vụ khác của ngân hàng như gửi tiền vào tài khoản, thanh toán hoá đơn điện nước và thanh toán các dịch vụ khác. Về công tác khách hàng và phát triển mạng lưới: Đến hết năm 2006, mạng lưới hoạt động của Chi nhánh bao gồm 3 phòng giao dịch và 7 điểm giao dịch, quỹ tiết kiệm. Đến thời điểm 31/12/2006 các phòng (điểm) giao dịch, quỹ tiết kiệm đã đạt số dư huy động vốn là gần 1.000 tỷ đồng, thu dịch vụ đạt 450 triệu đồng. Công tác phát triển mạng lưới đã được Chi nhánh tập trung chỉ đạo và thực sự đã có tác đụng tích cực đến việc thực hiện chỉ tiêu huy động vốn của Chi nhánh. 4. Hoạt động thanh toán Doanh số thanh toán trong nước năm 2006 đạt trên 3.000 tỷ đồng với tổng số 24.356 món tăng 141% so với năm 2005. Không những thế, Chi nhánh đã khai thác có hiệu quả chương trình thanh toán điện tử thuộc dự án hiện đại hoá nhằm nâng cao chất lượng thanh toán, giảm thời gian thanh toán, tăng nhanh vòng luân chuyển tiền tệ đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và đông đảo dân cư. Chất lượng của công tác thanh toán cũng ngày một nâng cao, không phát sinh các sai sót dẫn đến khiếu kiện của khách hàng. Về nghiệp vụ thanh toán quốc tế: Trong năm 2006, doanh số mở L/C và thanh toán đạt 117 triệu USD với 630 món. Có được kết quả trên là do Chi nhánh luôn tuân thủ các quy định về thanh toán theo thông lệ quốc tế và sự hướng dẫn, chỉ đạo của NH ĐT&PT VN, vì thế đã giữ vững và tăng cường uy tín của BIDV với các Ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế có quan hệ với BIDV. Cũng trong năm 2006, dịch vụ chi trả kiều hối, chuyển tiền ước đạt 33,7 triệu USD với 4.270 món được triển khai thực hiện theo yêu cầu của Ngân hàng đề nghị thanh toán và từng bước củng cố quan hệ hợp tác giữa BIDV với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. 5. Công tác quản lý nội bộ 5.1 Công tác kế toán, tài chính Trong năm 2006, tổng thu nhập toàn Chi nhánh đạt 165 tỷ đồng tăng 44% so với năm 2005, tổng chi chi trong năm 2006 là 125 tỷ đồng, chênh lệch thu chi trước trích DPRR là 40 tỷ đồng đạt 110% so với kế hoạch năm 2006 và tăng 135% so với năm 2005. Lợi nhuận sau thuế bình quân đầu người đạt 160 triệu đồng. Công tác kế toán tài chính đã hoạt động hiệu quả, chính xác, đưa ra các định mức về chi phí hoạt động kinh doanh theo hướng tiết kiệm, chống lãng phí, đảm bảo các khoản chi dưới định mức và kế hoạch đã lập ra để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Điều này là rất cần thiết nhất là trong giai đoạn hội nhập như hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam luôn bị coi là thiếu kinh nghiệm quản lý hay quản lý quá lỏng, đặc biệt là với các doanh nghiệp Nhà nước. Thực hiện chức năng hậu kiểm với phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm, phòng kế toán đã tổ chức kiểm tra kịp thời các nghiệp vụ phát sinh, thông qua kiểm tra phát hiện các sai sót đề xuất các kiến nghị với các phòng tổ chỉnh sửa kịp thời. Chi nhánh đã tổ chức triển khai và vận hành tốt phân hệ quản lý nội bộ phục vụ cho việc quản lý tài chính, tài sản của Chi nhánh và của toàn ngành. 5.2 Công tác kho quỹ Lượng tiền mặt thu chi qua Chi nhánh tăng trưởng cao so với năm 2005, nhưng vẫn đảm bảo an toàn, đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu thanh toán tiền mặt của khách hàng. Công tác kho quỹ của Chi nhánh luôn tuân thủ nghiêm ngặt quy trình quản lý, vận chuyển, giao nhận tiền mặt giữa hội sở Chi nhánh với các quỹ, điểm giao dịch. Doanh số thu chi tiền mặt thực hiện tại Quỹ nghiệp vụ của Chi nhánh trong năm 2006 như sau: Thu đạt 2.147 tỷ VNĐ, 71 triệu USD và 5.7 triệu EUR. - Chi: 2.180 tỷ VNĐ, 69 triệu USD và 5.8 triệu EUR. Trong thu chi tiền mặt đã phát hiện và thu giữ kịp thời số tiền giả là 13,8 triệu đồng và 32,8 triệu đồng tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông để nộp NHNN. Trong năm qua, Chi nhánh đã trả lại tổng số tiền thừa cho khách hàng là 117 triệu đồng với 48 món. 5.3 Công tác tổ chức hành chính Các phòng ban trong Chi nhánh được sắp xếp theo hướng tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với các nghiệp vụ trọng tâm, dễ xảy ra rủi ro, do vậy yêu cầu luôn được đáp ứng đó là bố trí đủ cán bộ ở những bộ phận trọng yếu trong dây chuyền tác nghiệp. Việc sắp xếp bổ sung cán bộ mới cho các phòng, tổ cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng phòng, tổ. Chi nhánh cũng thường xuyên tổ chức lấy phiếu thăm dò tín nhiệm phục vụ cho công tác bổ nhiệm mới, bổ nhiệm lại và công tác quy hoạch cán bộ. Trong năm 2006 Chi nhánh đã bổ nhiệm mới 4 trưởng phó phòng, 2 trưởng điểm giao dịch và bổ nhiệm lại các chức danh trưởng, phó phòng, thuộc diện phải bổ nhiệm lại. Những hoạt động trên ít nhiều gây nên những xáo trộn nhất thời trong hoạt động của một số phòng ban, song về lâu dài lại phát huy được hiệu quả cao trong hoạt động, giúp cho các nhân viên có động lực phấn đấu, hoàn thành tốt hơn công việc được giao. Chi nhánh luôn thực hiện các chế độ về tiền lương, tiền thưởng (chuyển xếp lương kinh doanh, nâng lương hàng năm…) và các chế độ khác (BHYT, khám chữa bệnh…) kịp thời và đúng quy định đối với người lao động từ đó tạo ra sự ổn định, yên tâm làm việc của CBCNV trong Chi nhánh. Để đáp ứng nhu cầu hội nhập và nhu cầu học hỏi của CBCNV Chi nhánh thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn tại Chi nhánh đồng thời xây dựng kế hoạch để bố trí cán bộ tham dự các lớp tập huấn do NH ĐT&PT VN tổ chức. Mặt khác, các CBCNV luôn được đảm bảo đầy đủ các điều kiện lao động như trang thiết bị, công cụ lao động… để phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ được an toàn, hiệu quả đạt năng suất cao. II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NHẬP KHẨU CỦA CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ-NH ĐT&PT VN 1. Khái quát về hoạt động tín dụng nhập khẩu của Chi nhánh Đông Đô 1.1 Tín dụng nhập khẩu và vai trò của tín dụng nhập khẩu 1.1.1 Khái quát về tín dụng và hoạt động tín dụng nhập khẩu Tín dụng là hoạt động nghiệp vụ quan trọng nhất của các ngân hàng và của các trung gian tài chính nói chung, nó chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản và hoạt động này cũng tạo ra thu nhập từ lãi lớn nhất cho các ngân hàng. Tuy nhiên, điều này lại đồng nghĩa với việc đây là hoạt động mang lại rủi ro lớn nhất cho các ngân hàng. Vậy, tín dụng là gì? Tín dụng (cho vay) là hình thức quan hệ giữa hai đối tượng: người đi vay và người cho vay, trong đó người cho vay nhượng lại quyền sử dụng vốn cho người đi vay dựa trên sự tín nhiệm và theo nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi sau một thời gian nhất định. Sự hoàn trả này không chỉ bảo tồn về mặt giá trị mà vốn tín dụng còn được tăng thêm dưới hình thức lợi tức. Đây chính là biểu hiện cho thấy sự khác biệt giữa tín dụng và các hình thức kinh tế khác. Hoạt động tín dụng đã xuất hiện từ lâu trong xã hội loài người, từ khi có phân công lao động và sản xuất hàng hoá. Trong quá trình trao đổi hàng hoá đã xuất hiện quan hệ tín dụng, vay mượn lẫn nhau để thanh toán. Như đã nói ở trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản mang tính hoàn trả, xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản của mình cho người vay phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả và trả đúng hạn. Tín dụng hay credit xuất phát từ chữ latinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm) và việc các bậc tiền bối đã dùng từ “credo” hoặc “tín” để đặt tên cho “credit” hay tín dụng không phải là ngẫu nhiên. Theo xu hướng phát triển kinh tế thế giới như hiện nay, các quan hệ kinh tế trong nước và quốc tế diễn ra hết sức sôi động, đa dạng. Đồng thời với nó là sự vận động, chu chuyển của các dòng tiền trong thanh toán. Cũng như nhiều hoạt động kinh tế khác hoạt động nhập khẩu cũng xuất hiện các nhu cầu về tín dụng. Trong đó, vai trò của các ngân hàng thương mại rất quan trọng, các ngân hàng góp phần thúc đẩy sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang có sự hội nhập sâu và rộng với nền kinh tế thế giới thì việc tăng cường, mở rộng quan hệ xuất nhập khẩu hàng hoá với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng và tạo ra sự cân đối cho nền kinh tế trong nước. Để đáp ứng nhu cầu phát triển, hội nhập và kinh doanh xuất nhập khẩu các ngân hàng cần phát triển và cung ứng các loại hình dịch vụ thanh toán đa dạng để hỗ trợ và đảm bảo cho hoạt động này diễn ra thông suốt, an toàn và hiệu quả. Là một dịch vụ của nhóm các dịch vụ tín dụng thương mại của ngân hàng, dịch vụ tín dụng nhập khẩu cũng đem lại những hiệu quả thiết thực cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung và đem lại nguồn thu cho các ngân hàng, góp phần phát triển kinh tế đất nước. 1.1.2 Vai trò của tín dụng nhập khẩu Hoạt động tín dụng nhập khẩu không chỉ cần thiết mà còn rất quan trọng với mỗi nền kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Đã qua đi rồi cái thời “bế quan toả cảng”, “tự cấp tự túc”, ngày nay muốn phát triển kinh tế bền vững và hiệu quả thì phải hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tức là phải có xuất và nhập thì mới đảm bảo cho nền kinh tế phát triển. Chuyên môn hoá không chỉ diễn ra ở mỗi ngành, mỗi vùng mà ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực khác nhau. Do vậy, hoạt động tín dụng nhập khẩu không chỉ có lợi cho doanh nghiệp, ngân hàng mà còn có lợi cho các quốc gia tham gia vào thương mại quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, quan hệ giao dịch quốc tế đòi hỏi nhiều vấn đề phức tạp và tế nhị khác nhau, do vậy để hoạt động ngoại thương diễn ra thuận tiện và hiệu quả rất cần sự tham gia của các ngân hàng. Các ngân hàng bổ sung cho nhà ngoại thương những điều còn thiếu như sự hiểu biết về các nghiệp vụ ngoại thương, các thông tin về đối tác hơn nữa các ngân hàng còn là chỗ dựa về tài chính cho các doanh nghiệp trong hoạt động này. Thông qua hoạt động tài trợ tín dụng nhập khẩu cho các doanh nghiệp các ngân hàng ngoài việc thu được một khoản doanh thu đáng kể thông qua lãi suất (lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay thanh toán, lãi suất bắt buộc…), các ngân hàng còn nâng cao uy tín, tăng sức cạnh tranh của mình do mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp và ngân hàng nước ngoài. Mặt khác, qua tài trợ tín dụng nhập khẩu, hoặc hoạt động tín dụng nhập khẩu tính an toàn của các khoản vốn cấp cho doanh nghiệp được đảm bảo, do được chính ngân hàng quản lý chặt chẽ nên đảm bảo nguồn vốn cho vay được sử dụng đúng mục đích đem lại hiệu quả cao. Hơn nữa, hoạt động tín dụng nhập khẩu thường diễn ra theo thương vụ cụ thể nên thời gian huy động thường là ngắn hạn, điều này phù hợp với kỳ huy động vốn của các ngân hàng thương mại nên tránh được các rủi ro trong huy động vốn cho ngân hàng. Trong điều kiện thị trường mở cửa hiện nay, nhu cầu về hàng hoá tiêu dùng, máy móc thiết bị, phân bón…đang trở thành cơ hội với mỗi doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, vì vậy với sự hỗ trợ thiết thực của các ngân hàng, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng hiệu quả và an toàn hơn. Trang thiết bị máy móc của các doanh nghiệp nước ta lạc hậu hàng chục năm so với các nước tiên tiến, để đổi mới công nghệ không phải là điều dễ dàng, song với tín dụng nhập khẩu các doanh nghiệp có thể vay ngân hàng để đổi mới trang thiết bị nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, nhờ vậy mà tăng khả năng cạnh tranh. Nhờ tín dụng nhập khẩu, các doanh nghiệp còn có thể thực hiện được các thương vụ lớn, bởi số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp không phải bao giờ cũng có sẵn và đủ lớn để thực hiện những thương vụ như vậy mà cơ hội kinh doanh tốt thì không nhiều. Đó là do đặc điểm của kinh doanh xuất nhập khẩu chủ yếu bằng đường biển nên để tiết kiệm thời gian và chi phí vận chuyển giá trị các lô hàng thường lớn, đồng nghĩa với số vốn cũng lớn thì

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32177.doc
Tài liệu liên quan