MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN CÔNG NGHỆ PHẦN MỀM VÀ TRUYỀN THÔNG VIỆT NAM. 3
1.1. Giới thiệu chung về VIETCOM GROUP 3
1.2. Chức năng của công ty VIETCOM GROUP 4
1.3. Mục tiêu của công ty VIETCOM GROUP 5
1.4. Phương châm hoạt động của công ty 5
1.5. Cơ cấu tổ chức của công ty 6
1.6. Giải pháp và dịch vụ tại VIETCOM GROUP 7
1.7. Các khách hàng của công ty 9
CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN TRANG WEB THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 11
2.1. Tổng quan về Internet và World Wide Web 11
2.1.1. Internet 11
2.1.1.1. Lịch sử phát triển 11
2.1.1.2. Giao thức TCP/IP 12
2.1.1.3. Các dịch vụ trên Internet 15
2.1.2. World Wide Web 16
2.2. Thương mại điện tử 18
2.2.1. Khái niệm 18
2.2.2. Các đặc trưng về TMĐT 18
2.2.2. Lợi ích của TMĐT 19
2.2.3. Website TMĐT 20
2.2.3.1. Những sai lầm thường thấy trong website TMĐT 20
2.3.3.2. Những lưu ý cho website TMĐT 21
2.3. Tổng quan về ngôn ngữ thiết kế web. 22
2.3.1. HTML 22
2.3.1.1. Khái niệm 22
2.3.1.2. Cấu trúc của một tài liệu HTML 23
2.3.2. Javascript 24
2.3.3. PHP 25
CHƯƠNG III: CÔNG CỤ THỰC HIỆN 26
3.1. Lịch sử phát triển của PHP 26
3.2. Các trình ứng dụng PHP thông dụng 28
3.2.1. PHP-Nuke 28
3.2.2. Mambo (CMS) 29
3.2.3. Joomla 29
3.2.4. Drupal 30
3.3. Sơ lược về PHP 31
3.3.1. Cú pháp căn bản của PHP 31
3.3.2. Kiểu dữ liệu 31
3.2.3.Biến 31
3.2.4. Câu lệnh 32
3.2.6. Hàm 32
3.4. Hệ quản trị CSDL MySQL 34
CHƯƠNG IV: PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HỆ THỐNG XÂY DỰNG WESITE GIỚI THIỆU TOUR DU LỊCH 35
4.1. Phân tích yêu cầu 35
4.1.1. Phân tích yêu cầu bài toán 35
4.1.2. Mô tả hệ thống 36
4.2. Mô hình hoá các yêu cầu hệ thống 37
4.2.1. Sơ đồ chức năng của hệ thống 37
4.2.2. Sơ đồ luồng dữ liệu của hệ thống 38
4.3. Thiết kế website giới thiệu tour du lịch 38
4.3.1. Thiết kế CSDL 38
4.3.2. Thiết kế giải thuật chủ yếu .38
CHƯƠNG V: Thiết kế giao diện 39
Tài liệu tham khảo 39
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1827 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Xây dựng website giới thiệu và quảng bá các tour du lịch cho công ty xúc tiến thương mại và du lịch AG, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thủ trong quá trình truyền dữ liệu chọn địa điểm đi và địa điểm đến.
Tiếp theo, ta sẽ tìm hiểu về giao thức TCP/IP. Giao thức TCP/IP được sử dụng phổ biến như cách thức mà dữ liệu được truyền tải thành công qua mạng Internet và Intranet. Thực chất, nó là một họ giao thức có liên quan tới nhau, phụ thuộc lẫn nhau, cùng làm việc với nhau tuân thủ một chuỗi những quy luật để thực hiện vai trò của mình là truyền dữ liệu trên mạng. Giao thức TCP/IP được đặt tên theo hai giao thức chính của nó là TCP (Transmisson control protocol) và IP (Internet protocol). Trong đó:
IP là giao thức kiểu không liên kết (connectionless), tức là không cần giai đoạn thiết lập liên kết trước khi truyền dữ liệu. Mỗi gói tin được xử lý không phụ thuộc vào các gói tin khác. Các gói tin được gửi từ máy này sang máy khác theo các đường khác nhau, có gói được chuyển nhưng cũng có gói bị mất. Mục đích chính của IP là cung cấp khả năng kết nối các mạng con thành liên mạng để truyền dữ liệu (cùng với các giao thức TCP,UDP..). Về mặt chức năng, IP có vai trò tương tự như tầng mạng (Network layer) trong mô hình tham chiếu OSI. Đơn vị dữ liệu dùng trong IP là datagram.
TCP là kiểu giao thức có liên kết (connection-oriented), nghĩa là cần phải thiết lập liên kết logíc giữa một cặp thực thể TCP trước khi truyền dữ liệu với nhau. Đơn vị dữ liệu dùng trong TCP là segment (đoạn văn bản).
Bây giờ chúng ta cùng xem xét thực chất dữ liệu đã được truyền tải như thế nào qua giao thức TCP/IP. Quá trình truyền dữ liệu bắt đầu khi người dùng chạy một ứng dụng trên Internet như trình duyệt mail hay tải files FTP nào đó. Cụ thể, sau khi người dùng gõ email vào trình duyệt, nhấn Send thì dữ liệu đã được chuyển đi. Trình duyệt email là một trong nhiều ứng dụng của giao thức TCP/IP. Lớp ứng dụng này cung cấp dữ liệu cần truyền tải tới giao thức điều khiển việc tải. Đây là nơi thiết lập lớp chuyển giao TCP/IP (Tranfer Layer). Lúc đó, TCP sẽ chia nhỏ dữ liệu thành các gói tin nhỏ gọi là packet và chuyển cho phương thức IP tiếp tục quá trình truyền. Ở đây, giao thức IP sẽ có cơ chế để đưa vào mỗi packet một số thông tin định dạng nhằm phân biệt các gói tin với nhau, chỉ rõ nguồn gốc, điểm đến của packet và cổng ứng dụng nào trên máy đích mà gói tin này cần đi qua. Mỗi packet như vậy bao gồm hai bộ phận:
Phần tiêu đề (header): chứa địa chỉ IP gốc và địa chỉ IP đến, thời gian thông tin cần tồn tại và cả phương thức đã được sử dụng. Ngoài ra, còn có một thành phần kiểm tra tổng thể header hữu hiệu.
Phần dữ liệu cần được truyền tải: TCP sẽ được chia nhỏ thành nhiều phần còn IP thì đưa vào thông tin vào mỗi phần thông tin IP và IP đến. Khi dữ liệu đến một server khác, IP sẽ nhường lại quyền điều khiển cho TCP, lúc đó TCP sẽ ghép các packet lại với nhau. Số thứ tự của cổng cũng được sử dụng nhằm làm cho dữ liệu biết gọi ứng dụng nào ra để chạy. Như vậy, về căn bản, quá trình dữ liệu được truyền tải thành công qua mạng có liên quan đến IP gốc, IP đích và các cổng được sử dụng.
Bộ giao thức TCP/IP gồm 4 tầng:
Tầng ứng dụng (Application layer): hỗ trợ các ứng dụng của người dùng như: HTTP, SMTP,… Cung cấp các ứng dụng để giải quyết sự cố mạng, vận chuyển file, điều khiển từ xa các hoạt động Internet. Đồng thời, nó còn hỗ trợ giao diện lập trình ứng dụng mạng (API), cho phép các chương trình được thiết kế cho một hệ điều hành nào đó có thể truy cập mạng.
Tầng giao vận (Transport layer): đảm bảo việc truyền dữ liệu tin cậy và nhận dữ liệu theo đúng thứ tự truyền. Ngoài ra, nó giúp kiểm soát luồng dữ liệu, kiểm tra lỗi và xác nhận các dịch vụ cho liên mạng. Tầng này đóng vai trò giao diện cho các ứng dụng mạng.
Tầng Internet (Internet layer): các hệ thống có thể kết nối được với các mạng khác nhau thực hiện các chức năng truyền thông xuyên suốt các mạng đa kênh. Thường được cài đặt ở các hệ thống đầu cuối và trên các bộ định tuyến Router. Cung cấp chức năng định tuyến để hỗ trợ việc vận chuyển liên mạng.
Tầng truy cập mạng (Network Access Layer): trao đổi dữ liệu giữa các hệ thống đầu cuối và mạng. Đồng thời, kiểm soát địa chỉ đích và thực hiện yêu cầu dịch vụ. Cung cấp giao diện tương tác với mạng vật lý. Định dạng dữ liệu cho bộ phận truyền tải trung gian và tạo địa chỉ dữ liệu cho các tiểu mạng dựa trên địa chỉ phần cứng vật lý. Cung cấp việc kiểm tra lỗi trong quá trình truyền dữ liệu.
2.1.1.3. Các dịch vụ trên Internet
Cùng với sự phát triển của Internet, các dịch vụ đi cùng với nó cũng không ngừng gia tăng cả về số lượng và chất lượng.
Trước hết, phải kể đến dịch vụ thư điện tử E-mail (Electronic Mail) là một trong những tính năng quan trọng nhất của Internet. Ứng dụng này cung cấp một khả năng liên lạc không biên giới giữa người gửi và người nhận. Chỉ cần một chiếc máy tính có kết nối Internet, ta có thể chuyển một thông điệp cho người thân, bạn bè hoặc đối tác một cách nhanh chóng, cho dù người đó ở bất kì đâu trên thế giới. Đây là một phương pháp truyền văn bản rẻ tiền nhất có ở mọi nơi. Chỉ tốn vài cent để gửi một email đi bất kì nơi đâu, rẻ hơn rất nhiều so với giá cước bưu điện thấp nhất. Hơn nữa, tốc độ lưu chuyển của nó rất nhanh (tính bằng phút) giúp tiết kiệm cả về chi phí lẫn thời gian so với đường bưu điện. Vì vậy, email được hầu hết mọi người dùng và là một trong số những lựa chọn hàng đầu để liên lạc với nhau.
Nhắc đến email, không thể không kể đến dịch vụ tin nhắn tức thì (Instant messaging). Nó giúp hai người ở bất kì nơi đâu trên thế giới có thể trò chuyện trực tiếp với nhau qua màn hình máy tính bằng cách sử dụng bàn phím (chat) hoặc bằng hình ảnh (video conference).
Dịch vụ mạng thông tin toàn cầu W W W (World Wide Web): đây là dịch vụ mới và mạnh nhất trên Internet. Nó giúp cho việc trao đổi thông tin thuận tiện và dễ dàng. Dịch vụ này cho phép thông tin được truyền đi hết sức sinh động dưới dạng hình ảnh, âm thanh…
Dịch vụ truyền file FTP (Files Transfer Protocol): dùng để truyền tải các file dữ liệu giữa các host trên Internet. Công cụ để thực hiện dịch vụ truyền file là chương trình ftp, nó sử dụng giao thức của Internet là FTP. Giao thức này đảm nhận việc thực hiện truyền file từ máy tính này sang máy tính khác. Giao thức này cho phép thực hiện việc truyền file không phụ thuộc vào khoảng cách địa lý hay môi trường hệ điều hành giữa hai máy tính. Để truy cập và sử dụng dịch vụ này là cả hai máy cần phải cài phần mềm hiểu được giao thức FTP, điều này phụ thuộc vào từng hệ điều hành. Cụ thể, hệ điều hành Windows thì sử dụng trình duyệt IE còn hệ điều hành Unix thì sử dụng phần mềm ftp. Mỗi máy tính đều lưu trữ các thông tin quan trọng nên chúng được đặt mật khẩu để tăng tính bảo mật, hạn chế lượng người truy cập. Vì vậy, nếu không thể kết nối được với máy tính hỗ trợ ftp nào đó, cần phải xem lại Username và password.
Dịch vụ Telnet: là dịch vụ cho phép ngồi tại máy tính của mình thực hiện việc kết nối với máy chủ ở xa (Remote host) và sau đó thực hiện các lệnh trên máy chủ ở xa này. Khi đã kết nối tới máy remote và thực hiện xong việc login, những gì ta gõ ở bàn phím sẽ được chuyển tới máy remote và có tác dụng như gõ ở bàn phím trên chính máy remote đó. Ngoài ra, ta có thể truy cập vào bất cứ dịch vụ nào mà máy remote cho phép các trạm cục bộ của nó truy cập.
Dịch vụ Usenet: là dịch vụ cho phép người sử dụng trao đổi thông tin về vấn đề mà họ cùng quan tâm. Người dùng cần đăng ký các thông tin (subcribed) vào một số nhóm thông tin nào đó và sau đó có thể kết nối lên sever để xem các thông tin nhóm và tải (load) về trạm làm việc để xem chi tiết, họ cũng có thể gửi các ý kiến của mình lên các nhóm thông tin đó. Dịch vụ này cũng tương tự như dịch vụ email, ngoại trừ việc những thông điệp phải đánh địa chỉ cho cả nhóm thay vì cá nhân và bất kỳ ai muốn cũng có thể đọc được thông điệp này.
2.1.2. World Wide Web
Đây là dịch vụ mới và mạnh nhất trên Internet. Nó được xây dựng dựa trên kĩ thuật có tên gọi là hypertext (siêu văn bản). Kĩ thuật này trình bày thông tin trên một trang và có một số từ có thể “nở” ra một trang thông tin mới với nội dung đầy đủ hơn. Thực chất của quá trình này là các trang web mà ta nhìn thấy trên màn hình máy tính có khả năng liên kết với các trang web khác, từ đó dẫn ta đến những nguồn thông tin khác. Khả năng này có được là do ta đã sử dụng các siêu liên kết (hyperlink). Thông qua các siêu liên kết này, các trang web có thể kết nối với nhau một cách dễ dàng, tạo thành một mạng lưới chằng chịt. Nhờ vậy, ta có thể tìm kiếm thông tin một cách đa dạng.
Để có thể xem được các trang web, người dùng phải sử dụng trình duyệt web là Web Browser. Hiện nay, có hai trình duyệt web thông dụng nhất là Internet Explorer của Microsoft và FireFox của Moliza.
Một trong những nét nổi bật của dịch vụ web so với các dịch vụ khác của Internet là nó cung cấp thông tin rất phong phú và đa dạng, bao gồm văn bản, hình ảnh, âm thanh. Mọi thông tin đều có thể biểu diễn trên trang web, kể cả âm thanh hay hình ảnh động. Như vậy, web đã cho phép thay đổi cách biểu diễn thông thường bằng văn bản nhàm chán sang các kiểu thông tin sinh động với nhiều loại dữ liệu khác nhau như text, hình ảnh hay âm thanh. Với một trình duyệt có trang bị các tiện ích đồ họa, người dùng dễ dàng tạo ra những dòng chữ chạy nhấp nháy hay những hình ảnh bắt mắt nhằm thu hút người xem.
Ngày nay, cùng với sự bùng nổ và phát triển của web, con người đã biết vận dụng các ứng dụng của nó vào các lĩnh vực kinh tế, đời sống, văn hóa, xã hội,… Các website bán hàng trực tuyến ra đời đang ngày càng thu hút được mọi người tham gia do tiết kiệm được thời gian trong việc mua sắm. Chỉ cần vài thao tác nhỏ là ta có thể soạn xong bức thư đặt hàng và yêu cầu sẽ được đáp ứng một cách nhanh chóng. Do đó, giờ đây ý tưởng hình thành một xa lộ thông tin mua hàng ngay tại nhà đã có thể thực hiện được.
Bên cạnh ứng dụng web bán hàng trực tuyến, ta còn có các website giới thiệu, quảng bá hình ảnh của các cơ quan, doanh nghiệp. Thông qua trang web của mình, các công ty, tổ chức có thể giới thiệu, quảng bá về bản thân từ đó tìm kiếm đối tác và các đơn đặt hàng.
Web cũng là một công cụ tuyệt vời cho ngành công nghiệp giải trí “đánh bóng” hình ảnh của các ca sĩ hay diễn viên điện ảnh. Các ngôi sao có thể tạo cho mình những tư liệu, hình ảnh của mình qua các thời kì và lưu trữ trên một máy tính nào đó. Người hâm mộ chỉ cần tìm đến đúng thư viện đó là có thể tải về máy tính của mình.
Như vậy, có thể thấy rằng web chính là một thư viện khổng lồ có thể lưu trữ tư liệu, hình ảnh về mọi mặt, mọi lĩnh vực xã hội. Tùy thuộc vào lĩnh vực nào mà nó có những ứng dụng hữu ích riêng.
2.2. Thương mại điện tử
2.2.1. Khái niệm
Trên thực tế có rất nhiều cách nhìn nhận khác nhau về TMĐT. Theo các nhà kinh doanh: TMĐT là quá trình áp dụng công nghệ theo hướng tự động hóa các dịch vụ kinh doanh và trao đổi sản phẩm. Theo các nhà liên lạc viễn thông: TMĐT là sự phân phối thông tin, sản phẩm, dịch vụ hoặc là quá trình thanh toán thông qua hệ thống mạng máy tính, hệ thống điện thoại hoặc là một số thiết bị liên lạc khác bằng điện tử. Theo người cung cấp dịch vụ: TMĐT là một công cụ mà các công ty, các khách hàng, các nhà quản lý sử dụng nhằm giảm các chi phí đồng thời tăng chất lượng hàng, tăng tốc độ giao hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ đến tận tay người tiêu dùng. Theo các nhà trực tuyến: TMĐT cung cấp khả năng mua và bán sản phẩm cũng như thông tin trên Internet và các dịch vụ trực tuyến khác.
Tóm lại, ta có thể định nghĩa một cách khái quát về TMĐT như sau: TMĐT (Electronic commerce) là hình thái hoạt động thương mại bằng phương pháp điện tử; là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử mà nói chung là không cần phải in ra giấy trong bất cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch (nên còn được gọi là “thương mại không giấy tờ”).
2.2.2. Các đặc trưng về TMĐT
So với các hoạt động thương mại truyền thống, TMĐT có một số điểm khác biệt sau:
Các bên tiến hành trong giao dịch TMĐT không tiếp xúc trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước.
Các giao dịch TMĐT truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của khái niệm biên giới quốc gia còn TMĐT được thực hiện trong một môi trường không có biên giới. TMĐT trực tiếp tác động tới môi trường cạnh tranh toàn cầu.
Trong hoạt động giao dịch TMĐT đều có sự tham gia ít nhất của ba chủ thể, trong đó có một bên không thể thiếu được là người cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực.
Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện trao đổi dữ liệu, còn đối với TMĐT thì mạng lưới thông tin chính là thị trường.
2.2.2. Lợi ích của TMĐT
Với các phương tiện điện tử như Internet, các doanh nghiệp nắm được nguồn thông tin phong phú về thị trường, từ đó có thể xây dựng chiến lược sản xuất, kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển chung của thị trường. Hiện nay, TMĐT ngày càng được nhiều quốc gia quan tâm và chú trọng phát triển bởi nó được coi là một trong những động lực chủ yếu để phát triển kinh tế. Điều này đã được chứng bằng các ích mà TMĐT đem lại cho các doanh nghiệp. Thông qua trang web của mình, doanh nghiệp có thể:
Nâng cao uy tín bằng việc xây dựng hình ảnh của doanh nghiệp một cách vững chắc và hiện đại hơn.
Khuếch trương các sản phẩm và dịch vụ của mình.
Quảng cáo được trên nhiều thị trường với chi phí thấp hơn trước.
Trả lời câu hỏi về các sản phẩm và dịch vụ của mình.
Rút ngắn thời gian trả lời cho khách hàng.
Cung cấp các địch vụ ngay trong ngày hoặc các dịch vụ ngoài giờ làm việc bình thường.
Sử dụng thư điện tử (e-mail) như là một công cụ để tiếp thị.
Sử dụng thư điện tử (e-mail) như là một công cụ để liên lạc với khách hàng.
Sử dụng tư liệu phi văn bản.
Phối hợp quan hệ giữa cung ứng và khách hàng từ nhiều thị trường.
Điều hành hệ thống thương nhân một cách có hiệu quả hơn.
Tiến hành nghiên cứu thị trường nước ngoài.
Ngoài ra, xét trên bình diện quốc gia, TMĐT kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin và đóng vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế. Nhìn một cách khái quát, TMĐT tạo điều kiện cho việc sớm tiếp cận với nền kinh tế số hóa. Lợi ích này có một ý nghĩa đặc biệt đối với những nước đang phát triển, có thể tạo ra bước nhảy vọt, tiến kịp các nước phát triển trong một thời gian ngắn nhất.
Tóm lại, TMĐT đưa lại những lợi ích tiềm tàng, giúp doanh nghiệp thu được thông tin phong phú về thị trường và đối tác, giảm chi phí tiếp thị và giao dịch, rút ngắn chu kỳ sản xuất, tạo dựng và củng cố quan hệ bạn hàng, tạo điều kiện dành thêm phuơng tiện cho mở rộng quy mô và công nghệ sản xuất.
2.2.3. Website TMĐT
2.2.3.1. Những sai lầm thường thấy trong website TMĐT
Website thiết kế thiếu chuyên nghiệp: trong TMĐT, đối tác thường không hiểu rõ về nhau nên độ tin cậy được dựa trên các cơ sỏ như: tính chuyên nghiệp của website, tính chuyên nghiệp trong liên lạc với đối tác. Do vậy, một website bị đánh giá xấu, không chuyên nghiệp sẽ làm công ty bị “mất điểm” trong mắt đối tác.
Website không được sử dụng đúng mục đích: khi xây dựng website phải xác định rõ được mục đích xây dựng để làm gì, cần có các chức năng gì. Ví dụ, muốn trưng bày và bán hàng qua mạng thì công ty phải xây dựng website với cơ sở dữ liệu sao cho sản phẩm được quản lí dễ dàng, việc thêm bớt hoặc chỉnh sửa thông tin phải tiện lợi, phải xây dựng được chức năng tìm kiếm và đặt mua sản phẩm cho khách hàng một cách nhanh chóng. Để làm được như vậy, trong quá trình thiết kế, cần phải đặt mình vào đối tượng mà minh muốn hướng đến thì mới hiểu được họ mong muốn gì và mới đáp ứng tốt được.
Thiếu kế hoạch marketing website: đây là khâu cực kỳ quan trọng bởi nếu marketing không tốt thì sẽ chẳng có ai viếng thăm dù cho nó đã được dày công thiết kế.
Không có sự chuẩn bị tốt cho hướng phát triển: nếu việc kinh doanh của công ty tiến triển tốt thì cần phải mở rộng, lượng người vào website tăng, dẫn đến phải mua hosting (lưu trữ web) với dung lượng lớn. Hơn nữa, công ty cũng phải mở rộng nhiều nguồn hàng hơn. Những việc này phải quan tâm và có giải pháp thực thực hiện ngay từ đầu.
Phục vụ khách hàng kém: nếu khách hàng đã quan tâm hỏi mua hàng mà khâu phục vụ khách hàng của website kém sẽ dẫn đến “mất điểm” lớn với khách hàng. Chẳng hạn, công ty để khách hàng chờ vài ngày cho một cái mail trả lời hoặc trong mail trả lời câu cú lộn xộn, sai ngữ pháp, trả lời không rõ ràng thì chắc chắn khách hàng sẽ không khỏi do dự khi quyết định mua hàng từ website. Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, thời gian được coi là vàng bạc thì tốc độ chính là yếu tố thành bại của doanh nghiệp.
Không tạo được nét đặc trưng riêng cho mình: tính cạnh tranh trong TMĐT là rất cao do không phải tốn nhiều chi phí đầu tư. Vì vậy, công ty cần phải tạo được nét riêng, độc đáo thì mới thu hút được khách hàng và do đó mới có thể thành công được.
Không quan tâm đến vấn đề an toàn trong TMĐT: đây là vấn đề cần được quan tâm, đặc biệt phải bảo vệ tên miền và password hosting để chống nạn hacker phá hoặc cướp tên miền, gây tác hại không nhỏ đến website cũng như việc kinh doanh của công ty.
2.3.3.2. Những lưu ý cho website TMĐT
Chất lượng website: doanh nghiệp cần phải đầu tư vào nội dung của website bằng cách chăm sóc nội dung thường xuyên, cập nhật thông tin,.. Công việc này có thể giao cho bộ phận kinh doanh hoặc một nhân viên đảm nhiệm.
Nội dung: nội dung trang web sẽ quyết định khả năng thu hút và giữ chân người xem. Vì vậy, nên đặt mình vào vị trí đối tượng khách hàng để quyết định xem mình nên đăng gì. Bên cạnh đó, cần tạo sự tiện lợi cho người xem khi xem các trang web của doanh nghiệp sao cho trong thời gian ngắn nhất họ có thể tìm được cái mình cần.
Đăng tải nhiều thông tin quá cũng không tốt bởi người xem sẽ có cảm giác rối tung trong mớ thông tin hỗn độn và sẽ nhanh chóng chán, mang theo ấn tượng không tốt về mức độ chuyên môn của website.
Thông tin cần phải được cập nhật thường xuyên.
Ngoài ra, nên xây dựng một cộng đồng trên trang web. Đây sẽ là sân chơi cho những người cùng yêu thích một lĩnh vực nào đó. Diễn đàn này rất có tác dụng trong việc giữ chân người xem và thu hút người mới tham gia, góp phần quảng cáo cho website.
2.3. Tổng quan về ngôn ngữ thiết kế web.
2.3.1. HTML
2.3.1.1. Khái niệm
HTML (viết tắt từ HyperText Markup Language) là một ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản, được thiết kế ra để xây dựng các trang web. Vậy thế nào là ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản? Ta hãy cùng xem xét từng khía cạnh một:
Siêu văn bản (HyperText): Như ta đã biết, liên kết siêu văn bản là một từ hay một câu trong trang Web dùng để chỉ đến trang Web khác. Khi nhấn chuột lên một trong các liên kết này, trình duyệt web (như Netscape Navigator hoặc Internet Explorer) sẽ đưa ta tức khắc đến trang Web kia mà không cần hỏi han gì. Vì những liên kết siêu văn bản này thật sự là tính năng đặc trưng của World Wide Web, các trang Web thường được biết như là những tài liệu siêu văn bản. Vì thế, HTML có từ siêu văn bản trong tên của nó.
Đánh dấu (Markup): Có từ điển định nghĩa markup là các chỉ dẫn chi tiết về kiểu dáng được ghi trên bản viết tay để xếp chữ in. Như vậy, chúng ta có thể hiểu đó là các lệnh chi tiết về kiểu dáng được đánh vào tài liệu văn bản để đưa lên WWW.
Nói chung, HTML tồn tại như là các tập tin văn bản chứa trên các máy tính nối vào mạng Internet. Các file này có chứa thẻ đánh dấu và thường được truyền đi trên mạng internet thông qua giao thức mạng HTTP. Sau đó thì phần HTML của chúng sẽ được hiển thị thông qua một trình duyệt web, một loại phần mềm trực quan đảm nhiệm công việc đọc văn bản của trang cho người sử dụng.
2.3.1.2. Cấu trúc của một tài liệu HTML
Các tập tin HTML luôn bắt đầu bằng thẻ . Thẻ này không làm gì khác ngoài nhiệm vụ báo cho trình duyệt Web biết rằng nó đang đọc một tài liệu có chứa các mã HTML. Tương tự, dòng cuối trong tài liệu định dạng HTML luôn luôn là thẻ , có tác dụng thông báo sự kết thúc của văn bản HTML với trình duyệt.
Chi tiết kế tiếp trong catalog thẻ HTML dùng để chia tài liệu thành hai phần: đầu và thân.
Phần đầu giống như lời giới thiệu cho trang. Các trình duyệt Web dùng phần đầu này để thu nhặt các loại thông tin khác nhau về trang. Để xác định phần đầu, ta sử dụng thẻ và thẻ ngay sau thẻ . Mặc dù ta có thể đặt một số chi tiết bên trong phạm vi phần đầu này, nhưng phổ biến nhất là tên trang. Nếu có ai đó xem trang này trong browser, thì tên trang sẽ xuất hiện trong dải tên của cửa sổ browser. Để xác định tên trang, ta đặt đoạn văn bản tên đó giữa các thẻ và .
Phần thân là nơi nhập vào các văn bản sẽ xuất hiện trên trang Web lẫn các thẻ khác quy định dáng vẻ của trang. Để xác định phần thân, ta đặt các thẻ và sau phần đầu (dưới ).
Dưới đây là cấu trúc cơ bản của một trang web định dạng HTML:
tên trang
Các thẻ tiêu đề khác
Văn bản và các thẻ của trang Web
2.3.2. Javascript
JavaScript là một ngôn ngữ lập trình kịch bản dựa trên đối tượng được phát triển từ các ý niệm nguyên mẫu. Ngôn ngữ này được dùng rộng rãi cho các trang web, nhưng cũng được dùng để tạo khả năng viết script sử dụng các đối tượng nằm sẵn trong các ứng dụng. Giống Java, JavaScript có cú pháp tương tự C, nhưng nó gần với Self hơn Java. .js là phần mở rộng thường được dùng cho tập tin mã nguồn JavaScript.
Javascript là ngôn ngữ dưới dạng script có thể gắn với các file HTML. Nó không được biên dịch mà được chương trình duyệt diễn dịch. Không giống Java phải chuyển thành mã để trình duyệt biên dịch, trình duyệt đọc Javascript dưới dạng mã nguồn. Chính vì vậy, ta có thể dễ dàng học Javascript qua các ví dụ bởi ta có thể thấy cách sử dụng Javascript trên các trang web.
Javascript có khả năng đáp ứng các sự kiện như tải hay loại bỏ các form. Khả năng này cho phép Javascript trở thành ngôn ngữ script động.
Giống với HTML và Java, Javascript được thiết kế độc lập với hệ điều hành. Nó có thể chạy trên bất kì hệ điều hành nào có hỗ trọ Javascript. Ngoài ra, Javascript còn giống Java ở khía cạnh an ninh là không thể đọc và viết vào file của người dùng.
Cũng giống như C, JavaScript không có bộ xử lý xuất/nhập (input/output) riêng. Trong khi C sử dụng thư viện xuất/nhập chuẩn, JavaScript dựa vào phần mềm ngôn ngữ được gắn vào để thực hiện xuất/nhập.
Hiện nay, JavaScript được sử dụng rất nhiều trong việc thiết kế trang web động và một số hiệu ứng hình ảnh thông qua DOM. Ngoài ra, JavaScript còn được dùng để thực hiện một số tác vụ không thể thực hiện được với chỉ HTML như kiểm tra thông tin nhập vào, tự động thay đổi hình ảnh,... Ở Việt Nam, JavaScript còn được ứng dụng để làm bộ gõ tiếng Việt. Tuy nhiên, mỗi trình duyệt áp dụng JavaScript khác nhau và không tuân theo chuẩn W3C DOM, do đó trong rất nhiều trường hợp lập trình viên phải viết nhiều phiên bản của cùng một đoạn mã nguồn để có thể hoạt động trên nhiều trình duyệt.
2.3.3. PHP
PHP (viết tắt hồi quy "PHP: Hypertext Preprocessor") là một ngôn ngữ lập trình kịch bản hay một loại mã lệnh chủ yếu được dùng để phát triển các ứng dụng viết cho máy chủ, mã nguồn mở, dùng cho mục đích tổng quát. Nó rất thích hợp với web và có thể dễ dàng nhúng vào trang HTML. Do được tối ưu hóa cho các ứng dụng web, tốc độ nhanh, nhỏ gọn, cú pháp giống C và Java, dễ học và thời gian xây dựng sản phẩm tương đối ngắn hơn so với các ngôn ngữ khác nên PHP đã nhanh chóng trở thành một ngôn ngữ lập trình web phổ biến nhất thế giới.
Ngày nay, PHP đã được sử dụng rộng rãi và phổ biến nhất để xây dựng các các trang web động. Chúng ta có thể thấy trên nhiều diễn đàn, các cổng thông tin Portal, các website cá nhân được thiết kế bằng mã nguồn mở của PHP. Vì thế mà PHP đang có một chỗ đứng vững chắc trong thế giới các ngôn ngữ lập trình web.
Xuất phát từ thực tế trên, đặc biệt là những ưu thế mà PHP đem lại, em đã quyết định lựa chọn ngôn ngữ này để thực hiện đề tài xây dựng website du lịch mà em đã nghiên cứu trong quá trình thực tập
CHƯƠNG III: CÔNG CỤ THỰC HIỆN
Như đã giới thiệu ở trên, ngôn ngữ PHP và hệ quản trị cơ sở MySQL chính là công cụ mà em đã lựa chọn để thực hiện đề tài của mình. Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu sau rõ hơn về PHP và các ứng dụng của nó trong thực tế.
3.1. Lịch sử phát triển của PHP
PHP được phát triển từ một sản phẩm có tên là PHP/FI. PHP/FI do Rasmus Lerdorf tạo ra năm 1995, ban đầu được xem như là một tập con đơn giản của các mã kịch bản Perl để theo dõi tình hình truy cập đến bản sơ yếu lý lịch của ông trên mạng. Ông đã đặt tên cho bộ mã kịch bản này là 'Personal Home Page Tools'. Khi cần đến các chức năng rộng hơn, Rasmus đã viết ra một bộ thực thi bằng C lớn hơn để có thể truy vấn tới các cơ sở dữ liệu và giúp cho người sử dụng phát triển các ứng dụng web đơn giản. Rasmus đã quyết định công bố mã nguồn của PHP/FI cho mọi người xem, sử dụng cũng như sửa các lỗi có trong nó đồng thời cải tiến mã nguồn.
PHP/FI, viết tắt từ "Personal Home Page/Forms Interpreter", bao gồm một số các chức năng cơ bản cho PHP như ta đã biết đến chúng ngày nay. Nó có các biến kiểu như Perl, thông dịch tự động các biến của form và cú pháp HTML nhúng. Cú pháp này giống như của Perl, mặc dù hạn chế hơn nhiều, đơn giản và có phần thiếu nhất quán.
Tháng 11 năm 1997, phiên bản PHP/FI 2.0 được chính thức công bố dưới dạng các bản beta. Nhưng không lâu sau đó, nó đã được thay thế bởi các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33438.doc