Việc CPH doanh nghiệp Nhà nước đương nhiên có ảnh hưởng dến vị trí công tác, việc làm, quyền lợi của một bộ phận cán bộ quản lý trực tiếp tại doanh nghiệp nhà nước và các cơ qưan quản lý nhà nước trung gian, vì vậy có một số cán bộ đã chần chừ, do dự chưa muốn CPH, trong khi đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa có biện pháp xử lý kịp thời và kiên quyết.
Trong quá trình triển khai CPH, mới có khâu xác định giá trị doanh nghiệp được quy định rõ thời hạn, còn lại tất cả các khâu khác chưa quy định, do đó chưa xác định rõ trách nhiệm của các ngành, các cấp và các doanh nghiệp trong việc bảo đảm triển khai CPH.
Việc khống chế mức mua CPH còn quá chặt chẽ, cứng nhắc, dẫn đến tình trạng một số doanh nghiệp cần huy động đủ vốn cho hoạt động kinh doanh tuy chưa huy động đủ nhưng do bị khống chế nên một số cá nhân, pháp nhân có tiền mà không mua được thêm.
Việc quy định cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp không được mua cổ phần vượt quá mức mua cổ phần bình quân của cổ đông trong doanh nghiệp vừa hạn chế việc huy động vốn, vừa không tạo được niềm tin và sự khuyến khích cho các cổ đông khác mua cổ phần.
29 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1280 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uy động vốn của công ty là rất lớn và rộng rãi
trong công chúng.
- Cổ đông của CTCP tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa (khác với công tyTNHH là số thành viên là không quá 50 người). Trong quá trình hoạt động, CTCP được phép phát hành chứng khoán và cổ đông được quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình vì thế số lượng cổ đông của CTCP thường là rất đông
3.2. Vai trò:
- Công ty cổ phần thông qua thị trường chứng khoán có khả năng tập trung vốn nhanh và nhiều để đủ sức thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh với qui mô khổng lồ mà từng nhà kinh doanh riêng biệt không thể tự mình làm nổi. Điều này do quan hệ sở hữu trong công ty cổ phần là thuộc
về các cổ đông.
- Công ty cổ phần góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng của đồng vốn thông qua các biểu hiện sau:
+ Đối với công ty cổ phần thì phương án sản xuất kinh doanh không phải do Nhà nước hay ngân hàng quyết định mà do chính xí nghiệp quyết định. Hơn nữa do hình thức tự cấp phát tài chính bằng huy động các nguồn vốn trong dân cư đã đề cao trách nhiệm của xí nghiệp và nâng cao sự quan tâm của xí nghiệp đến hiệu quả sử dụng vốn.
+ Công ty cổ phần thông qua việc gọi vốn qua thị trường chứng khoán đã rút ngắn được khoảng cách giữa việc huy động vốn và sử dụng vốn.
+ Do lợi nhuận của công ty cổ phần khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau thúc đẩy nên có thể dẫn dắt tiền vốn nhàn dỗi từ nhiều kênh khác nhau trong xã hội vào các lĩnh vực, các ngành có năng xuất lao động và tỷ suất lợi nhuận cao làm cho vốn được phân bố và sử dụng hiệu quả
trong nền kinh tế.
+ Công ty cổ phần cho phép xác nhận quyền sở hữu về tài sản của người chủ sở hữu và xác định rõ vốn của mỗi người thông qua số lượng cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Thực chất công ty cổ phần đã tách được quyền sở hữu ra khỏi quyền quản lý kinh doanh. Điều đó cho phép người giám đốc chủ động linh hoạt tìm kiếm và thực thi các giải pháp kinh doanh có lợi nhất đối với công ty của mình.
- Công ty cổ phần có khả năng phối hợp các lực lượng kinh tế khác nhau duy trì được mối quan hệ giữa các thành viên. Các thành viên này cùng tồn tại và phát huy những thế mạnh riêng do đó làm giảm đến mức thấp nhất sự ngưng trệ của các nguồn vốn và sự đổ vỡ, sự gián đoạn của các hoạt động kinh doanh.
- Công ty cổ phần là hình thức kinh doanh tốt nhất để tranh thủ sự tham gia đầu tư của nước ngoài. Với một nền kinh tế đặc biệt ở các nước đang phát triển việc thu hút vốn, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý thông qua liên doanh liên kết với nước ngoài là vô cùng cần thiết để phát triển kinh tế trong nước.
- Công ty cổ phần tạo ra một cơ chế phân bố rủi ro đặc thù đã hạn chế được những tiêu cực về kinh tế xã hội khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng khủng hoảng. Chế độ trách nhiệm hữu hạn đã hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại của sự rủi ro thua lỗ. Cơ chế phân bố rủi ro này đã tạo điều kiện cho những người có vốn mạnh dạn đầu tư, làm cho nền kinh tế phát triển vã có xu hướng ổn định hơn.
Việc hình thành chứng khoán của công ty cổ phần cùng với việc chuyển nhượng, mua bán chứng khoán đến một mức độ nhất định sẽ tạo điều kiện cho ra đời thị trường chứng khoán - trái tim của thị trường vốn. ý nghĩa căn bản của việc ra đời thị trường chứng khoán là ở chỗ: đó là nơi các nhà kinh doanh có thể tìm kiếm được nguồn tài trợ cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh, là nơi khai thông các nguồn tiết kiệm của những người tích luỹ đến các nhà đầu tư, là cơ chế phân bổ các nguồn vốn đầu tư thích hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và còn là cơ sở quan trọng để Nhà nước qua đó sử dụng các chính sách tiền tệ can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu đã lựa chọn.
Bên cạnh những vai trò lớn như vậy đối với nền kinh tế, công ty cổ phần vẫn còn tồn tại những điểm hạn chế sau:
+ Với chế độ trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần đã đem lại thuận lợi cho các cổ đông nhưng lại chuyển bớt rủi ro cho các chủ nợ.
+ Công ty cổ phần gồm đông đảo các cổ đông tham gia góp vốn, số vốn góp khác nhau họ lại không quen biết nhau sẽ dẫn đến tình trạng tranh chấp và phân hoá lợi ích giữa các nhóm cổ đông. Vì thế việc điều hành các công ty cổ phần rất phức tạp.
+ Cơ cấu tổ chức quản lý ở công ty cổ phần tương đối cồng kềnh và phức tạp vì vậy chi phí cho việc quản lý tương đối lớn.
Mặc dù còn một số hạn chế, nhưng nhìn chung công ty cổ phần là một loại hình tổ chức kinh doanh phù hợp với quy mô sản xuất lớn, thích ứng được những đòi hỏi của nền sản xuất xã hội hoá cao và sự phát triển nền kinh tế thị trờng hiện đại
Chương 2 : Công ty cổ phần và vai trò của nó trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay .
2.1. Quá trình hình thành công ty cổ phần ở Việt nam.
2.1.1. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành CTCP ở nước ta.
- Điều kiện và môi trường pháp lý: Chúng ta đã có nhiều bộ luật và các bộ luật này ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Ngoài ra còn có một số bộ luật mới sắp được đưa vào hệ thống luật để phù hợp với xu thế phát triển xã hội ngày nay. Những bộ luật đó đã mở ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho việc ra đời của CTCP. Mặc dù chưa thực sự hoàn chỉnh song những bộ luật đó sẽ là nhân tố mở đầu cho sự ra đời của CTCP.
- Chính phủ đã nhận thức được tầm quan trọng trong việc CPH, đây là nhân tố rất quan trọng. Bởi lẽ không CPH thì hiệu quả làm ăn của các doanh nghiệp khó được nâng cao. Điều đó làm nền kinh tế nước ta càng tụt hậu so với các nước khác. Khi chính phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của việc CPH thì sẽ có những chính sách hợp lý để thúc đẩy quá trình CPH.Bởi Chính phủ không những chỉ có chính sách khuyến khích mà còn có cả chính sách bắt buộc.
- Tình hình kinh tế đất nước biến đổi theo hướng tích cực. Sau hơn 15 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã có những dấu hiệu khả quan. Những thành tựu của nền kinh tế đã tạo môi trường thuận lợi cho sự ra đời của CTCP.
- Thu nhập của dân cư được nâng cao. Do nền kinh tế đã có sự tăng trưởng thu nhập người dân được cải thiên từ đó người dân có điều kiện và sự tự tin để đóng góp vào CTCP. Làm ăn bằng vốn, trí tuệ và sức lực của mình.
-Nền kinh tế thị trường đã tạo ra sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp vì thế đã xuất hiện đội ngũ quản lý doanh nghiệp có năng lực. Đội ngũ này sẽ là những người năng động sáng, đủ sức đứng vững trên thị trường khi tham gia vào CTCP.
-Nhà nước ta đã có luật đầu tư nước ngoài. Khuyến khích các doanh nghiệp các nhà tư bản nước ngoài đầu tư vào Việt nam . Thu hút được một lượng vốn đáng kể để thực hiện quá trình CPH.
-Nước ta có nền kinh tế đang phát triển. Việc đưa CTCP vào nền kinh tế còn mới mẻ đối với Việt nam nhưng không mới mẻ với nhiều nước trên thế giới. Vì thế nước ta có đIều kiện học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Tránh được những sai lầm, rút ngắn những bước không cần thiết, học hỏi kinh nhiệm quản lý.
Tóm lại: dù là nhân tố bên trong hay bên ngoài chúng ta đều có nhiều thuận lợi để hình thành CTCP.Hơn nữa việc hình thành CTCP là một yếu tố khách quan mà không nền kinh tế thị trường nào tránh đuợc. Vì thế như nhiều nước trên thế giới CTCP đã hình thành ở Việt nam. Và hy vọng trong tương lai không xa đó sẽ là hình thức tổ chức kinh doanh đem lại hiệu quả lớn cho nền kinh tế Việt nam
Sự hình thành và phát triển CTCP ở Việt nam.
Ngày 21 tháng 12 năm 1990 luật công ty Việt nam ra đời. đến tháng 11 năm 1991 chủ trương CPH doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam lần đầu tiên được nêu tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khoá VII. Cho đến ngày 31 tháng 7 nă 1999 nước ta đã có khoảng 230 CTCP được thành lập theo luật công ty và 206 doanh nghiệp nhà nước được CPH chuyển sang hình thức CTCP. Quá trình thực hiện có thể chia làm 2 giai đoạn chính:
-Giai đoạn thí đểm (1992 – 1995 ) : Trong giai đoạn này, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ ) đã ban hành quyết định số 202/CT ngày 8 tháng 6 năm 1992 về việc thí đIểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành CTCP và chỉ thị 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm CPH doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước. Sau 4 năm triển khai quyết định số 202/CT và chỉ thị số 84/TTg của Thủ tướng Chính phủ ( 1992 - 1995 ), đã có 5 doanh nghiệp nhà nước chuyển thành CTCP. Đó là:
+ Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển, thuộc Bộ Giao thông Vận tải (cổ phần hoá năm 1993 ).
+ Công ty Cơ điện lạnh, thuộc Uỷ ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ( cổ phần hoá năm 1993 ).
+ Xí nghiệp Giày Hiệp An, thuộc Bộ Công nghiệp (cổ phần hoá năm 1994 ).
+Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An (cổ phần hoá năm 1995 ).
+Xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc, thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (cổphần hoá năm 1995 ).
Trong số các doanh nghiệp nói trên thì có 4 doanh nghiệp thuộc địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và1doanh nghiệp thuộc địa bàn Tỉnh Long An.
-Giai đoạn mở rộng thêm ( từ năm 1996 dến nay ) : Trên cơ sở đánh giá các ưu điểm và tồn tại trong giai đoạn triển khai thí điểm CPH một số doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ đã ban hành nghị định số 28/CP ngày 7 tháng 5 năm 1996 về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành CTCP. Nghị định này đã xác định rõ giá trị doanh nghiệp; chế độ ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp và tổ chức bộ bộ máy giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác CPH doanh nghiệp nhà nước, đồng thời giao nhiệm vụ cho các Bộ, các địa phương hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác này.
Trong quá trình thực hiện, nghị định28/CP đã bộc lộ một số hạn chế nhất định. Vì vậy, ngày 26/3/1997 Chính phủ đã ban hành nghị định số 25/CP sửa đổi một số điều của Nghị định 28/CP kể trên. Nhờ những văn bản này, công tác CPH đã đạt được kết quả khá khả quan trong hai năm 1996-1997. Số doanh nghiệp nhà nước CPH trong 2 năm tăng gấp nhiều lần so với 4 năm trước, đưa tổng số doanh nghiệp nhà nước hoàn thành việc chuyển thành CTCP, hoạt động theo Luật Công ty lên 18 doanh nghiệp.
Hầu hết 18 doanh nghiệp này, sau khi chuyển sang CTCP đều phát triển tốt với một số chỉ tiêu như doanh thu, lợi nhuận, thu nhập của người lao động đều tăng trưởng cao hàng năm. Đây thực sự là tín hiệu tốt, khích lệ cán bộ, công nhân viên trong các doanh nghiệp nhà nước chuẩn bị chuyển sang CTCP tiếp tục ủng hộ chủ trương CPH của Đảng và Chính phủ.
Tuy nhiên, trong vong 5 năm ( 1992 -1997 ) mà các ngành, các địa phương trong cả nước mới chỉ cổ phần hoá xong có 18 doanh nghiệp chứng tỏ tốc độ CPH diễn ra còn quá chậm. Các nguyên nhân của sự chậm chạp đã được chỉ ra và khắc phục từng bước, tạo nên một sự chuyển biến ngày một mạnh mẽ cả về việc sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp luật, các quy trình, thủ tục lẫn việc thực hiện CPH. Bước chuyển biến lớn và rất quan trọng có thể nói được bắt đầu từ năm 1998, nhất là sau khi Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị 20/1998/CT –TTg về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước và Nghị định 44/1998/NĐ -CP ngày 29/6/1998 về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành CTCP.
Các loại công ty cổ phần ở Việt nam.
ở Việt nam hiện nay có các loại CTCP sau:
Thứ nhất: đó là công ty quốc doanh. Đây là giải pháp khắc phục khuyết tật của hình thức sở hữu nhà nước và tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý trong khu vực doanh nghiệp quốc doanh. CTCP quốc doanh gồm nhiều chủ sở hữu: Nhà nước, những người lao động trực tiếp trong CTCP, các cá nhân và các tổ chức khác. Một đặc điểm của loại CTCP này là nhà nước nắm giữ cổ phiếu khống chế chi phối hoạt động của CTCP do đó được gọi là công ty quốc doanh. Người thay mặt nhà nước với tư cach là một cổ đông trong hội đồng quản trị có vai trò quyền hạn trách nhiệm rõ ràng hơn so với vai trò chủ sở hữu gắn với bộ máy nhà nước và viên chức nhà nước. Ngoài ra cũng là CTCP nên có đầy đủ các vai trò, đặc điểm của CTCP đã nêu
Thứ hai: Loại CTCP liên doanh với nước ngoài. Ta biết rằng CTCP là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ đầu tư nước ngoài. Do đó với một nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện nay, sự ra đời của CTCP liên doanh với nước ngoài là đặc biệt quan trọng. Ta vừa tranh thủ được vốn lại vừa tranh thủ được công nghệ, trình độ quản lý, kinh nghiệm làm ăn của công ty nước ngoài.
Điểm khác nhau cơ bản của CTCP liên doanh với nước ngoài và CTCP quốc doanh là nó có sự tham gia của các cá nhân, tổ chức nước ngoài vào mọi bộ phận của công ty. Dù vậy nhưng do nước ta có định hướng phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước nên trong loại CTCP này nhà nướcvẫn nắm cổ phiếu khống chế
Thứ ba: Loại CTCP có 100% vốn nước ngoài. Đó là các CTCPdo các cá nhân hoặc các tổ chức nước ngoài lập nên ở Việt nam. Hoặc do một CTCP liên doanh với nước ngoài nhưng sau một thời gian làm ăn, các cá nhân hoặc tổ chức kinh tế nước ngoài dần dần nắm được toàn bộ số cổ phiếu của Công ty
Thứ tư: Chính phủ quy định bổ sung hình thức bán toàn bộ giá trị vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp nhà nước để chuyển thành CTCP. Hình thức này áp dụng cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh các ngành nghề thông thường.
Trên đây là 4 loại CTCP ở Việt nam hiện nay. Mặc dù khác nhau về hình thức nhưng bản chất của các công ty là khác nhau và đều đóng góp vào công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước.
2.3 Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế nước ta hiện nay
Nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu và chậm phát triển. Mặc dù đã đổi mới nền kinh tế được hơn 15 năm và đã giành được một số thành tựu nhất định. Nhưng so với các nước trên thế giới thì khoảng cách giữa nền kinh tế nước ta và nền kinh tế thế giới là khá xa. Nước ta đang nỗ lực phấn đấu để thu hẹp khoảng cách này. CTCP ra đời đã có một vai trò nhất định trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước, thu hẹp khoảng cách với nước ngoài. Vai trò đó thể hiện ở những điểm sau:
Vai trò thứ nhất: Huy động được vốn nhàn rỗi từ dân cư. Qua hơn 15 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã có nhiều tiến bộ thu nhập của dân cư được nâng cao. Tuy nhiên nhiều người còn chưa biết sử dụng vốn một cách hợp lý do chưa năng động, chưa sáng tạo và chưa tự tin. Việc gửi tiết kiệm vào ngân hàng đem lại một số lãi hạn chế. Vậy người dân phải tìm nơi để đầu tư số tiền của mình để đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất- Đó chính là CTCP. Về phía người góp vốn họ được lợi nhuận cao hơn so với gửi ngân hàng, lại phải có trách nhiệm về số vốn đã đầu tư nên họ phải chăm chỉ, phải nỗ lực hơn để có được kết quả tốt nhất. Còn về phía công ty mỗi thành viên góp vốn thì số vốn công ty sẽ được tăng thêm có điều kiện mở rộng sản xuất, thay đổi công nghệ, đủ sức cạnh tranh với các Công ty khác.
Vai trò thứ hai: Thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Việt nam là nước đang thu hút được sự chú ý của rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Vì Việt nam là nước có thị trường tiêu thụ lớn do đông dân cư, có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, có nguồn nhân công dồi dào với mức lương thấp... Còn về phía Việt nam các doanh nghiệp thiếu vốn để mở rộng sản xuất, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ năng lực quản lý còn thấp, khi hợp tác với nước ngoài vừa thu hút được nguồn vốn, vừa được chuyển giao công nghệ lại học hỏi được kinh nghiêm quản lý... vì vậy quan hệ hợp tác là quan hệ 2 chiều, hai bên cùng có lợi. CTCP đã thực hiện tốt vai trò này, là chiếc cầu nối cho sự giao lưu hợp tác giữa nước ta với nước ngoài. Thúc đẩy nhanh hơn nền kinh tế đất nước
Vai trò thứ ba của CTCP trong nền kinh tế nước ta hiện nay là nâng cao vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay các doanh nghiệp nhà nước chiếm đa số. Nhưng trước đây các doanh nghiệp này làm ăn không có hiệu quả do ở trong chế độ quan liêu bao cấp nên các doanh nghiệp có sức ỳ lớn, không năng động vì không phải chịu trách nhiệm khi làm ăn thua lỗ. Khi Chính phủ quyết định CPH các doanh nghiệp nhà nước đã làm cho các doanh nghiệp phải tự thân vận động chịu trách nhiệm về hành động của mình, lời ăn lỗ chịu nên các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên trong các doanh nghiệp này Nhà nước vẫn nắm cổ phiếu khống chế. Như vậy Nhà nước vừa quản lý được doanh nghiệp vừa buộc doanh nghiệp phải tự mình phải sản xuất kinh doanh. Do đó CTCP đã nâng cao được vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Vai trò thứ tư của CTCP là tránh được rủi ro trong kinh doanh. Mặc dù không có những nhà tư bản lớn lũường, không có các công ty độc quyền ở Việt nam. Nhưng khi tham gia sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp với số vốn nhỏ sẽ chịu sác xuất rủi ro cao. Nhất là khi hiện nay Việt nam đã chuẩn bị tham gia AFTA, sẽ phá bỏ hàng rào thuế quan với các nước trong khu vực. Vì vậy các doanh nghiệp sẽ phải cạnh tranh khốc liệt với các doanh nghiệp khác trong khu vực. Nếu số vốn ít, trình độ kém sẽ sớm bị đào thải. Nên tham gia vào CTCP sẽ là biện pháp hữu hiệu để các nhà sản xuất, các doanh nghiệp Việt nam hạn chế được các rủi ro. Nâng cao sức cạnh tranh cả ở thị trường trong nước và trong khu vực.
Vai trò thứ năm của CTCP là thúc đẩy sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán ( TTCK ). Nhờ có sự ra đời của các CTCP mà TTCK Việt nam đã hình thành. Mặc dù còn non nớt nhưng cũng đã góp phần vào việc củng cố sự phát triển của CTCP. Đây là mối quan hệ 2 chiều hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Như vậy CTCP đã có những vai trò nhất định đối với nền kinh tế Việt nam. Trong thời gian tới CTCP sẽ được mở rộng hơn nữa và sẽ đóng góp vai trò quan trọng hơn nữa vào qúa trình phát triển của nền kinh tế Việt nam.
Thực trạng quá trình cổ phần hoá ở Việt nam.
Một số thành tựu
Sau một thời gian thực hiện quá trình CPH chúng ta đã đạt được một số thành tựu sau:
Thứ nhất: CPH đã thay đổi phương thức quản lý. Chế độ bình bầu chọn giám đốc, hội đồng quản trị và các chức danh lãnh đạo của doanh nghiệp đã làm cho đội ngũ này có trách nhiệm cao hơn, quyền lợi và trách nhiệm đã gắn với nhau hơn, việc trả công lao động cũng rất rõ ràng và minh bạch; vấn đề làm chủ tập thể của các cổ đông được phát huy cao độ. Điều này làm mọi người càng nỗ lực phấn đấu hơn nữa để xây dựng doanh nghiệp ngày càng vững mạnh.
Thứ hai: tình trạng lãng phí của cải, tài sản giảm thiểu: vấn đề ăn nhậu, xa hoa không còn, tiền phong bao... cũng không có. Vì điều kiện của các công ty quy định rõ định mức các khoản chi, nhất là khi tiếp khách. Như vậy ngân sách của doanh nghiệp sẽ tăng lên và niềm tin của các cổ đông với doanh nghiệp được củng cố.
Thứ ba: Người lao động phấn khởi, thu nhập ngày một tăng, vì vậy tinh thần làm việc hăng say. Không khí sản xuất mới được thiết lập. Đó chính là sức sống mới của doanh nghiệp. Việc tinh thần lao động hăng say sẽ nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. Củng cố uy tín doanh nghiệp trên thị trường.
Thứ tư: Tài sản của doanh nghiệp nhà nước ( DNNN ) được đánh giá chính xác hơn. Trước đây trong chế độ cũ tài sản DNNN bị đánh giá thấp, khấu hao trích nộp thấp, không đủ bù đắp vốn để tái đầu tư, mở rộng và phát triển sản xuất. Việc đánh giá chính xác tài sản DNNN đã tạo ra niềm tin và nguồn lực mới thúc đẩy sự phát triển của DNNN.
Thứ năm: Nhà nước đã thu hồi về được một số lượng vốn đáng kể. Đây là một tín hiệu đáng mừng. Lượng vốn thu hồi về sẽ bổ sung vào thu nhập của người lao động và một phần tái đầu tư mở rộng sản xuất.
Thứ sáu: Các chỉ tiêu khác nhau như vốn, nộp ngân sách, việc làm, thu nhập bình quân đều có sự tiến bộ. Sự tiến bộ này ghi nhận sự đúng đắn trong đường lối phát triển kinh tế đất nước. Góp phần thu hẹp khoảng cách với các nước trên thế giới.
Thứ bảy: Thu nhập qua cổ tức của người lao động và nhà nước đều tăng. Điều này cho thấy chúng ta đã đi đúng hướng và cần tiếp tục giữ gìn, phát huy.
Thứ tám: Nhờ sự làm ăn ngày càng khấm khá nên giá cổ phiếu của nhiều công ty CPH đã tăng nhanh. Giá trị cổ phiếu bình quân tăng 2-3 lần. Người đầu tư được hưởng phần lãi cổ tức nhìn chung cao hơn lãi gửi ngân hàng và còn được hưởng lãi về giá cổ phiếu.
Thứ chín: Chúng ta đã thống nhất hơn trong tư tưởng, rút ra được kinh nghiêm quý báu cho việc chỉ đạo CPH.
Tóm lại, Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được thể hiện ở việc hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng cao, việc làm và thu nhập của người lao động ngày càng được cải thiện, số vốn huy động được ngày càng lớn. Điều đó đã góp một phần vào công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước..
Những mặt yếu kém.
Bên cạnh những thành tựu mà chúng ta đạt được vẫn còn rất nhiều mặt
Chưa được mà chúng ta cần phải sớm khắc phục. Những mặt chưa được đó là:
Thứ nhất: Tiến trình CPH tiến triển chậm. Chúng ta đã có chủ trương CPH từ năm 1991. Từ đó đến nay đã có hàng loạt các văn bản, nghị quyết, quyết định... về việc triển khai và thúc đẩy CPH DNNN. Thế nhưng việc CPH diễn ra rất chậm chạp, chưa có nhiều dấu hiệu khả quan.
Thứ hai: Các doanh nghiệp chưa có phương án sản xuất thật hiệu quả, chưa tìm ra được hướng đầu tư mới. Nhìn chung các doanh nghiệp còn thụ động trong việc nghiên cứu và triển khai các dự án sản xuất kinh doanh. Và chưa tự tin khi tự mình dứng ra làm ăn trên thị trường.
Thứ ba: Quan điểm về CPH vẫn chưa thống nhất. Đặc biệt là các cấp bộ, tỉnh sợ CPH sẽ không còn gì để quản lý nữa. Đây là một sai lầm mà chúng ta cần sớm sửa đổi để nhanh chóng CPH, nâng cao hiệu quả sản xuất.
Thứ tư: Một bộ phận cán bộ, lãnh đạo sợ CPH vì họ sợ sẽ mất quyền lợi, mất chức vụ... còn những công nhân viên kém cỏi thì sợ mất việc làm, mất chế độ. Việc này đã gây ra sức ỳ trong việc CPH làm việc CPH càng chậm và khó khăn hơn.
Thứ năm: Nhà nước chưa có biện pháp mạnh mẽ thực hiện đúng quyền chủ sở hữu của mình. Chính phủ chưa kiên quyết, chưa coi CPH là nhiệm vụ bắt buộc, mà còn chờ tự nguyện của các doanh nghiệp, các địa phương, các bộ chủ quản. Chủ trương CPH dàn đều không tập trung vào các vùng trọng điểm.
Thứ sáu: Việc tuyên truyền vận động đối với cán bộ, công nhân viên doanh nghiệp CPH chưa tốt. Vì thế người dân chưa tin tưởng vào sự đúng đắn của chính sách gây ra tâm lý chủ quan coi thường tầm quan trọng của CPH.
Thứ bảy: Kiểm toán chưa thực sự thực hiện được chức năng của mình, chi phí kiểm toán rất cao nhưng mới chỉ kiểm toán được hạch toán của doanh nghiệp chưa xác định được giá trị của doanh nghiệp.
Thứ tám: Việc tổ chức thực thi chưa rõ ràng. Mặc dù ban CPH gồm nhiều tổ chức nhưng chưa hiệu quả. Việc thống nhất ý kiến rất khó khăn. Một số văn bản chỉ đạo chưa cụ thể, chưa khẳng định trách nhiệm cho từng cán bộ, từng địa phương.
Thứ chín: Vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp trước CPH cũng còn gặp khó khăn và kéo dài lịch trình CPH, thậm chí làm cho CPH không thực hiện được.
Thứ mười: Các quy định về chế độ đối với DNNN CPH sau CPH chưa rõ ràng có phần phân biệt đối xử. Việc này gây ức chế tâm lý cho nhiều doanh nghiệp làm ảnh hưởng xấu tới quá trình CPH.
Thứ mười một: Một số doanh nghiệp ở Miền Nam chưa có đầy đủ giấy tờ pháp lý về quyền sở hữu nhà xưởng và đất đai gây ách tắc cho quá trình CPH.
Thứ mười hai: Thị trường chứng khoán mới mẻ còn non nớt chưa đảm nhận tốt chức năng của mình là nơi mua bán cổ phiếu. Và người dân chưa mạnh bạo tham gia TTCK.
Tóm lại: Dù đã có nhiều thành tựu song chúng ta vẫn còn rất nhiều hạn chế trong quá trình CPH. Có thể nhìn thấy đó là: quá trình chuẩn bị thành lập kéo dài, thiếu khuân khổ pháp lý rõ ràng, có sự chênh lệch về thu nhập của người lao động và của doanh nghiệp trong quá trình CPH.
Chương III: Một số giảI pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình hình thành và để nâng cao vai trò CTCP
ở Việt nam
CTCP ra đời đã đóng góp vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta.Tuy đã gặt hái được một số thành tựu song vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiệm vụ của chúng ta là phải đưa ra những giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình hình thành và để nâng cao vai trò CTCP ở Việt nam. Để đưa ra được giải pháp chúng ta phải tìm hiểu được nguyên nhân của việc chậm tiến trình hình thành và phát triển CTCP từ đó mới đưa ra được những giải pháp hữu hiệu.
3.1. Những nguyên nhân cơ bản làm cản trở quá trình hình thành CTCP ở nước ta.
Tiến trình CPH ở nước ta trong thời gian qua chậm bởi một số nguyên nhân sau:
Môi trường kinh tế đang tiếp tục có khó khăn,do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ trong khu vực: thị trường tiêu thụ sản phẩm bị thu hẹp lại, sản phẩm tồn kho nhiều, giá cả hầu hết các mặt hàng giảm xuống. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực doanh nghiệp nhà nước đạt thấp nhất trong những năm gần đây (trong năm tháng đầu năm 1999 chỉ tăng 3,7% so với cùng kì năm trước, trong khi 5 tháng năm 96 tăng 13%, 5 tháng năm 97 tăng 11,1%, 5 tháng năm 98 tăng 10,5%).
Cơ chế chính sách CPH chậm được ban hành đồng bộ thiếu cụ thể , quy trình xác định giá trị doanh nghiệp quá phức tạp, còn nhiều điểm chưa phù hợp. Môi trường kinh tế chưa thật sự bình đẳng, chưa tạo được mặt bằng thống nhất về cơ chế chính sách cho các thành phần kinh tế cùng cạnh tranh phát triển.
Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước đều thiếu vốn, công nợ dây dưa nhiều, công nghệ kỹ thuật lạc hậu, lao động dư thừa, sản phẩm làm ra khó tiêu thụ, kém khả năng cạnh tranh, do đó chưa hấp dẫn người mua cổ phần.
Việc lựa chọn doanh nghiệp CPH làm chưa tốt, còn khá nhiều doanh nghiệp kinh doanh khó khăn, hiệu quả thấp, tình hình tài chính không lành mạnh, chưa có biện pháp củng cố nhưng đã đưa vào kế hoạch CPH, dẫn đến một số doan
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0620.doc