Động cơ Jet không phải là chương trình đơn mà là nhóm tập tin . dll (Dynamic Link Library). DLL là những tập tin liên kết với chương trình khi chương trình chạy. Chúng khác với thư viện liên kết tĩnh trong C, vốn tích hợp vào từng chương trình một. Hãy thử tưởng tượng, nếu trên PC có 4 chương trình cần làm việc với CSDL . mdb của Access. Nếu tập tin được liên kết tĩnh, toàn bộ tập tin của động cơ Jet sẽ phải được tích hợp vào từng chương trình trong cả 4 chương trình. Trước khi Windows ra đời, mọi việc đã xảy ra đúng như vậy. Tuy nhiên, giờ thì . dll chỉ việc nằm chờ trên đĩa và sẵn sàng đáp ứng cho bất cứ chương trình nào gọi chúng. Nhóm tập tin . dll của Jet tự động được liên kết với chương trình VB lúc thi hành. Jet đảm trách phần việc thông dịch các yêu cầu của chương trình thành hoạt động vật lý thực tế trên CSDL . mdb của Access hoặc của kho lưu dữ liệu khác. Ưu điểm của việc phân công trách nhiệm này là ta có thể áp dụng cùng mã chương trình và kỹ thuật khi giao tiếp với Jet, cho dù đang làm việc trên CSDL, tập tin văn bản hay tập tin bảng tính. Jet đảm trách phần việc còn lại - đọc dữ liệu và ghi vào kho lưu dữ liệu.
31 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1296 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công ty thương mại và phát triển công nghệ Bách Khoa 4, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luôn là nơi khởi động, bắt đầu của các kế hoạch nghiên cứu đào taọ, xây dựng các giải pháp kĩ thuật, thiết lập các chi nhánh mới.
Tại phòng này các chiến lược kinh doanh của BK4 trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn đề được đề xuất và nghiên cứu. Những thành viên thuộc phòng này có thể là nhân viên trực thuộc các bộ phận khác của công ty hoặc có thể là nhân viên thuộc các tổ chức xã hội khác.
4.3. Phòng kinh doanh
Do đặc thù của mô hình kinh doanh của công ty nên số lượng nhân viên thuộc phòng này là tương đối lớn. Các nhân viên thuộc phòng này có thể làm việc tại trụ sở công ty cũng như có thể làm việc tại các chi nhánh. Phòng Maketing thường phải phụ trách các công việc như sau :
Lập kế hoạch quảng cáo, giới thiệu sản phẩm trong mỗi lô hàng cho các đại lý bán lẻ máy tính khác trong toàn bộ khu vực.
Trực tiếp bàn bạc, thiết lập các giao dịch đối với các đối tác trong và ngoài khu vực.
Cố vấn, tham mưu cùng ban giám đốc trong vấn đề kinh doanh và giới thiệu sản phẩm.
Hỗ trợ, hợp tác cùng phòng kỹ thuật trong việc giao dịch, mua bán hàng hoá.
Thực hiện các công việc khác được giám đốc giao cho …
4.4. Phòng Kế toán
Đề xuất, tham mưu cho Giám đốc trong việc xây dựng: công tác quản lý, tổ chức và nhân sự; cơ chế quản lý kế toán, tài chính; chế độ hạch toán, báo cáo thống kê; cơ chế quản lý lao động, tiền lương của toàn công ty sao cho phù hợp với quy định nhà nước.
Xây dựng các báo cáo định kỳ cho trụ sở chính cũng như tại các chi nhánh của công ty.
Thiết kế, xây dựng kế hoạch tài chính, lao động, tiền lương cho công ty.
Tổ chức thực hiện và cung cấp chính xác, đầy đủ, kịp thời các báo cáo tài chính kế toán khi có yêu cầu.
4.5. Phòng Kỹ thuật
Xây dựng, thiết lập, đề xuất các giải pháp kỹ thuật cho công ty.
Phối hợp với phòng Kế hoạch trong việc xây dựng kế hoạch nghiên cứu các dự án cải tiến kỹ thuật và nâng cao chất lượng của hàng hoá được bán ra ngoài thị trường.
Phối hợp với các chi nhánh trong việc triển khai, bảo trì và lắp ráp, thực hiện các giao dịch.
Thiết lập và triển khai hệ thống kỹ thuật, trang thiết bị, cho các trụ sở cũng như các chi nhánh.
Phối hợp với phòng lưu trữ vận hành và phục hồi dữ liệu trong việc triển khai hệ thống kỹ thuật có liên quan đến sao dữ liệu.
Phối hợp với phòng kế toán tổng hợp trong công tác quản lý tổ chức nhân sự, tiền lương; lập báo cáo định kỳ, khấu hao tài sản cố định, công cụ lao động, các thiết bị công nghệ chuyên dùng…
Tổ chức quản lý, bảo trì và sửa chữa các trang thiết bị, máy móc của toàn công ty.
Thực hiện các chương trình kiểm tra kỹ thuật, đào tạo cán bộ cho các chi nhánh.
Lập kế hoạch công tác và báo cáo định kỳ kết quả thực hiện cho Giám đốc, đề xuất những biện pháp cải tiến về quản lý và kỹ thuật.
Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Giám đốc giao…
4.6. Phòng Hành chính
Phòng hành chính luôn luôn thường trực tại công ty, phòng hành chính thường đảm nhiệm các công việc sau :
Giúp đỡ khách hàng trong quá trình đến công ty giao dịch buôn bán hàng hoá.
Cộng tác, hỗ trợ các phòng ban khác trong các công việc hàng ngày.
Thiết lập lịch công tác thường nhật cho các nhân viên.
Hỗ trợ, tham mưu cùng giám đốc trong các vấn đề khác …
5. Lĩnh vực hoạt động hiện nay của BK4
Từ những đặc thù trên của BK4 ta dễ dàng nhận ra lĩnh vực mà công ty đang hoạt động cũng như mục tiêu và phương hướng trong tươnglai của BK4.
Công ty đang cố gắng dần tạo ra một thị trường trong các lĩnh vực :
Cung cấp các thiết bị máy vi tính, máy in, máy fax, máy photocopy, các thiết bị máy văn phòng với số lượng không hạn chế.
Sửa chữa, bảo dưỡng, nâng cấp các loại máy tính.
Cài đặt, cung cấp phần mềm máy vi tính, các giải pháp tổng thể về mạng.
Lập trình ứng dụng trong quản lý, kế toán…
6. Phương hướng hoạt động trong tương lai
Tiến hành mở rộng đầu tư, mua sắm các phương tiện, trang thiết bị cho các cơ sở của mình. Qua đó sẽ tạo được sự gắn kết chặt chẽ giữa trụ sở với các chi nhánh cũng như giữa các chi nhánh với nhau.
Thông qua sự gắn kết này các phần của công ty sẽ dễ dàng hỗ trợ cho nhau trong tất cả các lĩnh vực của mình.
Mở rộng các đại lý, chi nhánh trên phạm vi toàn quốc nhất là đối với khu vực phí Bắc. Các đại lý này sẽ tiến hành nhập hàng hoá tại trụ sở nhưng sẽ độc lập trong các giao dịch của mình. Qua mức hàng hoá nhập vào của mình các chi nhánh sẽ thu về phần lợi nhuận có được thông qua chênh lệch giữa giá mua và giá bán của hàng hoá.
Từng bước thiết lập một thị trường thống nhất trong lĩnh vực kinh doanh máy tính.
7. Sự cần thiết và những chức năng chính của phần mềm qlbh
Như đã phân tích ở trên, hoạt động chủ yếu của công ty BK4 là kinh doanh buôn bán hàng hoá, thiết bị máy vi tính. Vấn đề nghiên cứu xây dựng một hệ thống thông tin, quản lý lượng hàng hoá nhập xuất, các thiết bị máy vi tính là vô cùng quan trọng. Đối với công ty BK4 hiện nay, việc xây dựng ngay một phần mềm quản lý bán hàng, tin học hoá dần các thao tác trong giao dịch buôn bán là một trong những giải pháp công nghệ thông tin mang tính chiến lược. Phần mềm được xây dựng với mục đích đầu tiên là quản lý lượng hàng nhập xuất, giảm bớt các thao tác thủ công trong hoạt kinh doanh. Ngoài ra phần mềm còn cung cấp các thông tin về tình hình xuất nhập của các loại thiết bị, biến động của lượng hàng nhập xuất, tìm kiếm các thông tin trợ giúp, giải đáp ý kiến khách hàng cũng như người quản lý. Việc sử dụng phần mềm quản lý bán hàng sẽ tăng khả năng giao dịch của công ty với khách hàng, đối tác, giúp công ty giảm bớt được nhiều thao tác thủ công, dễ dàng trong quản lý nhập xuất, tìm kiếm thông tin, cập nhập thông tin về lượng hàng nhập xuất, lượng hàng tồn kho, nhà cung cấp và thời gian xử lý đơn đặt hàng góp phần nâng cao hiệu quả công tác sản xuất kinh doanh. Công việc của người quản lý là cập nhật thông tin các thiết bị, linh kiện, quản lý các đơn đặt hàng, góp ý của khách hàng quản lý hoạt động bán hàng một cách hiệu quả, bao gồm quản lý bán hàng, quản lý khách hàng, quản lý nhà cung cấp…
Đồng thời, phần mềm cũng có thể in ra các báo cáo kết quả của các hoạt động kinh doanh, các báo cáo về các thông tin cá nhân qua đó hỗ trợ cho việc ra quyết định quản lý của lãnh đạo công ty…
Các chức năng chính cần phải có của phần mềm
1. Hoá đơn nhập xuất hàng hoá:
Phần môdule này hàng hoá nhập xuất của công ty sẽ được tiến hành nhập số liệu. Công việc này có thể tiến hành ở phòng Maketing tại trụ sở của công ty cũng như tại các chi nhánh.
Tính tồn kho hàng hoá theo ngày nhập, theo tên hàng hoá theo tháng quý, năm :
Thông qua các thông tin tìm kiếm đựơc nhập vào phần môdule này sẽ tự động tra cứu trong cơ sở dữ liệu những thông tin phù hợp nhất cung cấp cho người sử dụng.
3. Tìm kiếm hàng theo: mã hàng, tên hàng, lượng nhập xuất …
Các thông tin này sau khi đựơc nhập vào sẽ được máy tính tự động tìm và phần dữ liệu phù hợp sẽ được đưa ra.
4. Cập nhật khách hàng.
Tại đây chúng ta có thể tiến hành nhập thêm một khách hàng mới cũng như có thể chỉnh sửa theo ý muốn.
Lên danh sách khách hàng.
Khi chúng ta muốn lên một danh sách khách hàng theo một tiêu chí nào đó thì phần môdule này sẽ giúp tạo ra một bảng danh sách khách hàng.
Lên danh sách nhân viên
Phần môdule này hỗ trợ việc tạo và in ra một bảng danh sách các nhân viên trong cả công ty.
Lập danh sách các loại hàng bán
Tại đây thì danh sách của các loại hàng bán sẽ được lập và in ra theo một tiêu chí nhất định
Tra cứu tìm kiếm khách hàng theo: mã khách, tên khách, địa chỉ, điện thoại.
In hóa đơn bán hàng, nhập hàng
Các hoá đơn được lập tại phần môdule nhập xuất hàng hoá sẽ được in ra từ phầ môdule này.
Lập hóa đơn thanh toán
Tra cứu tìm kiếm hoá đơn và xem hóa đơn
Từ các thông tin tra cứu được nhập vào, phần mềm này sẽ hỗ trợ người sử dụng để tìm kiếm được một thông tin phù hợp
Thống kê
Chương II
Một số vấn đề cơ bản về hệ thống thông tin
Tổng quan về hệ thống thông tin
Khái niệm về Hệ thống thông tin
Hệ thống thông tin là một tập hợp những con người, các thiết bị phần cứng, phần mềm, dữ liệu …thực hiện hoạt động thu thập, lưu trữ, xử lý và phân phối thông tin trong một tập các ràng buộc được gọi là môi trường.
Nó được thể hiện bởi những con người, các thủ tục, dữ liệu và thiết bị tin học hoặc không tin học. Đầu vào(Inputs) của hệ thống thông tin được lấy từ các nguồn(Sources) và được xử lý bởi hệ thống sử dụng nó cùng với các dữ liệu đã được lưu trữ từ trước. Kết quả xử lý (Outputs) được chuyển đến các đích (Destination) hoặc cập nhập vào kho dữ liệu(Storage).
Mọi hệ thống thông tin đều có bốn bộ phận : bộ phận đưa dữ liệu vào, bộ phận xử lý, kho dữ liệu và bộ phận đưa dữ liệu ra. Ta có thể thấy rõ hơn được vấn đề trên thông qua hình vẽ minh hoạ sau :
Nguồn
Thu thập
Kho dữ liệu
Xử lý và lưu giữ
Phân Phát
Đích
Ví dụ 1
Hệ thống trả lương truyền thống thu thập dữ liệu về thời gian đã làm việc, xử lý chúng cùng với các dữ liệu lâu bền được ghi trên các hồ sơ, tạo ra các tờ séc trả lương hoặc thực hiện việc gửi tiền tự động vào các tài khoản của nhân viên ăn lương và chuyển các thông tin về khoản tiền đó cho người được lĩnh. Vây đây là một hệ thống thông tin.
Hệ thống trả lương có thể được thực hiện một cách thủ công hoặc bằng phương tiện máy móc. Đó có thể là phương tiện chưa tự động hoá hoặc tự động hoá hoàn toàn như maý tính bỏ túi và máy chữ, hoặc có thể là một máy tính điện tử gắng với một số đĩa từ và máy in laser. Hệ thống thông tin này cũng chịu sự ràng buộc có thể là những thoả thuận giữa chủ và nhân viên, các thoả thuận về thời điểm trả lương cho từng nhóm công nhân.
Ví dụ 2
Việc ghi chép của ông chủ tịch một công ty về ứng xử của cộng sự gần gũi, về hiệu quả công tác của họ và mức độ tự chủ trong công việc. Việc sử dụng những ghi chép đó vào những thời điểm đề bạt, xét cho tham gia vào các công việc hoặc xét tăng lương… tạo ra một hệ thống thông tin. Trong trường hợp này ông chủ tịch vừa là người sử dụng thông tin vừa là người tạo ra thông tin. Phương tiện sử dụng chỉ đơn giản là một quyển sổ ghi chép cá nhân. Mặc dù vậy thì đây vẫn được coi là một hệ thống thông tin hội đầy đủ các tiêu chuẩn về hệ thống thông tin.
Qua hai ví dụ trên ta thấy có hai loại Hệ Thống Thông Tin khác nhau (1)Hệ thống chính thức, (2) Hệ thống không chính thức.
Một hệ thống thông tin chính thức thường bao gồm một tập hợp các quy tắc và các phương thức làm việc có văn bản rõ ràng hoặc ít ra là được thiết lập theo truyền thống . Đó là hệ thống trả lương nói trên hoặc hệ thống quản lý tài khoản các nhà cung cấp và tài khoản khách hàng, phân tích bán hàng và xây dựng kế hoạch ngân sách, hệ thống thường xuyên đánh giá khía cạnh tài chính của những cơ hội mua bán khác nhau cũng như những hệ thống chuyên gia cho phép đặt ra các chuẩn đoán tổ chức.
2. Phân loại hệ thống thông tin tại trong một tổ chức :
Có hai cách phân loại hệ thống thông tin hay được dùng trong các tổ chức. Một cách lấy mục đích phục vụ của thông tin đầu ra để phân loại và một cách lấy nghiệp vụ mà nó phục vụ làm cơ sở để phân loại.
2. 1 phân loại theo mục đích phục vụ của thông tin đầu ra :
Mặc dù rằng các hệ thống thường sử dụng các công nghệ khác nhau nhưng chúng phân biệt nhau trước hết bởi loại hoạt động mà nó trợ giúp. Theo cách này có năm loại :
Hệ thống thông tin xử lý giao dịch.
Hệ thống thông tin quản lý.
Hệ thống trợ giúp và ra quyết định.
Hệ chuyên gia .
Hệ thống tăng cường khả năng cạnh tranh.
a. Hệ thống xử lý giao dịch TPS(Transaction Processing System)
Hệ thống này xử lý các dữ liệu đến từ các giao dịch mà tỏ chức thực hiện với khách hàng, với nhà cung cấp, những người cho vay hoặc những nhân viên của nó. Các giao dịch sản sinh ra các tài liệu và các giấy tờ thể hiện các giao dịch đó . Các hệ thống xử lý giao dịch có nhiệm vụ tập hợp các dữ liệu cho phép theo dõi các hoạt đông của tổ chức . Chúng trợ giúp các hoạt động của tổ chức ở mức tác nghiệp. Có thể kể đến các hệ thống thuộc loại này như :Hệ thống trả lương, lập đơn đặt hàng, làm hoá đơn, theo dõi khách hàng, theo dõi nhà cung cấp, đăng kí môn học của sinh viên, cho mượn sách và tài liệu trong một thư viện, cập nhập tài khoản ngân hàng và tính thuế phải trả của những người nộp thuế.
b. hệ thống thông tin quản lý MIS(Managerment information System)
Là hệ thống trợ giúp các hoạt động quản lý của tổ chức, các hoạt động này nằm ở mức điều khiển tác nghiệp, điều khiển quản lý hoặc lập kế hoạch chiến lược. Chúng dựa chủ yếu vào các cơ sở dũ liệu được tạo ra bởi các hệ xử lý giao dịch cũng như từ các nguồn dữ liệu ngoài tổ chức. Nói chung chúng tạo ra các báo cáo cho các nhà quản lý một cách định kì hoặc theo yêu cầu. Các báo cáo này thường có tính chất so sánh, chúng làm tương phản tình hình hiện tại với một tình hình đã được dự kiến trước, tình hình hiện tại với một dự báo, các dữ liệu hiện thời của một công ty trong cùng một ngành công nghiệp, dữ liệu hiện thời và các dữ liệu lịch sử.
c. Hệ thống trợ giúp ra quyết định DSS(Decision Support System)
là hệ thống được thiết kế với mục đích rõ ràng là trợ giúp các hoạt động ra quyết định. Quá trình ra quyết định thường được mô tả như một quy trình được tạo thành từ 3 giai đoạn : xác định vấn đề, xây dựng và đánh giá các phương án giải quyết và lựa chọn một phương án .
d. Hệ thống chuyên gia ES(expert system)
đó là hệ thống cơ sở trí tuệ có nguồn gốc từ ngiên cứu trí tuệ nhân tạo, trong đó có sự biểu diễn bằng các công cụ tin học những tri thức của một chuyên gia về một lĩnh vực nào đó .
e. Hệ thống thông tin tăng cường khả năng cạnh tranh ISCA(information system for competitive advantage)
Hệ thống loại này được sử dụng như một trợ giúp chiến lược . Khi nghiên cứu một Hệ Thống Thông Tin mà không tính đến môi trường trong đó nó được phát triển, ta nghĩ rằng nó chỉ đơn giản là một hệ thống xử lý giao dịch, hệ thông thông tin quản lý, hệ thống trợ giúp ra quyết định hoặc một hệ chuyên gia .
Hệ thống thông tin tăng cương khả năng cạnh tranh được thiết kế cho những người sử dụng là những người ngoài tổ chức, có thể là một khách hàng, một nhà cung cấp, cũng có thể là tổ chức khác của ngành công nghiệp… Nêú như những hệ thống được xác định trước đây có mục đích rõ ràng là trợ giúp các hoạt động quản lý của tổ chức thì hệ thống tăng cường sức cạnh tranh là những công cụ thực hiện các ý đồ chiến lược(vì vậy có thể gọi là Hệ Thống Thông Tin chiến lược). Chúng cho phép tổ chúc thành công trong việc đối đầu với các lực lượng cạnh tranh thể hiện qua khách hàng, các nhà cung cấp, các doanh nghiệp cạnh tranh mới xuất hiện, các sản phẩm thay thế và các tổ chức khác trong cùng một ngành công nghiệp.
2. 2. Phân loại Hệ Thống Thông Tin tại công ty BK4
Các thông tin trong công ty BK4 được phân chia theo cấp quản lý, đồng thời chúng lại được chia theo nghiệp vụ mà chúng phục vụ. Để hiểu rõ thêm về cách phân chia này ta đi xem xét bảng phân loại các hệ thống thông tin ứng với doanh nghiệp BK4.
Bảng phân loại hệ thống thông tin theo lĩnh vực và mức ra quyết định tại công ty BK4:
Tài Chính chiến lược
Marketing chiến lược
Kinh doanh chiến lược
Tài chính chiến thuật
Marketing chiến thuật
Kinh doanh chiến thuật
Hệ thống thông tin văn phòng
Tài chính chiến tác nghiệp
Marketing tác nghiệp
Kinh doanh tác nghiệp
Mô hình biểu diễn hệ thống thông tin
Cùng một hệ thống thông tin có thể được mô tả khác nhau tuỳ theo quan điểm của người mô tả. Có ba mô hình đã được đề cập tới để mô tả cùng một hệ thống thông tin, đó là: mô hình logic, mô hình vật lý ngoài và mô hình vật lý trong.
3.1 Mô hình logic
Mô hình logic mô tả hệ thống làm gì: dữ liệu mà nó thu thập, xử lý mà nó phải thực hiện, các kho để chứa các kết quả hoặc dữ liệu để lấy ra cho các xử lý và những thông tin mà hệ thống sản sinh ra. Mô hình này trả lời cầu hỏi “Cái gì?” và “Để làm gì?”. Nó không quan tâm tới phương tiện được sử dụng cũng như địa điểm hoặc thời điểm mà dữ liệu được xử lý.
3.2 Mô hình vật lý ngoài
Mô hình vật lý ngoài chú ý tới những khía cạnh nhìn thấy được của hệ thống như là các vật mang dữ liệu và vật mang kết quả cũng như hình thức của đầu vào và của đầu ra, phương tiện để thao tác với hệ thống, những dịch vụ, bộ phận, con người và vị trí công tác trong hoạt động xử lý, các thủ tục thủ công cũng như những yếu tố về địa điểm thực hiện xử lý dữ liệu, loại màn hình hoặc bàn phím được sử dụng. Mô hình này cũng chú ý tới mặt thời gian của hệ thống, nghĩa là về những thời điểm mà các hoạt động xử lý dữ liệu khác nhau xảy ra. Nó trả lời câu hỏi: Cái gì? Ai? ở đâu? và Khi nào?
3.4 Mô hình vật lý trong
Mô hình vật lý trong liên quan tới những khía cạnh vật lý của hệ thống, tuy nhiên không phải là cái nhìn của người sử dụng mà là của nhân viên kỹ thuật. Chẳng hạn, đó là những thông tin liên quan tới loại trang thiết bị được dùng để thực hiện hệ thống, dung lượng kho lưu trữ và tốc độ xử lý của thiết bị, tổ chức vật lý của dữ liệu trong kho chứa, cấu trúc của các chương trình và ngôn ngữ thể hiện. Mô hình giải đáp câu hỏi: Như thế nào?
Mỗi mô hình là kết quả của một góc nhìn khác nhau, mô hình logic là kết quả của góc nhìn quản lý, mô hình vật lý ngoài là kết quả của góc nhìn sử dụng, và mô hình vật lý trong là kết quả của góc nhìn kỹ thuật. Ba mô hình trên có độ ổn định khác nhau, mô hình logic là ổn định nhất và mô hình vật lý trong là hay biến đổi nhất.
4. Công cụ mô hình hóa
Sơ đồ luồng thông tin và sơ đồ luồng dữ liệu là hai công cụ thường dùng nhất để phân tích và thiết kế hệ thống thông tin. Chúng thể hiện hai mức mô hình và hai góc nhìn động và tĩnh về hệ thống. Sau đây là các ký pháp của hai loại sơ đồ này.
Sơ đồ luồng thông tin (IFD)
Sơ đồ luồng thông tin được dùng để mô tả hệ thống thông tin theo cách thức động, tức là mô tả sự di chuyển của dữ liệu, việc xử lý, việc lưu trữ trong thế giới vật lý bằng các sơ đồ.
Các ký pháp của sơ đồ luồng thông tin:
Xử lý:
Kho lưu trữ dữ liệu
Dòng thông tin
Điều khiển
Lưu ý:
Dòng thông tin vào ra với kho dữ liệu không cần phải có mũi tên chỉ hướng.
Có thể dùng thêm một số ký tự khác như màn hình, đĩa từ.
Sơ đồ luồng dữ liệu (DFD)
Sơ đồ luồng dữ liệu dùng để mô tả cũng chính hệ thống thông tin như sơ đồ luồng thông tin nhưng ở trên góc độ trừu tượng. Trên sơ đồ chỉ bao gồm các luồng dữ liệu, các xử lý, các lưu trữ dữ liệu, nguồn và đích nhưng không hề quan tâm tới nơi chốn hay thời điểm và đối tượng chịu trách nhiệm xử lý. Sơ đồ luồng dữ liệu chỉ mô tả đơn thuần hệ thống thông tin làm gì và để làm gì.
Sau đây là các ký pháp dùng cho sơ đồ luồng dữ liệu (DFD), ngôn ngữ sơ đồ luồng dữ liệu DFD sử dụng 4 loại ký pháp cơ bản: thực thể, tiến trình, kho dữ liệu và dòng dữ liệu.
Các mức của DFD
Sơ đồ ngữ cảnh (Context Diagram) thể hiện rất khái quát nội dung chính của hệ thống thông tin. Sơ đồ này không đi vào chi tiết mà mô tả sao cho chỉ cần một lần nhìn là nhận ra nội dung chính của hệ thống. Để cho sơ đồ ngữ cảnh sáng sủa, dễ nhìn, có thể bỏ qua các kho dữ liệu; bỏ qua các xử lý cập nhật. Sơ đồ khung cảnh còn được gọi là sơ đồ mức 0.
Phân rã sơ đồ
Để mô tả hệ thống chi tiết hơn người ta dùng kỹ thuật phân rã (Explosion) sơ đồ. Bắt đầu từ sơ đồ khung cảnh, người ta phân rã ra thành sơ đồ mức 0, tiếp sau mức 0 là mức 1…
Một số qui ước và qui tắc liên quan tới DFD
Mỗi luồng dữ liệu phải có một tên, trừ luồng giữa xử lý và kho dữ liệu
Dữ liệu chứa trên 2 vật mang khác nhau nhưng luôn luôn đi cùng nhau thì có thể tạo ra chỉ một luồng duy nhất.
Xử lý luôn phải được đánh mã số.
Vẽ lại các kho dữ liệu để các luồng dữ liệu không cắt nhau.
Tên kho xử lý phải là một động từ.
Xử lý buộc phải thực hiện một biến đổi dữ liệu. Luồng vào phải khác với luồng ra từ một xử lý.
Đối với việc phân rã DFD, thông thường, một xử lý mà logic xử lý của nó được trình bày bằng ngôn ngữ có cấu trúc chỉ chiếm một trang giấy thì không phân rã tiếp.
Cố gắng chỉ để tối đa 7 xử lý trên một trang DFD.
Tất cả các xử lý trên một DFD phải thuộc cùng một mức phân rã.
Luồng vào của một DFD mức cao phải là luồng vào của một DFD con mức thấp nào đó. Luồng ra tới đích của một DFD con phải là luồng ra tới đích của một DFD mức lớn hon nào đó. Đây còn gọi là nguyên tắc cân đối (Balancing) của DFD.
Sơ đồ luồng thông tin và sơ đồ luồng dữ liệu là hai công cụ được phần lớn các phân tích viên sử dụng với mức độ khác nhau, cho bất kỳ qui mô dự án cũng như kích cỡ của tổ chức nào. Ngày nay, một số công cụ được tin học hóa, vì vậy có nhiều phần mềm cho phép xây dựng sơ đồ luồng dữ liệu của một hệ thống. Một số phần mềm tinh tế hơn cho khả năng tạo ra đồng thời cả sơ đồ luồng dữ liệu và từ điển hệ thống. Tuy nhiên, các công cụ chỉ giúp các nhà phân tích tạo nhanh hơn các sơ đồ hoặc mối liên quan giữa sơ đồ và các yếu tố trong từ điển, chứ nó không thực hiện thay công việc của nhà phân tích và việc phát hiện ra lỗi trên sơ đồ vẫn thuộc trách nhiệm của nhà phân tích.
Động
Tĩnh
Vật lý
IFD
(Information Flow Diagram)
Sơ đồ luồng thông tin
SD
(System Dictionary)
Từ điển hệ thống,
Các phích vật lý
Logic
DFD
(Data Flow Dagram)
Sơ đồ luồng dữ liệu
SD
(System Dictionary)
Từ điển hệ thống,
Các phích vật lý
Các công cụ phân tích và thiết kế hệ thống thông tin
II. Các giai đoạn để phân tích, thiết kế HTTT
Phát triển hệ thống là một quá trình lặp. Tuỳ theo kết quả của một giai đoạn, có thể (và đôi khi là cần thiết) phải quay về giai đoạn trước để tìm cách khắc phục những sai sót. Một số nhiệm vụ được thực hiện trong suốt quá trình, đó là việc lập kế hoạch cho giai đoạn tới, kiểm soát những nhiệm vụ đã hoàn thành, đánh giá dự án và lập tài liệu về hệ thống và về dự án. Sau đây mô tả sơ lược các giai đoạn của việc phát triển hệ thống thông tin:
Giai đoạn 1: Đánh giá yêu cầu
Lập kế hoạch đánh giá yêu cầu
Làm rõ yêu cầu
Đánh giá tính khả thi
Chuẩn bị và trình bày báo cáo đánh giá yêu cấu
Giai đoạn 2: Phân tích chi tiết
Lập kế hoạch phân tích chi tiết
Nghiên cứu môi trường của hệ thống thực tại
Nghiên cứu hệ thống thực tại
Chẩn đoán và xác định các yếu tố giải pháp
Đánh giá lại tính khả thi
Sửa đổi đề xuất của dự án
Chuẩn bị và trình bày báo cáo phân tích chi tiết
Giai đoạn 3: Thiết kế logic
3. 1. Thiết kế cơ sở dữ liệu
Thiết kế xử lý
Thiết kế các dòng vào
Hoàn chỉnh tài liệu logic
Hợp thức hoá mô hình logic
Giai đoạn 4: Đề xuất các phương án của giải pháp
Xác định các ràng buộc của tổ chức và tin học
Xây dựng các phương án của giải pháp
Đánh giá các phương án của giải pháp
Chuẩn bị và trình bày báo cáo về các phương án của giải pháp
Giai đoạn 5: Thiết kế vật lý ngoài
Lập kế hoạch thiết kế vật lý ngoài
Thiết kế chi tiết các giao diện vào/ra
Thiết kế phương thức giao tác với phần tin học hoá
Thiết kế các thủ tục thủ công
Chuẩn bị và trình bày báo cáo thiết kế vật lý ngoài
Giai đoạn 6: Triển khai kỹ thuật hệ thống
Lập kế hoạch thực hiện kỹ thuật
Thiết kế vật lý trong
Lập trình
Thử nghiệm kiểm tra
Chuẩn bị các tài liệu cho hệ thống
Giai đoạn 7: Cài đặt và khai thác
Lập kế hoạch cài đặt
Chuyển đổi
Khai thác và bảo trì
III. Tìm hiểu các công cụ để phân tích thiết kế một hệ thống thông tin
Khái niệm chung về cơ sở dữ liệu
Cơ sở dữ liệu (database) là nơi ta lưu giữ thông tin. Còn hơn thế, đó là nơi lưu thông tin được tổ chức nhằm một hay nhiều mục đích. Chúng ta tổ chức thông tin trong cơ sở dữ liệu theo cách thức cho phép chương trình và trình ứng dụng có thể cung cấp tính năng hữu ích cho người dùng trực tiếp.
Lý do phải dùng cơ sở dữ liệu
Có vô số trình ứng dụng lưu giữ và truy xuất lượng thông tin lớn. Tất nhiên, chương trình VB không nhất thiết phải tham dự vào hoạt động tương tác với cơ sở dữ liệu mới chứng tỏ được công dụng, nhưng những trình ứng dụng vận hành với cơ sở dữ liệu lại cung cấp không ít sức mạnh và tính năng. Đó là bởi cơ sở dữ liệu cho phép chúng ta đọc, nhập, lưu những lượng thông tin có thể truy xuất hoặc thay đổi thêm. Thông tin này có công dụng đa dạng: hiển thị, thao tác, báo cáo, phân tích, thậm chí tạo hoá đơn, đặt hàng…
Điều cốt yếu là mỗi khi có một lượng thông tin đáng kể cần tổ chức và cất giữ, cơ sở dữ liệu luôn là giải pháp tối ưu. Có nhiều tình huống đòi hỏi vận dụng giải pháp VB/CSDL, ví dụ:
Tạo trình ứng dụng mới từ đầu
Kết nối với CSDL chung có sẵn
Tương tác giữa CSDL và Website giao dịch (mua bán hàng) trực tiếp qua Internet
Vị trí và chức năng của CSDL cũng khác nhau:
CSDL đang làm việc nằm chung máy với chương trình – chúng ta muốn tạo hệ thống lập danh mục đĩa CD tại nhà chẳng hạn
CSDL có thể thường trú trên máy phục vụ ở đâu đó và cho phép truy cập qua mạng cục bộ – kho thông tin được chia sẻ cho nhiều người trog công ty chẳng hạn
ở một số tổ chức quốc tế, CSDL có thể tồn tại trên máy phục vụ Web ở đầu kia trái đất, cách xa nhau hàng mấy múi giờ, đáp ứng nhu cầu của những người dùng kết nối với Internet trên khắp thế giới.
Cơ sở dữ liệu một chiều và cơ sở dữ liệu quan hệ
CSDL một chiều là một trong những phương pháp lưu trữ dữ liệu trên phương tiện điện tử lâu đời hơn cả. Với CSDL một chiều, đau đầu nhất là cập nhật những tập tin chứa tham chiếu đến vị trí cụ thể trong CSDL. Đầu tiên, quản lý tất cả tham chiếu chéo ở mọi cấu trúc khác nhau trong CSDL một chiều đã đủ khiến cho người
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC898.doc