MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU 3
B. NỘI DUNG 4
I. TỔNG QUAN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 4
1. Khái niệm thị trường chứng khoán: 4
2. Vai trò của thị trường chứng khoán 4
3. Các chỉ tiêu tài chính 6
3.1. Chỉ tiêu 6
3.2. Kết quả hoạt động kinh doanh 6
3.3. Hệ số khả năng thanh toán 6
3.3.1. Hệ số thanh toán ngắn hạn 6
3.3.2. Hệ số thanh toán nhanh 7
3.4. Hệ số khả năng sinh lời 7
3.4.1. Hệ số tổng lợi nhuận 7
3.4.2. Hệ số lợi nhuận ròng 7
3.4.3. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản ( ROA ) 8
3.4.4. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có ( ROE ) 8
3.5. Hệ số cơ cấu tài chính 8
3.5.1. Hệ số nợ 8
3.5.2. Hệ số cơ cấu nguồn vốn 9
3.6. Các chỉ số về cổ phiếu 9
3.6.1. Cổ tức: là số tiền hàng năm được trích từ lợi nhuận của công ty để trả cho mỗi cổ phiếu mà cổ đông nắm giữ. 9
3.6.2. Thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS) 9
3.6.3. Giá trên thu nhập của cổ phiếu (P/E) 9
3.6.4. Cổ tức trên thu nhập (D/E) 10
3.6.5. Cổ tức trên thị giá (D/P) 10
3.6.6. Giá trị sổ sách của cổ phiếu phổ thông 10
4. Chỉ số chứng khoán việt nam ( VN – Index ) 10
5. Các chủ thể trên thị trường 11
5.1. Chủ thể phát hành 11
5.2. Nhà đầu tư : 11
5.3. Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán 12
5.3.1. Cơ quan quản lý và giám sát hoạt động thị trường chứng khoán 12
5.3.2. Sở giao dịch chứng khoán 13
5.3.3. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán 13
5.3.4. Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán 13
5.3.5. Các tổ chức hỗ trợ 13
5.3.6. Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm 13
II. XU HƯỚNG BIẾN ĐỘNG GIÁ CỔ PHIẾU TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY 14
1. Giai đoạn từ 20/07/2000 đến 31/12/2001 14
2. Giai đoạn từ 31/12/2001 đến hết năm 2002 15
3. Giai đoạn từ 31/12/2002 đến hết năm 2003 15
4. Giai đoạn năm 2004 16
5. Biến động giá thị trường chứng khoán năm 2005 17
6. Biến động giá chứng khoán năm 2006 17
7. Biến động giá cổ phiếu 3 tháng đầu năm 2007 18
1.Nhóm yếu tố kinh tế 20
2.Nhóm yếu tố phi kinh tế 22
3.Nhóm yếu tố thị trường 22
IV. NHẬN ĐỊNH VỀ XU HƯỚNG BIẾN ĐỘNG GIÁ CỔ PHIẾU TRONG THỜI GIAN TỚI 23
1.Một vài nhận định về thị trường trong thời gian qua 23
2. Triển vọng của thị trường trong thời gian tới 24
3. Xu hướng biến động giá cổ phiếu trong thời gian tới 24
C. KẾT LUẬN 26
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 27
27 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2103 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Xu hướng biến động về giá của thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lai. Thông thường cổ phiếu được đánh giá tốt khi tỷ lệ P/E nằm trong khoảng giá trị 10 lần.
3.6.4. Cổ tức trên thu nhập (D/E)
Cổ tức
D/E = --------------------------------------
Thu nhập của mỗi cổ phiếu
Hệ số này đo lường tỷ lệ phần trăm lợi nhuận ròng trả cho cổ đông phổ thông dưới dạng cổ tức. Hệ số này càng cao thì cổ phiếu đó càng nhận được sự quan tâm của các nhà đầu tư, bởi lẽ họ sẽ được trả mức cổ tức cao cho mổi cổ phiếu nắm giữ.
3.6.5. Cổ tức trên thị giá (D/P)
Cổ tức
D/P = -----------------------------------
Giá thị trường hiện thời
Hệ số này phản ánh mức lợi tức mong đợi của nhà đầu tư khi mua một loại cổ phiếu tại thời điểm hiện tại. Nếu tỷ lệ này càng cao thì cổ phiếu đó càng được các nhà đầu tư ưa thích vì họ kỳ vọng vào lợi nhuận cao thu về khi đầu tư vào cổ phiếu.
3.6.6. Giá trị sổ sách của cổ phiếu phổ thông
Tổng tài sản – tổng số nợ - cổ phiếu ưu đãi
Giá trị sổ sách = --------------------------------------------------------
Số cổ phiếu phổ thông
Chỉ tiêu này được dùng để xác định giá trị của một cổ phiếu theo số liệu trên sổ sách một nhà đầu thường quan tâm đến chỉ tiêu này để so sánh với giá trị của cổ phiếu.
4. Chỉ số chứng khoán việt nam ( VN – Index )
Chỉ số VN – index xây dựng căn cứ vào giá thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm yết. Với hệ thống chỉ số này, nhà đầu tư có thể đánh giá và phân tích thị trường một cách tổng quát. VN – index được tính theo công thức sau :
∑ (P1i * Q1i ) * 100
VN-INDEX = -------------------------------
P0i * Q0i
Trong đó : P1i : giá hiện hành của cổ phiếu i
Q1i : khối lượng đang lưu hành của cổ phiếu i
P0i : giá của cổ phiếu i thời kỳ gốc
Q0i : khối lượng cổ phiếu i thời kỳ gốc
Các trường hợp điều chỉnh và cách điều chỉnh
- Khi trên thị trường xảy ra trường hợp niêm yết mới hay tổ chức niêm yết tiến hành tăng vốn, hệ số chia sẽ được điều chỉnh như sau :
D0 * V1
D1 = ----------------
V1 - AV
Trong đó: D1 : hệ số chia mới
D0 : hệ số chia cũ ( D0 = ∑ P0i * Q0i )
V1 : tổng giá trị hiện hành của các cổ phiếu niêm yết
( V1 = ∑P0i * Q1i )
AV : giá trị điều chỉnh cổ phiếu
- Khi hủy niêm yết hay tổ chức niêm yết tiến hành giảm vốn, hệ số chia mới sẽ được tính như sau :
D0 * V1
D1 = -----------------
V1 + AV
Chỉ số giá VN - index tăng chóng mặt từ 307,5 điểm phiên đóng cửa năm 2005 lên 751,7 điểm tại phiên đóng cửa 29/12/2006 và đầu năm 2007 VN - Index đã vượt ngưỡng 1000 điểm. Theo giới tài chính quốc tế, chỉ số giá VN - Index của Việt Nam năm 2006 tăng cao nhất trong số hơn 410 chỉ số của các thị trường chứng khoán ở Châu Á.
5. Các chủ thể trên thị trường
5.1. Chủ thể phát hành
Chủ thể phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hóa của thị trường chứng khoán. Các chủ thể phát hành bao gồm : chính phủ, các doanh ngiệp và một số tổ chức khác như : quỹ đầu tư, tổ chức tài chính trung gian …
- Chính phủ và chính quyền địa phương là chủ thể phát hành các chứng khoán : trái phiếu chính phủ, trái phiếu địa phương, trái phiếu công trình, tín phiếu kho bạc.
- Công ty là chủ thể phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là chủ thể phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ hưởng thụ … phục vụ cho mục tiêu huy động vốn và phù hợp với đặc thù hoạt động của họ theo luật định.
5.2. Nhà đầu tư :
Chủ thể đầu tư là những người có tiền, thực hiện việc mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận. Nhà đầu tư có thể được chia thành hai loại : Nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Các nhà đầu tư cá nhân
Nhà đầu tư cá nhân là các cá nhân và hộ gia đình, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, kỳ vọng lợi nhuận càng cao thì mức độ chấp nhận rủi ro phải càng lớn và ngược lại. Chính vì vậy các nhà đầu tư cá nhân luôn phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mình.
- Các nhà đầu tư có tổ chức
Nhà đầu tư có tổ chức là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên thị trường chứng khoán là các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm là đa dạng hóa danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có chuyên môn và có kinh nghiệm.
5.3. Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán
5.3.1. Cơ quan quản lý và giám sát hoạt động thị trường chứng khoán
Cơ quan quản lý và giám sát hoạt động thị trường chứng khoán được hình thành dưới nhiều mô hình tổ chức hoạt động khác nhau, có nước do tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ quan này trực thuộc chính phủ, nhưng có nước lại có sự kết hợp quản lý giữa các tổ chức tự quản và nhà nước. Nhưng tựu chung lại, cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán do chính phủ của các nước thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích của người đầu tư và đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, an toàn và phát triển bền vững.
Cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán có thể có những tên gọi khác nhau, tùy thuộc từng nước và nó được thành lập để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán.
5.3.2. Sở giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành thị trường chứng khoán thông qua bộ máy tổ chức và hệ thống các quy định, văn bản pháp luật về giao dịch chứng khoán trên cơ sở phù hợp với các quy định của luật pháp và ủy ban chứng khoán.
5.3.3. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức tự quản của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các thành viên và các nhà đầu tư trên thị trường.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán thực hiện một số chức năng sau
- Đào tạo nghiên cứu trong lĩnh vực chứng khoán.
- Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán.
- Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cở sở các quy định pháp luật về chứng khoán hiện hành.
- Giải quyết tranh chấp giữa các thành viên.
- Tiêu chuẩn hóa các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán.
- Hợp tác với chính phủ và các cơ quan khác để giải quyết các vấn đề có tác động đến hoạt động kinh doanh chứng khoán.
5.3.4. Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
Là tổ chức lưu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán. Các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán đáp ứng đủ điều kiện của ủy ban chứng khoán sẽ thực hiện dịch vụ lưu ký và thanh khoán bù trừ chứng khoán.
5.3.5. Các tổ chức hỗ trợ
Là các tổ chức được thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng và tăng cường của thị trường chứng khoán thông qua các hoạt động như : cho vay tiền để mua cổ phiếu và cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng. Các tổ chức hỗ trợ chứng khoán ở các nước khác nhau có đặc điểm khác nhau, có một số nước không cho phép thành lập các tổ chức này.
5.3.6. Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là các công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và tiềm lực tài chính của tổ chức phát hành theo những điều khoản đã cam kết của tổ chức phát hành cụ thể.
Hệ số tín nhiệm có thể biểu hiện bằng các chữ cái hay chữ số, tùy theo quy định của từng công ty xếp hạng.
Các nhà đầu tư có thể dựa vào các hệ số tín nhiệm về tổ chức phát hành do các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm cung cấp để cân nhắc đưa ra quyết định đầu tư của mình.
Các công ty đánh giá ( xếp hạng ) hệ số tín nhiệm có vai trò quan trọng trong việc phát hành các chứng khoán, đặc biệt là phát hành các chứng khoán quốc tế.
II. XU HƯỚNG BIẾN ĐỘNG GIÁ CỔ PHIẾU TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
1. Giai đoạn từ 20/07/2000 đến 31/12/2001
Thị trường chứng khoán Việt Nam sau một năm chính thức đi vào hoạt động xảy ra rất nhiều biến động : giá chứng khoán lên xuống thất thường, cung cầu trên thị trường mất cân bằng. Trong giai đoạn này, các tổ chức tham gia thị trường và công chúng đầu tư mới bước đầu làm quen được với khái niệm và hình thức đầu tư mới.
Trong ngày giao dịch đầu tiên 28/07/2000, chỉ với hai loại cổ phiếu được niêm yết là REE và SAM chỉ số VN-Index đã lên tới 100 điểm tương ứng với tổng giá trị giao dịch là 70.400.000 VND, trong đó cổ phiếu REE chiếm 16.000.000 VND và SAM chiếm 54.400.000 VND. Ngày đầu lên sàn cổ phiếu REE có mức giá là 16.000 đồng, SAM là 17.000 đồng, tổng khối lượng giao dịch là 4.200 cổ phiếu trong đó REE khớp được 1.000 còn lại là khối lượng SAM khớp được. Thời điểm này thị trường vắng bóng những nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước còn khá dè dặt.
Tính đến cuối năm 2000, trên trung tâm giao dịch chứng khoán HCM chỉ có 5 cổ phiếu niêm yết với tổng giá trị là 321.178 tỷ VND. Trong năm 2001 đã có thêm 6 công ty được UBCKNN cấp giấy phép niêm yết nâng tổng giá trị phát hành trên thị trường là 500.617 tỷ VND.
Nhìn chung từ phiên giao dịch đầu tiên đến 25/06/2001, giá cổ phiếu liên tục tăng và đặc biệt đến ngày 25/06/2001 chỉ số VN-Index đã đạt đến mức kỷ lục là 571,04 điểm tại phiên giao dịch đạt giá trị giao dịch là 23.570.700.000 VND. Trong đó, giá của HAP lên tới 127.000 VND tăng gấp 8 lần so với phiên giao dịch đầu tiên ( 04/08/2000 ), TMS tăng 9,5 lần so với phiên đầu tiên là 14.000 VND đạt 132.000 VND, REE tăng lên 95.000 VND, SAM là 74.000 VND và LAF là 82.500 VND. Sau đó, thị trường trầm lắng và chỉ số chứng khoán giảm liên tục.
Trước tình hình thị trường như vậy, ngày 10/10/2001 UBCKNN đã áp dụng biên độ dao động cũ là ±2% với hy vọng chỉ số tăng trở lại. Nhưng đến cuối năm 2001, chỉ số lại tiếp tục giảm, trung bình giảm 3,6 điểm/phiên. Đến ngày 31/12/2001 chỉ số đạt 235,4 điểm, tăng 135,4 điểm so với 100 điểm của phiên giao dịch đầu tiên và giảm 335,64 điểm so với đỉnh 571,04 điểm ngày 25/06/2001.
2. Giai đoạn từ 31/12/2001 đến hết năm 2002
Tính đến tháng 7/2002, trung tâm giao dịch chứng khoán tp. HCM đã thực hiện được 322 giao dịch, với tổng khối lượng cổ phiếu được giao dịch là 41 triệu cổ phiếu, giao dịch cổ phiếu chiếm 94,9 %, bình quân một giao dịch đạt 5 tỷ đồng. Số tài khoản giao dịch mở tại các công ty chứng khoán là gần 12.000, trong đó có 91 nhà đầu tư có tổ chức và 33 nhà đầu tư nước ngoài, có 17 loại cổ phiếu được niêm yết trên thị trường.
Có thể thấy đây là năm không mấy tươi sáng của thị trường chứng khoán Việt Nam vì hầu hết giá các cổ phiếu trên thị trường đều có xu hướng giảm. Tháng 09/2002, chỉ số VN-Index rơi vào đợt sụt giảm giá dài nhất từ trước đến nay, 16 phiên giảm liên tiếp 11,73 điểm từ 191,66 điểm xuống 179,93 điểm và là mức thấp nhất trên thị trường kể từ ngày đỉnh là 25/06/2001 là 571,04 điểm. Kết thúc tháng 9 chỉ số dừng ở mức 182,13 điểm. Sang đến tháng 10 kết thúc phiên giao dịch cuối cùng của tháng chỉ số VN-Index rớt xuống mức kỷ lục mới là 177,61 điểm thấp hơn mức sụt thấp nhất của tháng 9 là 2,32 điểm. Điều đó cho thấy thị trường không có dấu hiệu phục hồi mà còn sụt giảm hơn.
3. Giai đoạn từ 31/12/2002 đến hết năm 2003
Có thể thấy đây là năm đáng ghi nhớ trong lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán việt nam với “ đoạn kết có hậu “ cho các nhà đầu tư – những người đã từng gắn bó “ chung thủy “ với thị trường. Trong 9 tháng đầu năm giá cổ phiếu giảm sút liên tục như trong tháng 1 giảm mạnh nhất là cổ phiếu GIL từ 43.000 VND/cổ phiếu xuống còn 29.500 VND/cổ phiếu, giảm 13.500 VND/cổ phiếu, giảm 31,6% do công ty nay phát hành thêm 850.000 cổ phiếu nên giá giảm do hiệu ứng “ pha loãng “. Một số cổ phiếu có mức giá rất cao khi mới lên sàn cũng sụt giảm ghê gớm như REE giảm xuống còn 12.200 VND/cổ phiếu, BBC là 12.100 VND/cổ phiếu …
Tháng 10 đánh dấu mức đáy thấp nhất của thị trường chứng khoán từ trước tới nay vào ngày 24/10/2003. Chỉ số VN-Index giảm xuống một mức đáy hoàn toàn mới 130,9 điểm. Nhưng 3 tháng cuối năm ghi dấu sự bừng tỉnh của thị trường chứng khoán Việt Nam bằng những phiên giao dịch đầy ấn tượng, thực sự đã tạo ra “ cú huých “ có hiệu ứng khá mạnh.
Tháng 11, 12 thị trường được hâm nóng dần lên bởi sự trở lại của các nhà đầu tư nước ngoài, sự hâm nóng của các nhà pháp chế phi ngân hàng như các công ty quản lý quỹ VMF, VINA CAPITAL, và một số định chế nước ngoài như IFC, FMO, PXP… đồng thời tâm lý các nhà đầu tư được cải thiện và tham gia nhiệt tình hơn. Cuối tháng 11, VN-Index đạt 163,87 điểm tăng 32,97 điểm so với mức giảm kỷ lục trong tháng 10. Kết thúc tháng 12 chỉ số VN-Index dừng ở mức 168,74 điểm là mức cao nhất sau tháng 01/2002.
4. Giai đoạn năm 2004
Tháng 1, không khí thị trường sôi động khác hẳn không khí ảm đạm của năm 2003. Chỉ trong vòng một tháng, chỉ số VN-Index tăng 47,38 điểm, tổng khối lượng giao dịch trên toàn thị trường là 10.999.993 cổ phiếu, trị giá 740 tỷ đồng. Giá khớp lệnh bình quân đạt 6,2 tỷ đồng/phiên, tăng 3,2 tỷ đồng so với tháng 12/2003. Giá cổ phiếu tăng đồng loạt sau hơn một năm trầm lắng. Kết thúc phiên giao dịch 714 thì VN-Index đạt 214,32 điểm.
Tháng 3 có hai sự kiện quan trọng đã tác động mạnh mẽ đến thị trường chứng khoán đẩy chỉ số VN-Index lên cao và đạt mức cao nhất trong năm là 277,44 điểm. Hai sự kiện đó là UBCKNN – cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán chính thức được chuyển giao về Bộ Tài Chính ngày 16/03/2004 và 24/03/2004, quỹ đầu tư đầu tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam (VFI) được chính thức cấp phép thành lập và phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư, tạo hàng hóa cho thị trường.
Quý II thị trường giao dịch khá trầm lắng, có dấu hiệu chững lại đi xuống. Chỉ số giao động với biên độ hẹp dần, giá cổ phiếu giảm mạnh. Khối lượng và giá trị giao dịch đều giảm mạnh. Nguyên nhân do nhà nước đầu tư nước ngoài đã dừng đầu tư vào cổ phiếu do tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu tại các công ty niêm yết đã hết giới hạn. Họ chuyển sang đầu tư vào trái phiếu nhiều hơn và giao dịch rất cầm chừng. Thị trường vắng bóng các nhà đầu tư có tổ chức, có hiểu biết và thiếu tính chuyên nghiệp.
Sang tháng 7 do chịu ảnh hưởng của tâm lý các nhà đầu tư trong nước có xu hướng đầu tư theo các nhà đầu tư nước ngoài và do sự dịch chuyển vốn từ thị trường chứng khoán sang đầu tư vào các công ty tiềm năng như Bảo Việt, Kinh Đô … làm cho giá cổ phiếu có xu hướng giảm dần, xuống mức 238,44 điểm và phiên giao dịch cuối cùng.
Trong những tháng cuối năm, thị trường vẫn chưa có những dấu hiệu sáng sủa. Một không khí giao dịch rất cầm chừng và dò xét của các nhà đầu tư. Kết thúc tháng 12 chỉ số VN-Index dừng ở ngưỡng 218,41 điểm cao hơn mức cao nhất của tháng 1 là 4,09 điểm.
5. Biến động giá thị trường chứng khoán năm 2005
Năm 2005 được ghi nhận với nhiều sự kiện quan trọng có ý nghĩa đột phá trong lịch sử phát triển thị trường chứng khoán. Hàng hóa trên thị trường chứng khoán năm 2005 chiếm 65,7 % là trái phiếu, chứng chỉ quỹ chiếm tỷ lệ nhỏ còn lại là các cổ phiếu. Trên thị trường chứng khoán có 34 loại cổ phiếu, tính tới thời điểm cuối năm đa số các cổ phiếu này đều tăng giá so với đầu năm. Chỉ số VN-Index từ phiên 951 đến phiên thứ 1101 nhìn chung tăng, nhưng tăng nhẹ dưới 250 điểm. Thời điểm cuối năm 2005 chỉ số này tăng lên đạt trên mức 300 điểm.
Tháng 9, thị trường chứng khoán Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực, thị trường chuyển sang giai đoạn mới. Thông tin về số liệu kết quả sản xuất kinh doanh tuy chưa công bố chính thức nhưng khá khả quan. Vì thế mà tăng kỳ vọng của các nhà đầu tư. Trong tháng này, sự lên ngôi của cổ phiếu NKD trên thị trường có vai trò đặc biệt quan trọng, giá cổ phiếu này trở thành điểm nóng và không ngừng tăng lên kéo theo sự gia tăng của hàng loạt cổ phiếu khác. Chỉ trong hai phiên liên tiếp 1117 và 1118 cổ phiếu này tăng 17.000 đồng/cổ phiếu, các phiên sau đó giá cổ phiếu này đều tăng lên và đạt 47.700 đồng/cổ phiếu, trở thành cổ phiếu đứng thứ hai chỉ sau GMD. Kết quả là chỉ số VN-Index đạt mức 289,33 điểm, tăng 43,83 điểm và tăng 17,8 % so với phiên giao dịch cuối cùng của tháng 08/2005. Toàn bộ 30 cổ phiếu đều tăng giá. Trong đó, các cổ phiếu tăng nhiều nhất là BBC, REE, NKD, CAN. Theo đó, hai tháng 10 và 11, chỉ số VN-Index tiếp tục tăng lên, mức độ tăng không còn đột biến như trong tháng 9 mà đi vào quỹ đạo ổn định hơn. Sang tháng 12 thị trường giảm nhẹ ở tất cả các chỉ tiêu : giá, chỉ số và khối lượng giao dịch.
6. Biến động giá chứng khoán năm 2006
Trong tháng 1, phiên giao dịch ấn tượng nhất là ngày 19/01 các cổ phiếu được giao dịch trên sàn tăng gấp đôi lên 16 tỷ đồng. Theo đánh giá thì sự tăng vọt này chủ yếu là do sự xuất hiện cổ phiếu của Vinamilk. Với tổng giá trị khoảng 531 tỷ đồng, cao hơn giá trị cổ phiếu của tất cả các cổ phiếu khác cộng lại, đã tạo nên một sự kiện quan trọng trong hơn 5 năm hoạt động của thị trường.
Tháng 2, thị trường giao dịch tăng đột biến 210 % về khối lượng và 272 % về giá trị so với tháng 1. Trên thị trường có sự tham gia của quỹ đầu tư nước ngoài khiến cho thị trường thêm sôi động. Trong số 34 cổ phiếu thì chỉ có 3 loại giảm giá : TAY, SGH và DPC, 2 loại đứng giá còn lại 30 loại cổ phiếu tăng giá. Chỉ số VN-Index tăng cao, chủ yếu vẫn là do sự tăng giá của những cổ phiếu chủ chốt là : REE, SAM, VNM.
Tháng 3 và 4 được các chuyên gia nhận định là phát triển nóng, chỉ số VN-Index đã vượt ngưỡng 500 điểm. Ngày 21/04 chỉ số VN-Index dạt mức kỷ lục là 591,31 điểm. cho đến đầu tháng 5 chỉ số VN-Index vẫn tiếp tục tăng lên. Nguyên nhân của sự tăng lên liên tục này là do các nhận định khả quan về thị trường chứng khoán Việt Nam, sự ra đời của các quỹ đầu tư làm cho lượng tiền chảy vào tương đối lớn, đặc biệt là sự xuất hiện của cổ phiếu VNM. Với quy mô lớn đã làm cho cầu thị trường tăng lên đáng kể.
Các tháng tiếp theo chỉ số VN-Index lại giảm xuống, thấp nhất là 399,8 điểm tại phiên giao dịch ngày 02/08/2006. Nguyên nhân của hiện tượng này chủ yếu là do sự ảnh hưởng tâm lý của các nhà đầu tư hình thành làn sóng bán tháo các cổ phiếu gây ra sự giảm giá mạnh trên thị trường.
Tuy nhiên vào những tháng cuối năm 2006 chỉ số VN-Index lại tăng lên và tăng đột biến. Sau hơn 11 năm đàm phán, ngày 07/11/2006 Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của WTO. Theo đó Việt Nam phải thực hiện các cam kết mở cửa. Hội nhập kinh tế là bước khởi đầu hứa hẹn cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế và thu hút các nguồn vốn nước ngoài.
Nhiều nhận định tích cực đã được đưa ra về sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới. Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đã đánh giá cao vị trí của nền kinh tế Việt Nam đối với khu vực và mặc dù còn khá non trẻ nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam đã được xếp vào hàng ngũ những thị trường trường chứng khoán năng động nhất Châu Á với tốc độ tăng trưởng trên 70% năm 2006. Các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu quan tâm hơn đến thị trường chứng khoán và kéo theo đó là sự chuyển biến trong tâm lý các nhà đầu tư trong nước. Chỉ số VN-Index liên tục tăng lên từ trung tuần tháng 11 đến tháng 12 và đạt mức kỷ lục là 809,86 điểm vào ngày 20/12/2006.
7. Biến động giá cổ phiếu 3 tháng đầu năm 2007
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã phát triển chưa từng có trong năm 2006 cả về số lượng công ty niêm yết và chỉ số chứng khoán. Thị trường vẫn tiếp tục sôi động vào những tháng đầu năm 2007.
Từ tháng 1 cho đến trung tuần tháng 3, chỉ số VN-Index liên tục tăng cao và vượt ngưỡng 1000 điểm tại phiên giao dịch ngày 18/01/2007. Nguyên nhân là do:
Tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam tiếp tục được đánh giá khả quan, việc gia nhập WTO đã thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài tăng mạnh từ tháng 11/2006 và tiếp tục tăng trong năm 2007.
Cầu chứng khoán quá mạnh đã dẫn đến cổ phiếu bị đánh giá quá cao trong bối cảnh cung chứng khoán còn hạn chế.
Các yếu tố khác làm tăng mạnh định giá chứng khoán như : tốc độ hội nhập quốc tế nhanh, những lợi ích hiệu quả thu được từ tự do hóa thương mại, cải cách thị trường sau khi gia nhập WTO, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tính minh bạch được cải thiện với việc bắt đầu áp dụng chế độ báo cáo tài chính của nhiều công ty.
Sau sự tăng đột biến thị trường chứng khoán bước sang thời kỳ suy thoái. Chỉ số VN-Index liên tục giảm xuống và hiện nay con số này là dưới 1000 điểm. Sự sụt giảm này được các chuyên gia đánh giá chủ yếu là tâm lý đầu tư theo cảm tính của các nhà đầu tư. Bởi vì nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển, đầu tư nước ngoài vẫn tăng, tình hình kinh doanh nói chung của các doanh nghiệp vẫn tốt.
Các nhà đầu tư nhỏ đua nhau bán cổ phiếu và họ trở nên ngày càng mất bình tĩnh khi chỉ số Vn-Index tiếp tục giảm xuống dưới 1000 điểm.
Mặt khác cơn sốt địa ốc vừa qua cũng kéo theo một số lượng lớn các nhà đầu tư sang địa ốc, giá vàng tăng lên cũng khiến cho các nhà đầu tư nhỏ sốt ruột mau chóng muốn bán nhanh để bảo tồn vốn.
8. Cuối năm 2007 đầu năm 2008:
Khoảng thời gian này VN - Index liên tục tăng giảm và phá ngưỡng 500 điểm khiến tâm lý hầu hết các nhà đầu tư là bất an. Ngày 25/03/2008, UBCK phải ra một quyết định khó khăn, đó là thu hẹp biên độ hai sàn, từ 5% xuống 1% (tại HOSE) và từ 10% xuống 2% (tại HASTC). Với cơ quan quản lý, quyết định giảm biên độ được ví như một liều thuốc “dũng cảm”, buộc thị trường phải “cầm” đà tuột dốc. Còn với nhà đầu tư, việc giảm biên độ được đón nhận với nhiều thái độ khác nhau.
Việc thu hẹp biên độ cũng chỉ là biện pháp tình thế của UBCK. Đến ngày 07/04/2008 UBCK cho phép tăng biên độ giao dịch với sàn HOSE từ 1% lên 2% và sàn HASTC từ 2% lên 3%. Mở rộng sự giao động giá chứng khoán.
III. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XU HƯỚNG BIẾN ĐỘNG CHỨNG KHOÁN
1.Nhóm yếu tố kinh tế
-Về tăng trưởng kinh tế, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển và giảm khi nền kinh tế kém phát triển. Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm cổ phiếu và tình hình biến động của từng cổ phiếu phụ thuộc vào tình hình hoạt động cụ thể của từng công ty.
-Về mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, giá cổ phiếu đôi khi xảy ra trước biến động hoạt động kinh doanh, đôi khi xảy ra sau. Thời gian xảy ra và mức độ biến động này có sự chênh lệch đáng kể qua theo dõi tình hình. Qua một thời gian dài, nhiều người cho rằng giá cổ phiếu phổ thông thay đổi trước hoạt động kinh doanh.
-Thu nhập công ty, những người theo trường phái này cho rằng, thu nhập hay lợi nhuận của công ty được coi là nhân tố quan trọng nhất tác động tới giá cổ phiếu. Những nhà kinh doanh và nhà đầu tư mua và bán cổ phiếu chủ yếu dựa trên cơ sở dự đoán về mức thu nhập. Tuy nhiên, giá cổ phiếu không phải lúc nào cũng có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập. Có những thời điểm, giá cổ phiếu tăng nhanh hơn thu nhập, vào những thời điểm khác, nó bị tụt lại đằng sau thu nhập. Đôi khi trên thực tế, nó lại biến động theo chiều hướng ngược lại với thu nhập. Do vậy, dù một người theo dõi rất sát thị trường đã dự đoán đúng xu hướng thay đổi của thu nhập, nhưng không có gì bảo đảm rằng anh ta có thể dự đoán chính xác xu hướng biến đổi của giá cổ phiếu.
-Cổ tức, những người theo trường phái này cho rằng cổ tức là nhân tố cơ bản, chủ yếu thứ hai sau thu nhập, trong việc xác định giá chứng khoán. Tuy nhiên, cổ tức không đóng vai trò quan trọng đối với loại cổ phiếu tăng trưởng là loại cổ phiếu mà người ta coi sự tăng giá của chúng là rất quan trọng, thường xuyên mang lại lợi suất đầu tư cuối cùng lớn hơn nhiều so với cổ tức hiện tại. Một công ty tăng trưởng có khả năng sử dụng số vốn này có hiệu quả hơn cho các cổ đông, là những người luôn phải tim kiếm cơ hội đầu tư. Trong tất cả các nhân tố báo chí sử dụng để giả thích về sự biến động giá hàng ngày của từng cổ phiếu, các thông tin về cổ tức luôn được xếp ở vị trí quan trọng gần đầu.
-Lãi suất, mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu là gián tiếp và luôn thay đổi. Nguyên nhân là do luồng thu nhập từ cổ phiếu có thể thay đổitheoi lãi suất và chúng ta không thể chắc chắn liệu sự thay đổi của luồng thu nhập này có làm tăng hay bù đắp cho mức biến động về lãi suất hay không. Để giải thích rõ vấn đề này, chúng ta sẽ xem xét các khả năng có thể xảy ra khi tỷ lệ lạm phát tăng, cụ thể như sau:
Lãi suất tăng do tỷ lệ lạm phát tăng và thu nhập công ty theo đó cũng tăng vì công ty có thể tăng giá cho phù hợp với mức tăng của chi phí. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có thể khá ổn định vì ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng tỷ suất lợi nhuận đã được đền bù một phần hay toàn bộ bởi phần tăng của tỷ lệ tăng trưởng thu nhập và cổ tức.
Lãi suất tăng, nhưng luồng thu nhập dự tính thay đổi ít do công ty không có khả năng tăng giá để phù hợp với chi phí tăng, do vậy giá cổ phiếu giảm. Tỷ suất lợi nhuận quy định có thể tăng nhưng tỷ lệ tăng trưởng của cổ tức là không đổi, nên mức chênh lệch giữa hai nhân tố này càng lớn.
Lãi suất tăng trong khi luồng thu nhập giảm vì các nguyên nhân làm tăng lãi suất lại gây tác động xấu tới th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Xu hướng biến động về giá của thị trường chứng khoán Việt Nam.DOC