Đánh giá hiện trạng sản xuất và so sánh hiệu quả kinh tế các mô hình luân canh màu trên nền đất lúa tại huyện châu thành tỉnh Đồng Tháp

MỤC LỤC

Trang phụ bìa . i

Lời cam đoan . .ii

Lý lịch khoa học. .v

Lời cảm tạ . .vi

Tóm lược. .vii

ABSTRACT . .viii

Mục lục . .ix

Danh sách bảng . xii

Danh sách hình.xiii

Danh sách các chữ viết tắt . xiv

CHƯƠNG 1 1

MỞ ĐẦU .1

1.1 Đặt vấn đề.1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu.2

1.2.1 Mục tiêu tổng quát.2

1.2.2 Mục tiêu cụ thể .2

1.3 Câu hỏi nghiên cứu .2

1.4 Phạm vi nghiên cứu và giới hạn của đề tài.3

CHƯƠNG 2 .4

LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU.4

2.1 Tình hình sản xuất hoa màu ở Đồng bằng sông Cửu Long .4

2.1.1 Vị trí của việc sản xuất hoa màu trong sản xuất nông nghiệp ở Đồng bằng

sông Cửu Long.4

2.1.2 Hiện trạng sản xuất hoa màu.4

2.1.3 Những thuận lợi và khó khăn.6

2.2 Tình hình sản xuất hoa màu tỉnh Đồng Tháp .6

2.2.1 Hiện trạng sản xuất hoa màu của tỉnh Đồng Tháp .6

2.2.2 Định hướng phát triển hoa màu tỉnh Đồng Tháp .7

2.2.3 Những thuận lợi và khó khăn.8

2.3 Tổng quan và tình hình sản xuất hoa màu huyện Châu Thành .8

2.3.1 Tổng quan huyện Châu Thành .8

2.3.1.1 Vị trí địa lý, địa hình .8

2.3.1.2 Khí hậu . 10

2.3.1.3 Chế độ thuỷ văn. 11

2.1.1.4 Đặc điểm địa chất và đất đai. 11

2.3.2 Hiện trạng sản xuất hoa màu. 13

2.3.3 Định hướng phát triển hoa màu huyện Châu Thành . 16

2.3.4 Những thuận lợi và khó khăn. 17

2.4 Các nghiên cứu về lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường canh tác trong

việc luân canh hoa màu.17

2.5 Kỹ thuật canh tác các cây màu nghiên cứu.21

2.5.1 Kỹ thuật canh tác đậu nành. 21

2.5.2 Kỹ thuật trồng sen. 22

2.5.3 Kỹ thuật trồng dưa hấu . 23

2.5.4 Kỹ thuật canh tác khoai lang. 25

2.5.5 Kỹ thuật trồng Ấu. 28

CHƯƠNG 3 . 30

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 30

3.1 Phương pháp tiếp cận. 30

3.2 Địa bàn nghiên cứu . 31

3.3 Phương pháp thu thập số liệu .31

3.3.1 Nguồn số liệu. 31

3.3.2 Tổ chức thực hiện . 31

3.3.3 Phương pháp thu thập thông tin . 31

3.4 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu điều tra nông hộ.34

3.4.1 Phân tích thống kê . 34

3.4.2 Phân tích hiệu quả kinh tế. 34

3.4.3 Phương pháp phân tích hồi qui tương quan (thực hiện cho mục tiêu 2) . 35

CHƯƠNG 4 . 36

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN. 36

4.1 Tình hình tổng quát .36

4.1.1 Đánh giá những khó khăn/cản trở và cơ hội trong việc luân canh màu trên

nền đất lúa . 36

4.1.2 Đặc điểm của nông hộ . 37

4.1.2.1 Thông tin về chủ hộ . 37

4.1.2.2 Thông tin về nông hộ. 45

4.1.2.3 Điều kiện đất đai . 54

4.2 Cơ cấu mùa vụ của các mô hình phổ biến .56

4.3 Kỹ thuật canh tác.61

4.3.1 Tình hình sản xuất lúa. 61

4.3.1.1 Giống lúa . 61

4.3.1.2 Lượng giống lúa gieo sạ. 62

4.3.1.3 Lao động sản xuất lúa . 63

4.3.1.4 Phân bón. 64

4.3.1.5 Thuốc Bảo vệ thực vật . 66

4.3.1.6 Chi phí và lợi tức sản xuất lúa/ha. 66

4.3.2 Tình hình sản xuất màu. 67

4.3.2.1 Giống màu . 67

4.3.2.2 Lao động sản xuất màu . 68

4.3.2.3 Phân bón. 69

4.3.2.4 Thuốc Bảo vệ thực vật . 70

4.3.2.5 Chi phí và lợi tức sản xuất màu/ha . 70

4.4 Phân tích và so sánh các chỉ tiêu kinh tế của các mô hình canh tác .73

4.4.1 Đánh giá hiệu quả kinh tế các mô hình canh tác phổ biến qui mô nông hộ 73

4.4.2 Đánh giá hiệu quả kinh tế theo vùng . 74

4.4.3 Đánh giá hiệu quả kinh tế các mô hình canh tác phổ biến theo qui mô diện

tích/ha . 76

4.5 Tương quan giữa các yếu tố đầu vào và thu nhập.80

CHƯƠNG 5 . 83

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ . 83

5.1 Kết luận.83

5.2 Đề nghị.83

TÀI LIỆU THAM KHẢO. 84

PHỤ CHƯƠNG . 89

pdf127 trang | Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 4423 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đánh giá hiện trạng sản xuất và so sánh hiệu quả kinh tế các mô hình luân canh màu trên nền đất lúa tại huyện châu thành tỉnh Đồng Tháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ TRẦN VĂN NHÃN ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT VÀ SO SÁNH HIỆU QUẢ KINH TẾ CÁC MÔ HÌNH LUÂN CANH MÀU TRÊN NỀN ĐẤT LÚA TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH ĐỒNG THÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CẦN THƠ - 2009 Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ TRẦN VĂN NHÃN ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT VÀ SO SÁNH HIỆU QUẢ KINH TẾ CÁC MÔ HÌNH LUÂN CANH MÀU TRÊN NỀN ĐẤT LÚA TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH ĐỒNG THÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CẦN THƠ – 2009 Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu ii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn này là trung thực. Tác gi ả luận văn Trần Văn Nhãn Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu iii Đề tài: “ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT VÀ SO SÁNH HIỆU QUẢ KINH TẾ CÁC MÔ HÌNH LUÂN CANH MÀU TRÊN NỀN ĐẤT LÚA TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH ĐỒNG THÁP”. Luận văn Thạc sĩ Phát triển Nông thôn do TRẦN VĂN NHÃN thực hiện và đề nạp. Ý kiến của người hướng dẫn khoa học Đồng ý bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn Thạc sĩ khoa học Ts. Nguyễn Ngọc Đệ Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu iv CHẤP NHẬN LUẬN VĂN THẠC SĨ CỦA HỘI ĐỒNG Luận văn thạc sĩ với đề tài “ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT VÀ SO SÁNH HIỆU QUẢ KINH TẾ CÁC MÔ HÌNH LUÂN CANH MÀU TRÊN NỀN ĐẤT LÚA TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH ĐỒNG THÁP” do học viên TRẦN VĂN NHÃN thực hiện và báo cáo đã được hội đồng chấm luận văn thông qua. Ủy viên thư ký Ủy viên (Ký tên) (Ký tên) TS. Nguyễn Văn Hồng TS. Nguyễn Ngọc Đệ Phản biện 1 Phản biện 2 (Ký tên) (Ký tên) PGS.TS. Dương Ngọc Thành TS. Nguyễn Công Thành Cần Thơ, ngày 23 tháng 10 năm 2009 Chủ tịch hội đồng (Ký tên) PGS.TS. Nguyễn Duy Cần Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu v LÝ LỊCH KHOA HỌC 1. SƠ LƯỢC LÝ LỊCH - Họ và tên: TRẦN VĂN NHÃN - Ngày sinh: 00/00/1974 - Nơi sinh: xã Tân Phú, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp. - Quê quán: xã Tân Phú, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp. - Dân tộc: Kinh. - Đơn vị công tác: Chi cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản Đồng Tháp. - Điện thoại: 0945. 166 757 2. QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO - Tốt nghiệp Phổ thông Trung học năm 1992 tại Trường Phổ Thông Trung Học Thanh Bình 1, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp. - Tốt nghiệp Kỹ sư Trồng trọt năm 1999, hệ chính quy tại Trường Đại Học Cần Thơ. 3. QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC - Từ tháng 6/1999 đến tháng 2/2009: công tác tại Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Đồng Tháp. - Từ tháng 3/2009 đến nay: công tác tại Chi cục Quản lý chất lượng Nông lân sản và Thủy sản tỉnh Đồng Tháp. Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu vi LỜI CẢM TẠ Đề tài tốt nghiệp là kết quả của nhiều năm học tập tiếp thu kiến thức trong nhà trường, Trong quá trình thực hiện đề tài Tôi được sự giúp đỡ tận tình của Quý Thầy Cô, các bạn hữu, và các Anh Chị em của cơ quan. Chân thành biết ơn, - Ts. Nguyễn Ngọc Đệ đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ, hỗ trợ Tôi trong suốt thời gian thực hiện và hoàn thành luận văn này. - Ths. Ngô Thành Trí Bộ môn Bảo vệ thực vật, Khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng, Trường Đại học Cần Thơ đã tận tình giúp đỡ Tôi trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp. - Các anh chị Phòng Nông nghiệp huyện Châu Thành, Trạm khuyến nông huyện Châu Thành và Trạm Bảo vệ thực vật huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp đã cung cấp thông tin chính xác và nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện tốt cho Tôi thực hiện tốt số liệu của luận văn. - Quý Thầy Cô Viện Nghiên cứu Phát triển Đồng bằng Sông Cửu Long-Trường Đại học Cần Thơ đã truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm bổ ích cho Tôi trong suốt khóa học. - Các anh chị, em Chi cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản đã hỗ trợ, tạo điều kiện tốt cho Tôi hoàn thành luận văn này. - Đặc biệt là sự chia sẽ những buồn vui, khó khăn của gia đình và của vợ Nguyễn Thị Xuân Mai trong suốt thời gian học xa nhà và hoàn thành luận văn này. Thân gởi về, Các Anh Chị và các bạn cùng lớp cao học Phát triển nông thôn Khóa 13 lời chúc sức khoẻ, hạnh phúc và thành đạt. Xin nhận lời cảm ơn sâu sắc nhất Trần Văn Nhãn . Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu vii TRẦN VĂN NHÃN (2009), “ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT VÀ SO SÁNH HIỆU QUẢ KINH TẾ CÁC MÔ HÌNH LUÂN CANH MÀU TRÊN NỀN ĐẤT LÚA TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH ĐỒNG THÁP”. Luận Văn Thạc sĩ Phát triển nông thôn, Viện nghiên cứu phát triển Đồng bằng sông Cửu Long, Trường Đại Học Cần Thơ, 88 trang. Người hướng dẫn khoa học. Tiến sĩ. NGUYỄN NGỌC ĐỆ. TÓM LƯỢC Ở Đồng bằng sông Cửu Long, lúa là nguồn thu nhập chính của người nông dân. Tuy nhiên các mô hình độc canh cây lúa dần dần được thay thế bằng những mô hình luân canh lúa màu đặc biệt là huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Bảy mô hình luân canh trên đất lúa như 3 lúa, 2 lúa, 2 lúa-khoai lang, 2 lúa-đậu nành, ấu-lúa, lúa-dưa hấu- khoai lang, chuyên sen được khảo sát tại huyện Châu Thành thuộc tỉnh Đồng Tháp nhằm so sánh hiệu quả kinh tế của các mô hình canh tác màu trên nền đất lúa phù hợp trong sản xuất. Kết quả khảo sát cho thấy năm mô hình có hiệu quả kinh tế tốt tại huyện Châu Thành là mô hình 2 lúa- khoai lang, lúa-dưa hấu-khoai lang, chuyên sen, ấu-lúa và 2 lúa. Trong đó, có hai mô hình cho hiệu quả rất cao trên nền đất lúa của huyện Châu Thành là mô hình 2 lúa-khoai lang và mô hình lúa-dưa hấu-khoai lang. Mô hình chuyên sen cũng cho hiệu quả tốt trên vùng đất trũng. Các mô hình lúa-ấu và mô hình 2 lúa vẫn cho hiệu quả kinh tế tốt tương đương nhau và có thể bố trí thích hợp tùy vào vùng đất canh tác. Kết quả cũng chỉ ra mô hình 3 lúa và mô hình 2 lúa-đậu nành có hiệu quả thấp nên không thể duy trì sản xuất tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Qua đây, có thể chuyển đổi dần từ mô 3 lúa hoặc mô hình 2 lúa-đậu nành sang các mô hình có hiệu quả tốt tùy vùng đất canh tác. Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu viii TRAN VAN NHAN (2009), “EVALUATION THE PRODUCTION STATUS AND COMPARISON THE ECONOMIC EFFICIENCY OF INTERCROPPING SYSTEMS ON RICE LAND AT CHAU THANH DISTRICT, DONG THAP PROVINCE”. Thesis for Master degree of Science in Rural Development, Mekong Delta Development Researh Institute, Can Tho University, 88 pages. Supervisors: Dr. NGUYEN NGOC DE. ABSTRACT Rice production is main income of farmers In Mekong delta. However, rice monoculture system has been gradually replaced by intercropping systems between rice and other crops especially in Chau Thanh district, Dong Thap province. Seven intercropping system on rice land such as three rice crops, two rice crops, two rice- sweet potatoes, two rice-soybean, water caltrop-rice, rice-watermelon-sweet potatoes, lotus monoculture were surveyed at Chau Thanh district, Dong Thap province for comparing the economic efficiency of these cropping systems on rice land. The results showed that: five cropping systems giving high economic efficiency at Chau Thanh district were two rice-sweet potatoes, rice-watermelon-sweet potatoes, lotus monoculture, water caltrop-rice and two rice. In these systems, two cropping systems giving highest economic efficiency on rice land were two rice-sweet potatoes and rice-watermelon-sweet potatoes. Lotus monoculture is also giving high economic efficiency on lower land. Rice-water caltrop and two rice had equal economic efficiency and were recommended to grow in specific areas with suitable soil conditions. Three rice crops and two rice crops-soybean had low economic efficiency, therefore these systems should not be applied in Chau Thanh district, Dong Thap province. From these results, we suggest that farmers in Chau Thanh district should replace three rice crops and two rice crops-soybean systems by other cropping systems with higher profit. Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu ix Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 1 CHƯƠNG 1 MỞ ĐẦU 1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng sản xuất lúa lớn nhất cả nước. Ước tính có khoảng trên 1,89 triệu ha đang được trồng lúa, chiếm khoảng 46% diện tích cả nước (Bộ Nông nghiệp & PTNT, 2009). ĐBSCL không những sản xuất lúa gạo cung cấp cho cả nước mà còn xuất khẩu để thu ngoại tệ góp phần phát triển kinh tế cho khu vực. Năm 1998 Việt Nam trở thành nước xuất khẩu lúa gạo lớn nhất xếp thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan (Nguyễn Duy Cần, 2003). Từ năm 2000 Chính phủ có chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn đã có tác động rất lớn đến sản xuất nông nghiệp ĐBSCL. Nhiều địa phương cố gắng thực hiện chủ trương của Chính phủ, từng bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với sinh thái vùng và đáp ứng yêu cầu của thị trường (Nguyễn Duy Cần, 2003). Các mô hình canh tác độc canh cây lúa dần dần được thay thế bằng những mô hình luân canh lúa màu. Kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy mô hình luân canh cây lúa- đậu nành sau 3 năm làm tăng hàm lượng đạm, lân và được khuyến cáo áp dụng ở huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, qua đó giúp tăng hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững của vùng sản xuất nông nghiệp (Nguyễn Văn Quang và Lê Thanh Phong, 2007). Sự thay đổi từ mô hình canh tác lúa độc canh chuyển sang mô hình luân canh lúa màu sẽ làm gia tăng năng suất lúa. Kết quả nghiên cứu tại huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang trong vụ Thu Đông 2005 cho thấy năng suất lúa ở mô hình chuyên canh lúa chỉ đạt 3,3 tấn/ha, trong khi đó mô hình luân canh lúa-bắp-lúa thì năng suất lúa đạt 4,1 tấn/ha, mô hình lúa-đậu xanh-lúa đạt 4,5 tấn/ha. Tương tự kết quả nghiên cứu ở huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh cho thấy vụ Đông Xuân 2006, mô hình thâm canh 3 vụ lúa chỉ đạt 2,9 tấn/ha, trong khi đó mô hình luân canh lúa-bắp-lúa giúp gia tăng năng suất lúa đạt 4,3 tấn/ha, mô hình lúa-đậu xanh-lúa, năng suất lúa đạt 3,2 tấn/ha ( name=News&sid=94). Mặt khác, sự thay đổi mô hình độc canh lúa sang mô hình luân canh lúa màu cũng làm ngăn chặn được dịch bệnh xãy ra trên cây lúa, từ đó làm giảm chi phí đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế hơn. Trong những năm gần đây cùng với việc thâm canh tăng vụ và sản xuất những giống lúa chất luợng cao, dịch bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá đã gây ra thiệt hại rất nghiêm trọng cho người sản xuất lúa. Từ năm 2005-2006 đến nay hầu như vụ nào các tỉnh ĐBSCL đều bị bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá (Phạm Văn Kim, 2006). Theo Nguyễn Văn Hòa (2006), vụ lúa Hè Thu 2006 và lúa Đông Xuân 2006-2007 bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá gây hại cây lúa trở thành đại dịch lan ra khắp 12 tỉnh ĐBSCL và dịch bệnh này đã gây thiệt hại hàng nghìn ha (Nguyễn Thơ, 2007). Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 2 Theo báo cáo tổng kết phát triển kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành 2007 cho thấy, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp có diện tích trồng lúa 32.467 ha, giảm 2.214 ha so với năm 2006, diện tích hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày cả năm là 3.091 ha, tăng hơn 944 ha so với năm 2006. Theo kế hoạch sản xuất nông nghiệp nông thôn huyện Châu Thành năm 2008, diện tích cây hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày là 3.500 ha, tăng 500 ha so với năm 2007, ngược lại diện tích lúa gieo trồng cả năm là 29.000 ha, giảm 3.466 ha so với năm 2007. Đây cũng là một huyện năm 2007 có diện tích lúa bị bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá khoảng 619,8 ha tính cả 3 vụ. Cho nên theo kế hoạch sản xuất nông nghiệp huyện Châu Thành 2008, các nơi có mô hình chuyên canh lúa phải được chuyển sang mô hình luân canh lúa màu (Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện Châu Thành, 2007), tuy nhiên hiện nay các loại mô hình trồng màu trên nền đất lúa cũng chưa được quy hoạch từng vùng thích hợp và chưa có cơ sở khẳng định loại cây màu nào thích hợp mang lại hiệu quả kinh tế cao. Các hộ nông dân chuyên trồng lúa muốn chuyển sang mô hình luân canh lúa màu hoặc chuyên màu còn mang tính tự phát hoặc trồng rải rác chưa chọn được mô hình nào phù hợp mang lại hiệu quả kinh tế cao trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Từ đó đề tài “Đánh giá hiện trạng sản xuất và so sánh hiệu quả kinh tế việc trồng màu trên nền đất lúa tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp” được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả kinh tế các loại mô hình trồng màu trên nền đất lúa thích hợp mang lại hiệu quả kinh tế cao, thông qua đó giúp định hướng cho phòng nông nghiệp cũng như nông dân chọn lựa mô ình trồng màu trên nền đất lúa thích hợp đạt hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp cho huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. 1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1.2.1 Mục tiêu tổng quát So sánh hiệu quả kinh tế của việc sản xuất màu trên đất lúa nhằm định hướng mô hình canh tác màu thích hợp, giúp nâng cao giá trị sản xuất và lợi nhuận trong việc trồng màu trên nền đất lúa tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể - Mục tiêu 1: Đánh giá hiện trạng sản xuất màu. - Mục tiêu 2: Xác định và so sánh hiệu quả kinh tế các mô hình canh tác màu trên nền đất lúa. - Mục tiêu 3: Đề xuất mô hình sản xuất màu thích hợp trên nền đất lúa tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. 1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU - Hiện trạng sản xuất của các mô hình canh tác cây màu trên nền đất lúa tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp như thế nào? Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 3 - Hiệu quả kinh tế các mô hình trồng màu trên nền đất lúa ra sao? - Trong số các mô hình canh tác màu trên đất lúa, mô hình canh tác nào có hiệu quả? 1.4 PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI - Địa bàn: thực hiện ở các xã Tân Nhuận Đông; Phú Hựu; Phú Long; An Khánh và Hòa Tân có diện tích luân canh màu trên đất lúa lớn thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. - Loại màu: tập trung trên 5 loại cây màu chính luân canh trên đất lúa như dưa hấu; khoai lang; đậu nành; ấu và sen có khả năng phát triển ở vùng nghiên cứu. Đây là 5 loại cây màu được trồng phổ biến trong huyện. Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 4 CHƯƠNG 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2.1 TÌNH HÌNH SẢN XUẤT HOA MÀU Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 2.1.1 Vị trí của việc sản xuất hoa màu trong sản xuất nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vựa lúa lớn nhất cả nước, hàng năm xuất khẩu đem lại nguồn ngoại tệ không nhỏ cho đất nước. Tuy nhiên, còn một thế mạnh mà nước ta chưa phát huy hết tiềm lực đó là ngành sản xuất hoa màu. Một số loại hoa màu như đậu nành, bắp, khoai lang, sen, ấu … là các loại hoa màu chủ yếu và thích hợp với điều kiện tự nhiên cũng như đất đai ở ĐBSCL. Ngoài ra, trồng hoa màu luân canh với lúa cũng là một trong những yếu tố quan trọng để góp phần xây dựng một nền nông nghiệp bền vững (Viện rau hoa quả Việt Nam, 2009). Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích trên 70.000 ha rau màu, với sản lượng khoảng 1 triệu tấn, chiếm gần 18% sản lượng rau màu trên cả nước. Hàng ngày, toàn vùng ĐBSCL tiêu thụ bình quân gần 3.000 tấn rau, màu các loại. Phát triển diện tích rau màu trong tương lai là tất yếu, đáp ứng đúng chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp-nông thôn vùng ĐBSCL (Viện rau hoa quả Việt Nam, 2009). 2.1.2 Hiện trạng sản xuất hoa màu Theo Nguyễn Bảo Vệ (2003), một số loại hoa màu như đậu nành, bắp… chưa được cung cấp đủ theo yêu cầu. Thực trạng hiện nay là các loại cây trồng cạn cũng chỉ được phát triển ở dạng trồng luân canh với lúa. ĐBSCL chưa thật sự có vùng quy hoạch riêng để phát triển các loại cây màu trồng cạn. Do chưa có chính sách tạo vùng nguyên liệu cho cây trồng cạn nên nông dân trồng một cách tự phát, rải rác... dẫn đến diện tích không cao, có thể sẽ gặp những khó khăn trong thu gom sản phẩm và tìm thị trường tiêu thụ (Nguyễn Bảo Vệ, 2003). Những năm gần đây, trung bình mỗi năm nước ta nhập khẩu từ 300-600 ngàn tấn bắp. Còn đậu nành thì sản xuất cũng chỉ đáp ứng được 25-30% nhu cầu (Nguyễn Bảo Vệ, 2003). Cũng theo Nguyễn Bảo Vệ (2003) cho biết số liệu của Cục Chăn nuôi, năm 2006 nước ta đã nhập 1,5 triệu tấn khô dầu đậu tương, quy ra thành 2 triệu tấn đậu tương hạt để chế biến 6,6 triệu tấn thức ăn chăn nuôi. Nhiều công ty phải nhập nguyên liệu bắp và đậu nành từ nước ngoài để chế biến. Theo Nguyễn Bảo Vệ (2003) thì FAO (2001) đã dự đoán đến năm 2010 ngành chăn nuôi nước ta cần trên 16 triệu tấn thức ăn gia súc nên nhu cầu bắp và đậu nành là rất lớn. Để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu của ngành chế biến này, Bộ Nông Nghiệp và Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 5 Phát Triển Nông Thôn dự kiến đến năm 2005 cả nước phải có khoảng 1 triệu ha bắp (ĐBSCL khoảng 150.000 ha) và khoảng nửa triệu ha đậu nành. Tính đến năm 2000 thì diện tích bắp của cả nước có 714 ngàn ha với sản lượng là 1,93 triệu tấn. Còn đậu nành mới chỉ có 122.000 ha và sản lượng chỉ có 145.000 tấn. Trong thời gian qua, mặt dù ngành nông nghiệp của Việt Nam đã có nhiều cố gắng để gia tăng năng suất bắp và đậu nành, tuy nhiên năng suất bắp và đậu nành vẫn còn thấp so với bình quân của các nước trong khu vực và thế giới nên giá thành sản phẩm còn cao. Năng suất bắp của cả nước bình quân là 2,7 tấn /ha, trong khi năng suất bình quân của khu vực Châu Á-Thái Bình Dương là 3,6 tấn/ha, còn bình quân của thế giới là 4,2 tấn/ha (Nguyễn Bảo Vệ, 2003). Qua đây cho thấy việc sản xuất bắp và đậu nành của nước ta còn thấp, chi phí sản xuất còn khá cao, nên hiệu quả kinh tế chưa được hấp dẫn cho người nông dân chuyển đổi cơ cấu canh tác độc canh cây lúa sang mô hình luân canh với cây trồng khác. Nếu xét về khía cạnh môi trường thì cần thiết phải luân canh màu trên nền đất lúa. Có lẽ do điều kiện trồng lúa liên tục nhiều vụ trong năm đã làm đất bị ngập nước hầu như quanh năm, về lâu dài có thể bị ảnh hưởng đến môi trường đất và sâu bệnh nhiều hơn, do đó có thể phải chuyển đổi mô hình chuyên canh cây lúa sang mô hình luân canh lúa- màu (Nguyễn Bảo Vệ, 2003). Bên cạnh đó, ĐBSCL là vùng chịu ảnh hưởng của mùa lũ hàng năm, ngoài việc phải sống chung với lũ, người dân đã biết tận dụng và khai thác tốt tiềm năng của lũ để phát triển các mô hình sản xuất như trồng các loại cây thủy sinh, nuôi thủy sản kết hợp, trồng rau màu…Trong các loại cây trồng thủy sinh cho thấy cây sen có thể là loại cây trồng không những có giá trị về mặt kinh tế mà còn có nhiều hữu dụng đối với đời sống con người (Nguyễn Quốc Huy, 2005). Hơn nữa, cây sen là loại cây trồng thích nghi với vùng đất trũng và vùng ngập lũ hàng năm của ĐBSCL và cũng là loại cây giúp người dân xóa đói giảm nghèo, tạo thêm việc làm và giảm bớt thời gian nông nhàn trong mùa lũ (Nguyễn Quốc Huy, 2005). Thêm vào đó, cây ấu cũng là loại cây trồng thủy sinh mang lại nhiều lợi ích cho người dân khi được trồng trên nền đất lúa. Hiệu quả kinh tế mô hình luân canh lúa-ấu cao hơn nhiều lần so với mô hình trồng lúa 3 vụ liên tục (Nguyễn Phước Tuyên, 2008). Năm 1996, các công ty Đài Loan đã mang giống ấu của họ sang phổ biến cho nông dân và tổ chức thu mua. Giống ấu Đài Loan đã nhanh chóng phát triển trên chân đất ruộng thành hệ thống canh tác lúa Đông Xuân-ấu Hè Thu và trở thành cây sống chung với lũ (Nguyễn Phước Tuyên, 2008). Mặt khác, trong các loại cây trồng luân canh ở ĐBSCL cho thấy cây khoai lang cũng đóng vai trò quan trọng trong những năm gần đây. Theo đài truyền hình Vĩnh Long (2009) cho biết từ số liệu của tổng cục thống kê (2006), diện tích khoai lang của ĐBSCL là 13,4 nghìn ha (cả nước là 181,2 nghìn ha), đạt sản lượng 271,5 nghìn tấn (so với cả nước là 1.456,7 nghìn tấn). Nhờ chuyển đổi cây trồng theo hướng lúa-khoai mà nhiều địa phương trong huyện đã phá được thế độc canh cây lúa, tạo điều kiện để Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 6 hình thành nền sản xuất nông nghiệp bền vững, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Từ đó không chỉ giúp nâng cao thu nhập cho nông hộ, mà còn góp phần làm tăng giá trị thu hoạch trên một đơn vị diện tích đất sản xuất của nông dân. Song song với các loại cây màu, cây dưa hấu cũng đem lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân. Đây là mô hình luân canh được áp dụng rộng rãi nhất so với các loại cây trồng màu khác. Lợi nhuận từ việc trồng luân canh của cây dưa hấu rất hấp dẫn, nhất là vào dịp tết nguyên đán (Phạm Văn Nghi, 2003). 2.1.3 Những thuận lợi và khó khăn Theo Trương Trọng Ngôn (2003), khi chuyển dịch từ mô hình chuyên canh lúa sang mô hình luân canh lúa với màu (như bắp, đậu nành, đậu xanh, mè…) người nông dân luôn phải đối mặt với những thuận lợi và khó khăn sau: -Về thuận lợi: Điều kiện tự nhiên thích hợp cây màu sinh trưởng và phát triển; trình độ tiếp thu khoa học kỹ thuật của nông dân nhạy bén; người dân sử dụng đất đai năng động; cải tạo và nâng cao độ phì của đất; giúp bảo vệ môi trường được tốt do giảm lượng phân và thuốc xịt; nguồn thu nhập đa dạng. Còn theo Hứa Thị Thía (2006) việc luân canh lúa với màu cũng gặp thuận lợi nhờ thiên nhiên ưu đãi nước ngọt quanh năm cộng với hệ thống thủy lợi hoàn chỉnh luôn bảo đảm đủ nước trong mùa hạn và không để xảy ra ngập úng khi lũ về. - Về khó khăn: Nhu cầu giống cho đầu vụ thường không đáp ứng đủ; phẩm chất hạt giống thường không đảm bảo; việc làm cỏ không kịp thời và thích hợp; không có giống kháng với sâu bệnh chính; không có những giống chống chịu với điều kiện khắc nghiệt của môi trường (Trương Trọng Ngôn, 2003). Theo Quang Minh Nhựt (2005), khi trồng màu đòi hỏi công đầu tư lao động cao, do sản xuất nhỏ, lao động thủ công; thiếu kiến thức phù hợp trong chuyển đổi từ sản xuất lúa độc canh sang mô hình luân canh lúa-màu; giá thấp và không ổn định; công nghệ chế biến chưa phát triển để chế biến sản phẩm; khó bảo quản hạt giống trong điều kiện tự nhiên. 2.2 TÌNH HÌNH SẢN XUẤT HOA MÀU TỈNH ĐỒNG THÁP 2.2.1 Hiện trạng sản xuất hoa màu của tỉnh Đồng Tháp Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Đồng Tháp (2007) đã báo cáo tổng kết phát triển kinh tế nông nghiệp năm 2007 và kế hoạch cho năm 2008 với diện tích hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày của tỉnh Đồng Tháp cả năm ước đạt 33.093 ha, đạt 82,73% kế hoạch đề ra, tăng hơn 3.202 ha so với năm 2006 với các cây chủ lực như đậu nành, bắp, mè…, trong đó: Diện tích cây mè 2.668 ha/2.600 ha, đạt 102,6% kế hoạch đề ra, năng suất trung bình đạt 1,3 tấn/ha, lợi nhuận khoảng 8 triệu đồng/ha; cây Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 7 đậu nành diện tích 7.634 ha/11.000 ha, đạt 69,4% kế hoạch đề ra, năng suất trung bình đạt 2,3 tấn/ha, lợi nhuận khoảng 8,9 triệu đồng/ha; cây bắp diện tích 4.374 ha/6.000 ha, đạt 72,9% kế hoạch đề ra, năng suất trung bình khoảng 7 tấn/ha, lợi nhuận khoảng 7,5 triệu đồng/ha và hoa màu các loại khác là 18.417 ha. Trong quá trình chuyển đổi diện tích lúa sang trồng hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày còn chậm do giá lúa ổn định ở mức cao, dễ sản xuất, dễ bảo quản, dễ bán, trong khi đó sản xuất hoa màu đòi hỏi lực lượng lao động nhiều, thị trường tiêu thụ không ổn định. Cũng theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đồng Tháp (2008) cho biết năm 2008, diện tích xuống giống hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày tuy có giảm so với năm trước do nông dân tăng diện tích trồng lúa, nhưng vẫn đạt 28.975 ha, chiếm 80,84% kế hoạch đề ra, trong đó: Diện tích bắp 5.223 ha, đậu nành 6.150 ha, mè 2.522 ha, sen 1.830 ha và màu các loại khác 13.250 ha. Năng suất hoa màu đạt khá cao, nhiều loại nông dân có lãi trung bình gấp từ 1,2 – 2,5 lần so với trồng lúa. Công tác chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất hoa màu được ngành nông nghiệp quan tâm đầu tư thực hiện. Bên cạnh đó, từ nguồn vốn khuyến nông đã thực hiện các mô hình giảm giá thành và cơ giới hóa ứng dụng công cụ sạ hàng để tỉa bắp, đậu nành, cây mè; trình diễn máy thu hoạch đậu nành, mè với tổng diện tích 16 ha ở các huyện Cao Lãnh, Lấp Vò, thị xã Sa Đéc, thành phố Cao Lãnh, giá thành sản xuất đậu nành, mè trong mô hình thấp hơn từ 495 đồng/kg đến 1.750 đồng/kg và năng suất cao hơn bên ngoài từ 0,1 tạ/ha đến 0,6 tạ/ha. Ngành Nông nghiệp cũng đã thực hiện mô hình sản xuất khoai lang gắn kết với tiêu thụ sản phẩm ở huyện Tân Hồng với diện tích thực hiện 12 ha, năng suất bình quân 20 tấn/ha, lợi nhuận 50 triệu đồng/ha (Sở Nông nghiệp & PTNT Đồng Tháp, 2008). 2.2.2 Định hướng phát triển hoa màu tỉnh Đồng Tháp Kế hoạch sản xuất của sở Nông nghiệp và PTNT năm 2009 thì diện tích hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày là 39.245 ha, tăng 10.270 ha so với năm 2008, trong đó các loại cây chủ lực là đậu nành là 10.000 ha, bắp 6.000 ha, mè 2.700 ha… (Sở Nông nghiệp & PTNT Đồng Tháp, 2008). Các giải pháp điều hành trong sản xuất của định hướng phát triển hoa màu trong năm 2009 là hỗ trợ các vùng chuyên canh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfĐánh giá hiện trạng sản xuất và so sánh hiệu quả kinh tế các mô hình luân canh màu trên nền đất lúa tại huyện châu thành tỉnh đồng tháp.PDF
Tài liệu liên quan