LỜI NÓI ĐẦU
I. ỨNG DỤNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ.
1 Khoa học và công nghệ và vai trò của khoa học và công nghệ
1.1 Khoa học công nghệ là gì?
1.1.1 Khoa học là gì?
1.1.2 Công nghệ là gì?
1.1.3 Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ.
1.2 Vai trò của khoa học và công nghệ trong các Nghị quyết của các Đại hội Đảng.
1.2.1 Hồ Chí Minh với khoa học và công nghệ.
1.2.2 Các Nghị quyết của các Đại Hội Đảng nói về vai trò của khoa học và công nghệ.
2. Ứng dụng khoa học và công nghệ và sự cần thiết phải ứng dụng khoa học và công nghệ.
2.1 Ứng dụng khoa học công nghệ là gì?
2.2 Sự cần thiết phải ứng dụng khoa học và công nghệ.
II THỰC TRẠNG CỦA ỨNG DỤNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VÀO TRONG CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG, LÂM, THỦY SẢN.
1. Những mặt hạn chế trong ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản
1.1 Cơ chế quản lý của nhà nước trong hoạt động khoa học và công nghệ của nước ta hiện nay gặp nhiều bất cập.
1.1.1 Việc xác định và thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ chưa thực sự xuất phát từ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.
1.1.2 Vai trò quản lý nhà nước đối với các tổ chức khoa học và công nghệ chưa phù hợp.
1.1.3 Cơ chế chính sách tài chính chưa tạo động lực và điều kiện thuận lợi và sự tự chủ cao cho cá nhân tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ.
1.1.4 Vai trò quản lý cán bộ khoa học và công nghệ chưa tạo động lực để phát huy năng lực sáng tạo của cán bộ khoa học và công nghệ.
1.1.5 Vai trò quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ còn chưa đổi mới kịp với yêu cầu chuyển sang kinh tế thị trường.
1.1.6 Thị trường công nghệ còn nhỏ bé, chậm phát triển.
1.1.7 Nguyên nhân chủ yếu của các yếu kém trên.
1.2 Những khó khăn yếu kém đối với các tổ chức, đơn vị nghiên cứu khoa học và công nghệ.
1.2.1 Khó khăn yếu kém của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ.
1.2.2 Khó khăn yếu kém của cán bộ quản lý khoa học và công nghệ.
1.2.3 Cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu.
1.2.4 Khó khăn trong việc thu hút và sử dụng vốn.
1.3 Những khó khăn và yếu kém của các doanh nghiệp, cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản trong việc ứng dụng khoa học và kỹ thuật.
1.3.1 Các doanh nghiệp, cơ sở chế biến chưa thấy rõ vai trò của việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong sản xuất.
1.3.2 Quy mô và vốn của các doanh nghiệp này còn rất”khiêm tốn”
1.3.3 Trình độ của công nhân về khoa học và công nghệ còn kém.
1.3.4 Khó khăn trong việc chuyển giao khoa học và công nghệ.
2. Những mặt đạt được trong việc thúc đẩy ứng dụng khoa học và công nghệ vào chế biến nông, lâm, thủy sản.
2.1 Khoa học và công nghệ đóng góp tích cực vào trong phát triển kinh tế xã hội.
2.2 Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước đổi mới.
2.3 Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân dân ngày càng được nâng cao.
2.4 Ngày càng có nhiều công trình khoa học và công nghệ ứng dụng vào nghành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.
III BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH ỨNG DỤNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VÀO TRONG CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG, LÂM, THỦY SẢN.
1 Tạo lập và phát triển thị trường khoa học và công nghệ
2. Chính sách đối với cán bộ khoa học và công nghệ.
3. Phát động phong trào quần chúng tiến quân vào khoa học phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật
4. Tăng đẩu tư cho phát triển khoa học và công nghệ từ nhiều nguồn.
5. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cơ sở chế biến hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ.
6. Tăng cường kiểm soát, giám định công nghệ và chất lượng sản phẩm đối với doanh nghiệp và cơ sở chế biến.
7. Đổi mới hệ thống quản lý hoạt động khoa học và công nghệ.
8. Đẩy mạnh các hoạt động thông ti, tuyên truyền, phổ cập kiến thức khoa học và công nghệ.
IV KẾT LUẬN.
23 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2885 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Biện pháp đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hị trường. Ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong công nghiệp chế biến tạo ra máy móc thiết bị hiện đại phù hợp với quy mô từng vùng nguyên liệu làm cho chất lượng sản phẩm nâng cao, sức cạnh tranh cao. Có thể thấy việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào công nghiệp nông lâm, thủy sản tạo ra thuận lợi và hiệu quả rất lớn nhưng trong công tác đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ vào công nghiệp chế biến nông lâm, thủy sản còn gặp những hạn chế, khó khăn sau:
Cơ chế quản lý của nhà nước trong hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ở nước ta hiện nay.
Mặc dù hoạt động khoa học và công nghệ ở nước ta đã có những tiến bộ nhất định. Song nhìn chung cơ chế quản lý khoa học và công nghệ ở nước ta hiện na còn chưa được đổi mới cơ bản còn chưa phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế điều đó được thể hiện ở chỗ:
Việc xác định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ chưa thực sự xuất phát từ các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.
Chưa định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các nghành , các cấp trong việc xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Thiếu cơ chế hữu hiệu khắc phục tình trạng trùng lặp nhiệm vụ khoa học và công nghệ giữa các nghành các địa phương. Tiêu chuẩn lựa chọn và việc lựa chọn chuyên gia tham gia các hội đồng tư vấn để xác định, tuyển chọn và tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, đánh giá tiêu chuẩn chưa tương hợp với chuẩn mực quốc tế.
Vai trò quảnlý của Nhà nước đối với các tổ chức khoa học và công nghệ chưa phù hợp.
Vai trò quản lý của Nhà nước đối với các tổ chức khoa hoa học và công nghệ chưa phù hợp với đặc thù của lao động sáng tạo và kinh tế tị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thiếu quy hoạch các tổ chức khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành, lĩnh vực khoa học và công nghệ trọng điểm và nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Các tổ chức khoa học của Nhà nước chưa được thực hiện đầy đủ quyền tự chủ về kế hoạch tài chính, nhân lực và hợp tác quốc tế phát huy tính năng động, sáng tạo và gắn kết giữa nghiên cứu đào tạo và sản xuất, kinh doanh, chưa xâ dựng được các tiêu chí cụ thể đánh giá chất lượng và hiệu quả của hoạt động khoa học và công nghệ.
Cơ chế chính sách tài chính chưa tạo động lực và điều kiện thuận lợi và sự tự chủ cao cho tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ.
Đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho khoa học và công nghệ còn dàn trải, thiếu tập trung cho các lĩnh vực, công trình trọng điểm. Thiếu biện pháp hữu hiệu để huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước cho khoa học và công nghệ. Thiếu các nguồn vốn đầu tư mạo hiểm để khuyến khích nguyên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong sản xuất kinh doanh.
Vai trò quản lý cán bộ khoa học và công nghệ chưa tạo động lực để phát huy năng lực sáng tạo của cán bộ khoa học và công nghệ:
Chậm chuyển đổi từ cán bộ công chức sang cán bộ viên chức và hợp đồng, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu chuyển và đổi mới cán bộ. Thiếu cơ chế, biện pháp cụ thể xây dựng và nâng cao vai trò của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đầu nghành và các tập thể khoa học và công nghệ mạnh. Chế độ tiền lương còn bất hợp lý chưa khuyến khích cán bộ toàn tâm với sự nghiệp khoa học và công nghệ. Chưa có chính sách cụ thể khuyến khích mạnh lực lượng khoa học và công nghệ ngoài nước tham gia đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Vai trò quản lý Nhà nước về Khoa học công nghệ còn chưa đổi mới kịp với yêu cầu chuyển sang kinh tế thị trường.
Thiếu cơ chế cụ thể để điều phối hoạt động quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý Nhà nước đối với hoạt động khoa học và công nghệ còn thiếu, chưa cụ thể, thiếu đồng bộ, lạc hậu so với thực tiễn, nhiều quy định không khả thi. Thiếu phân công, phân cấp rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm giữa các Bộ, nghành và giữa trung ương và địa phương.
Thị trường công nghệ còn nhỏ bé, chậm phát triển.
Hoạt động mua bán công nghệ và lưu thông các kết quả nghiên cứu còn rất hạn chế do thiếu nhiều các tác nhân quan trọng, các yếu tố cấu thành thị trường và các quy định pháp lý cần thiết. Phần lớn các kết quả nghiên cứu còn dừng ở phạm vi phòng thí nghiệm, chưa tạo ra được nhiều công nghệ hoàn chỉnh có thể thương mại hóa. Chưa chú trọng việc mua sáng chế công nghệ của các nước tiên tiến để đổi mới công nghệ.
Quy định về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ chưa khuyến khích các tổ chức thực hiện nghiên cứu quan tâm khai thác, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu được tạo ra bằng kinh phí từ ngân sách Nhà nước. Hiệu lực về thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ thấp. Năng lực của các tổ chức trung gian, môi giới công nghệ còn yếu kém chưa thật sự đáp ứng vai trò cầu nối giữa cung và cầu.
1.1.7 Nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém trên.
Tựu chung lại cơ chế quản lý khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay còn chưa đồi mới cơ bản, còn chưa phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là do những nguyên nhân sau đây:
Qua điểm khoa học và công nghệ là nền tảng là động lực phát triển đất nước đã được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng, nhưng chưa được quán triệt đầy đủ để chuyển thành hành động thực tế của các cấp chính quyền, cac Bộ, nghành, địa phương trong xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Nhiều chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ về phát triển khoa học và công nghệ chậm được thể chế hóa bằng văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng nhu cầu đổi mới trong thực tiễn; lãnh đạo các cấp thiếu kiên trì, kiên quyết trong chỉ đạo thực hiện đổi mới quản lý khoa học và công nghệ.
Chậm đổi mới tư duy, phương pháp quản lý khoa học và công nghệ trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế. Chưa làm rõ trách nhiệm của Nhà nước về đầu tư phát triển đối với một số các hoạt động khoa học và công nghệ như nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu mang tính công ích, nghiên cứu chiến lược, chính sách phát triển.v.v…chưa có chính sách phù hợp đối với hoạt động khoa học và công nghệ vần và có thể vận dụng cơ chế thị trường như hoạt động nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ.
Chưa tách biệt vai trò quản lý hành chính Nhà nước với hoạt động sự nghiệp dẫn đến tình trạng các cơ quan quản lý Nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ. Thiếu cơ chế hữu hiệu về thanh tra, kiểm tra và quy định trách nhiệm rõ ràng trong hoạt động khoa học và công nghệ.
Chưa coi trọng tổng kết thực tiễn và điển hình tiên tiến
Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước hiện nay còn duy trì sự bao cấp gián tiếp của Nhà nước thông qua các ưu đãi, độc quyền trong nhiều lĩnh vực, khiến cho các doanh nghiệp Nhà nước ít quan tâm đến nghiên cứu ứng dụng và đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Năng lực khoa học và công nghệ của doanh nghiệp còn nhiều bất cập, thiếu đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ trong các doanh nghiệp làm cầu nối cho ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Hệ thống tài chính tiền tệ kém phát triển cũng không tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự huy động vốn để đầu tư cho khoa học và công nghệ.
Những khó khăn, yếu kém đối với các tổ chức đơn vị nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ.
Không thể không thừa nhận những thành tựu, những đóng góp của các tổ chức, đơn vị, cơ quan nghiên cứu khoa học và công nghệ đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhất là trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển kinh tế tri thức trên thế giới. Nhưng bên cạnh đó nó cũng còn bộc lộ những khó khăn, yếu kém có tác động xấu là kìm hãm ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Những khó khăn, yếu kém đó là:
1.2.1 Khó khăn yếu kém của đội ngũ đội ngũ cán bộ Khoa học và công nghệ.
Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ tuy tăng về số lượng, nhưng tỷ lệ trên số dân còn thấp so với các nước trong khu vực, chất lượng chưa cao; còn thiếu nhiều cán bộ đầu nghành, chuyên gia giỏi, đặc biệt là các chuyên gia về công nghệ. Số đông cán bộ có trình độ đều đã lớn tuổi, đang có nguy cơ hẫng hụt cán bộ. Đời sống của cán bộ khoa học công nghệ còn nhiều khó khăn vì tiền lương còn chưa đáp ứng nhu cầu và tạo động lực cho họ cho nên không ít cán bộ khoa học và công nghệ chuyển đi làm việc khác hoặc đổi nghề, gây lên sự lãng phí chất xám nghiêm trọng. Bên cạnh đó chính sách tiền lương chưa thỏa đáng cho nên không thu hút được nnhững người tài vào làm việc cho các đơn vị khoa học và công nghệ họ thường làm việc cho các tổ chức nước ngoài trả lương cao hơn.
Cán bộ khoa học và công nghệ còn chậm đổi mới tư duy, phương pháp nghiên cứu khoa học công nghệ trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế. Dẫn đến hoạt động khoa học công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là xu thế hội nhập kinh tế quốc tế là sự phát triển kinh tế tri thức trên thế giới.
Các kết quả nghiên cứu chưa thực sự gắn kết với nhu cầu và hoạt động của các nghành kinh tế xã hội. Năng lực tạo ra công nghệ mới còn hạn chế, các cán bộ nghiên cứu khoa học và công nghệ thiếu sự liên kết, phối hợp với nhau dẫn đến hiệu quả còn thấp. Cán bộ khoa học và công nghệ tuy còn ít nhưng chưa được sử dụng tốt.
Thiếu chiến lược quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nên còn mất cân đối về đào tạo và sử dụng. Nhiều chính sách cán bộ chưa thỏa đáng và không kịp thời đổi mới. Chế đội tiền lương mang nặng tính bình quân. Lao động trí óc chưa được đãi ngộ chính đáng.
1.2.2 Khó khăn yếu kém của cán bộ quản lý Khoa học và công nghệ.
Có thể kể đến nhiều nguyên nhân làm cho khoa học và công nghệ nước nhà chậm phát triển, mặc dù chúng ta có thể tự hòa là người Việt thông minh, cần cù, sáng tạo. Có một nguyên nhân mà nhiều người có trách nhiệm thường hay nhắc đến là : “Các cơ quan quản lý tỏ ra yếu kém trong việc hoạch định các chính sách công nghệ, và chỉ thực hiện các mục tiêu khoa học và công nghệ. Hình thức tổ chức bộ máy quản lý khoa học và công nghệ rời rạc, chức năng trùng lặp, trách nhiệm từng nghành từng cấp không rõ ràng. Chỉ đạo không đến nơi đến chốn…”. Nhưng với tư duy cơ chế đang tồn tại thì nếu có sinh thêm 100 lần các cơ quan quản lý như hiện nay thì khoa học và công nghệ nước nhà cũng chẳng thay đổi được là bao. Bởi lẽ, chuyện chạy chức chạy bằng không phải là chuyện hiếm trong cuộc sống hàng ngày. Do đó chúng ta luôn luôn kêu gọi:” làm thế nào để có người có tài và sử dụng người tài”.
Cơ cấu và việc phâm bố cán bộ khoa học và công nghệ chưa cân đối, còn nhiều bất hợp lý giữa đồng bằng và miền núi còn thiếu nhiều cán bộ khoa học và công nghệ.
Quản lý khoa học và công nghệ trong cơ chế thị trường còn lúng túng bất cập. Việc tổ chức phân bổ lực lượng còn phân tán. Việc quản lý các công trình nghiên cứu còn mang nặng tính hành chính, còn dàn trải; chưa gắn chương trình nghiên cứu với chức năng và nhiệm vụ của cơ sở nghiên cứu, chưa đề cao tinh thần trách nhiệm và phát huy tính tự chủ của cơ sở; thiếu sự kết hợp giữa chương trình kinh tế xã hội với chương trình khoa học và công nghệ. Nhiều cơ quan khoa học chưa gắn với cơ sở sản xuất, chưa chủ động phối hợp với địa phương để ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ.
1.2.3 Cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu.
Một tình trạng đáng báo động là trong các tổ chức, đơn vị nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất nghèo nàn, lạc hậu thông tin khoa học và công nghệ còn quá thiếu và không kịp thời làm cho những cán bộ khoa học và công nghệ không phát huy được năng lực khả năng hiện có của mình. Làm cho phần lớn kết quả nghiên cứu còn dừng ở phạm vi phòng thí nghiệm thời gian nghiên cứu triển khai quá dài có thể khoa học và công nghệ mới ra đời đã lạc hậu với khoa học và công nghệ của các nước trong khu vực và trên thế giới, chưa thể tạo ra nhiều công nghệ hoàn chỉnh có thể thương mại hóa. Chưa chú trọng việc mua sáng chế công nghệ của các nước tiên tiến đổi mới công nghệ. Vốn, ngân sách Nhà nước đầu tư cho các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ còn ít và kém hiệu quả cho nên không thể hợp tác với các quốc gia có nền khoa học và công nghệ tiên tiến hiện đại để chuyển giao công nghệ, máy móc thiết bị cho các tổ chức đơn vị nghiên cứu để tạo điều kiện cho cán bộ nghiên cứu phát huy được khả năng của mình. Một nhà nguyên cứu khoa học giỏi cũng trở lên bất lực với những công trình nghiên cứu bình thường nếu không có công cụ và dụng cụ phù hợp và hiện đại.
1.2.4 Khó khăn trong việc thu hút và sử dụng vốn.
Chính sách của Nhà nước không cho các doanh nghiệp thấy được vai trò, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong việc phát triển khoa học và công nghệ của nước nhà, chưa nhận thức được đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư cho sự phát triển cho nên để họ tự bỏ vốn ra để đầu tư nghiên cứu rất khó khăn đặc biệt khó khăn hơn là các doanh nghiệp bỏ vốn ra đẩu tư cho các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ làm cho các tổ chức đơn vị nghiên cứu khoa học và công nghệ gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn từ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất.
Ngân sách Nhà nước đầu tư cho các tổ chức khoa học và công nghệ còn qua thấp. Nghị quyết 26 của Bộ chính trị (khóa VI) quy định mức đầu tư tối thiểu 2% tổng ngân sách Nhà nước cho khoa học và công nghệ không được chấp hành nghiêm chỉnh( trong nhiều năm tỷ lệ này dưới 1%). Việc phân bổ và sử dụng ngân sách cho khoa học và công nghệ chưa hợp lý, chưa sử dụng hiệu quả. Nhà nước chưa có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách cho phát triển khoa học và công nghệ.
Nguồn vốn đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ chưa được sử dụng hiệu quả vì các công trình nghiên cứu chưa xuất phát từ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội dẫn đến tình trạng công nghệ thừa công nghệ thiếu dẫn đến hiệu quả không cao.
Những khó khăn và yếu kém của các doanh nghiệp chế biến nông, lâm thủy sản trong việc ứng dụng khoa học và công nghệ.
Vừa qua, Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ban hành quyết định phê duyệt đề án phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Thủ tướng chính chính phủ đề nghị các Tỉnh, Thành phố tập trung vào rà soát điều chỉnh quy hoạch chi tiết từng loại cây trồng, vật nuôi trên phạm vi cả nước theo hướng hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với cơ sở chế biến. Các cơ sở chế biến xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu của đơn vị phù hợp với quy hoạch đã phê duyệt và ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời cũng có những giải pháp nghiên cứu chế tạo, ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong sản xuất. Qua đó ta thấy được sự quan tâm của Nhà nước trong việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào trong nghành công nghiệp chế biến nông, lâm, thỷ sản. Nhưng các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản vẫn còn gặp những khó khăn và yếu kém sau đây trong việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong sản xuất:
1.3.1 Các doanh nghiệp, cơ sở chế biến chưa thấy rõ vai trò của việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong sản xuất.
Hầu hết các doanh nghiệp, cơ sở chế biến nông,lâm, thủy sản đều không muốn áp dụng khoa học và công nghệ vào trong sản xuất vì họ chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt của doanh nghiệp mà không quan tâm đến lợi ích lâu dài của doanh nghiệp họ không quan tâm đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế và sự phát triển của trình độ khoa học và công nghệ của nước nhà. Vì đầu tư cho việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào doanh nghiệp mất một khoản tiền rất lớn cho nên học không muốn đầu tư đổi mới dây chuyền sản xuất. Họ không muốn bỏ vốn ra để đầu tư nghiên cứu chế tạo máy móc thiết bị để áp dụng khoa học và công nghệ vào trong sản xuất hầu hết các cơ sở chế biến vẫn còn làm thủ công dẫn đến năng suất thấp chất lượng kém, sản phẩm chỉ dừng lại ở khâu sơ chế chưa có sản phẩm tinh chế làm cho năng lực cạnh tranh thấp.
1.3.2 Quy mô và vốn của các doanh nghiệp này còn “khiêm tốn”.
Việc phát triển công nghiệp chế biến, nông, lâm, thủy sản phụ thuộc khá nhiều vào khả năng cung cấp nguyên liệu cả về số lượng và chất lượng, hiện nay việc cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thường xuyên không ổn định vì chưa có các vùng cây công nghiệp chuyên canh, tập trung, cho năng suất và chất lượng cao. Sản xuất các loại cây nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp chế biến phầnl lớn là tự phát, chưa gắn công nghiệp chế biến với từng vùng nguyên liệu. Hầu hết các vùng cây công nghiệp do hộ nông dân quản lý nên thường tự ý thay đổi cơ cấu cây trồng theo sự biến động của thị trường. Một số địa phương nôn nóng muốn chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên địa bàn nhanh, đôi khi bỏ qua khâu quy hoạch nên tình trạng các doanh nghiệp chế biến lúc thừa lúc thiếu nguyên liệu thường xuyên xảy ra. Những nguyên nhân trên một mặt làm cho quy mô của các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản quy mô nhỏ. Mặt khác các cơ sở chế biến từ các sản phẩm nông, lâm, thủy sản có quy mô rất “khiêm tốn” hầu hết là các cơ sở chế biến nhỏ, chế biến bằng thủ công, chế biến theo hộ gia đình, vốn ít, các doanh nghiệp này rất khó khăn trong việc tiếp cận được với vốn đầu tư, sản lượng hàng hóa ít, chất lượng sản phẩm thấp, chưa tương xứng với thế mạnh của từng vùng. Mặt khác tâm lý của chúng ta là vẫn không giám làm ăn lớn. Từ những ký do trên làm cho các cơ sở các doanh nghiệp này không có đủ tiềm lực về tài chính và nhà xưởng để ứng dụng khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó quy mô nhỏ, vốn ít cho nên các doanh nghiệp này chưa nghĩ đến việc sử dụng tiết kiệm nguyên liệu và môi trường cho nên chưa quan tâm ứng dụng công nghệ thân thiện với môi trường.
1.3.3 Trình độ của công nhân về máy móc thiết bị còn thấp:
Lao động làm trong các cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản phần lớn là lao động phổ thông cho nên trình độ về khoa học và công nghệ máy móc thiết bị còn rất hạn chế đứng trước máy móc thiết bị tiên tiến hiện đại còn nhiều lúng túng. Cho nên nó kìm hãm ứng dụng khoa học và công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại vào trong cơ sở sản xuất vì để ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất thì doanh nghiệp, cơ sở sản xuất phải tốn thời gian chi phí rất lớn cho việc đào tạo lại lao động dẫn đến gián đoạn trong sản xuất. Khi áp dụng khoa học kỹ thuật vào chế biến thì nó sẽ giảm một số lượng lao động không cần thiết và số lượng lao động không đạt tiêu chuẩn nhưng việc đưa họ ra khỏi doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp Vịêt nam còn gặp rất nhiều khó khăn. Lao động có trình độ còn ít song chưa sử dụng một cách hiệu quả.
1.3.4 Khó khăn trong việc chuyển giao khoa học và công nghệ.
Nhà nước chưa có chính sách giúp cho các doanh nghiệp, cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế; thu hút các chuyên gia giỏi của thế giới đến nước ta hợp tác mở lớp đào tạo, bổi dưỡng cán bộ, công nhân kỹ thuật, lập các cơ sở nguyên cứu khoa học và chuyển giao những thành tựu khoa học và công nghệ.
Thủ tục chuyển giao công nghệ trong và ngoài nước còn nhiều thủ tục hành chính dẫn đến gặp nhiều khó khăn trong việc chuyển giao công nghệ.
Thông tin về khoa học và công nghệ của nước ta còn kém và chậm cho nên các cơ sở các doanh nghiệp gặp không ít khó khăn. Tình trạng nhập khẩu các thiết bị, công nghệ lạc hậu, không đồng bộ, kém hiệu quả ảnh hưởng xấu đến năng suất lao động và , môi trường sinh thái.
Những mặt đã đạt được trong việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.
Đảng ta có một số Nghị quyết về khoa học và công nghệ như Nghị quyết 37 của Bộ chính trị (Khóa IV), Nghị quyết 26 của Bộ chính trị(Khóa VI), Nghị quyết 01 của Bộ chính trị và Nghị quyết trung ương 7( Khóa VII) việc thực hiện các Nghị quyết này đã bước đầu nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước, thúc đẩy việc đưa các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất đặt biệt là vào công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản có sự gia tăng đáng kể và vào đời sống góp phần đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết để bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Với sự quan tâm đó thời gian qua đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức khoa học và công nghệ với trên 1100 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có gần 500 tổ chức ngoài nước; 197 trường đại học cao đẳng trong đó có 30 trường ngoài công lập mới nhất là Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo đã ký quyết định thành lập rất nhiều trường dân lập. Cơ sở hạ tầng của các viện, trung tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các trung tâm thông tin khoa học và công nghệ, thư viện, cũng được tăng cường và nâng cấp. Đã thực hiện một số loại hình gắn kết tốt giữa nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ với sản xuất kinh doanh. Mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nhưng với sự nỗ lực rất lớn của Nhà nước từ năm 2004 tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ đạt 2%, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách đầu tư phát triển khoa học và công nghệ của Đảng và Nhà nước ta.
2.1. Khoa học và công nghệ đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội:
Khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần quan trọng lý giải và khẳng đinh giá trị khoa học và thực tiễn của Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; cung cấp luận cứ cho khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới nói chung và vào quá trình đổi mới tư duy kinh tế nói riêng.
Các kết quả điều tra cơ bản và nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên đã phục vụ xây dựng luận cứ khoa học cho phương án phát triển đất nước
Khoa học và công nghệ đã góp phần quan trọng trong việc tiếp thu,làm chủ. Thích nghi và khai thác có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài. Nhờ đó trình độ công nghệ trong một số nghành sản xuất, dịch vụ đã được nâng cao đáng kể, nhiều sản phẩm hàng hóa có sức cạnh tranh cao hơn.
Các chương trình nghiên cứu trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, tự động hóa, công nghệ cơ khí- chế tạo máy, đã góp phần nâng cao năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều nghành nghề kinh tế.
Khoa học và công nghệ trong những năm qua đã được ứng dụng vào việc đào tạo và nâng cao trình độ nguồn nhân lực, chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo vệ môi trường giữ gìn bản sắc và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
2.2 Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới.
Hệ thống quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ được tổ chức từ trung ương đến địa phương đã đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của nghành và đĩa phương.
Thực hiện luật khoa học và công nghệ các chương trình, đề tài, dự án, khoa học và công nghệ đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Cơ chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ đã từng bước được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ công khai.
Hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ đã mở rộng từ nghiên cứu – phát triển đến sản xuất và dịch vụ khoa học và công nghệ. Quyền tự chủ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động khoa học và công nghệ bước đầu được tăng cường. Quyền tự chủ vể hợp tác quốc tế của tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ được mở rộng.
Vốn huy động cho khoa học và công nghệ từ các nguồn hợp đồng với khu vực sản xuất kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tài trợ quốc tế và các nguồn khác, tăng đáng kể nhờ chính sách đa dạng hóa nguồn đầu tư cho khoa học và công nghệ. Đã cải tiến một bước việc cấp phát kinh phí đến nhà khoa học theo hướng giảm bớt các khâu trung gian. Viêc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ từng bước được hoàn thiện thông qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
2.3 Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân dân ngày càng được nâng cao.
Nhờ có sự quan tâm của các tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động tích cực của các tổ chức khoa học và công nghệ, các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư và công tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác động của khoa học và công nghệ đến sản xuất và đời sống, nhận thức và khả năng tiếp thu, ứng dụng tri thức khoa học và công nghệ của người dân trong thời gian qua đã tăng lên rõ rệt. Hoạt động khoa học và công nghệ ngày càng được xã hội hóa trên toàn quốc.
2.4. Ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ vào công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.
Nước ta đang là một nước nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao, phần lớn lao động làm việc trong nông nghiệp. Người nông dân gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ vì nông sản chưa qua chế biến gi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Biện pháp đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.DOC