Sự khan hiếm tiền đồng về mặt lý thuyết là làm cho VND lên giá. Nhưng chính sách điều tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp (lãi suất cho vay hỗ trợ, trần lãi suất cho vay.) gây áp lực giảm giá VND, đồng thời kích thích nhu cầu sử dụng tiền đồng, tăng nhu cầu tín dụng, gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền đồng, gây áp lực cho NHTƯ phải cung ứng thêm tiền đồng. Điều này tiếp tục gây áp lực giảm giá VND. Đồng thời, sự biến động mạnh của giá vàng cũng có những tác động bất lợi đến tỷ giá.
Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá, NHTƯ đã thực hiện nâng các mức lãi suất chỉ đạo lên thêm 1%. Đây là giải pháp có tính đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế, vừa có tác dụng tiếp tục duy trì tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời chủ động ngăn chặn nguy cơ lạm phát và trước mắt ổn định thị trường ngoại hối.
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7212 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hả nổi hoàn toàn đều có những nhược điểm cơ bản. Cụ thể, cung – cầu ngoại hối biến đổi không ngừng, do vậy, nếu NHTƯ ấn định một mức tỷ giá cố định thì tác động đến quy luật cung – cầu trên thị trường. Còn nếu thả nổi tỷ giá thì sự biến động của tỷ giá có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, có thể làm cho nền kinh tế phát triển nhưng cũng có thể đưa nền kinh tế lâm vào trình trạng khoảng hoảng trầm trọng.
Tỷ giá thả nổi có quản lý là tỷ giá được hình thành trên cơ sở quan hệ cung – cầu ngoại hối, nhưng khi cần thiết NHTƯ có thể can thiệp bằng những biện pháp thích hợp, tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quan hệ cung - cầu ngoại tệ từ đó ổn định được tỷ giá.
Biện pháp chủ yếu mà các NHTƯ thường dùng để can thiệp vào cung – cầu ngoại tệ là sử dụng dự trữ ngoại hối và quỹ bình ổn hối đoái.
Cụ thể, khi tỷ giá hối đoái tăng cao, NHTƯ tung ngoại tệ ra bán, làm cho cung ngoại tệ trên thị trường tăng lên, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, thì tỷ giá sẽ từ từ giảm xuống. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm, NHTƯ hút ngoại tệ về bằng cách mua vào, trong khi các yếu tố khác vẫn không đổi thì tỷ giá sẽ dần tăng lên. Để áp dụng biện pháp này hiệu quả, đòi hỏi quốc gia phải có khối lượng dự trữ ngoại hối đủ lớn. Vì vậy, đối với những nước đang phát triển, chẳng hạn như nước ta thì việc áp dụng công cụ này có những hạn chế nhất định.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA CSTT Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
I. Khái quát chung về quá trình thực hiện các công cụ của CSTT trong những năm qua
Nhìn chung, năm 2007 thực thi CSTT của NHTƯ là cực kỳ khó khăn bởi tác động bất lợi của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam quá lớn trong năm, cùng với những diễn biến phức tạp của giá cả những mặt hàng chủ yếu và những nhu cầu hội nhập của nền kinh tế. Mặc dù vậy, về cơ bản, điều hành CSTT đã đạt được sự ổn định tiền tệ, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho phát triển kinh tế, song năm 2008, thực thi CSTT vẫn tiếp tục phải đối mặt với những thách thức do dòng vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục gia tăng và những biến động khó lường của thị trường tài chính quốc tế, cùng với biến động của giá cả thế giới. Điều đó đòi hỏi NHTƯ tiếp tục thực hiện CSTT chặt chẽ và cần có những giải pháp mang tính dài hạn để hạn chế đến mức thấp nhất những tác động bất lợi của những thách thức phải đối mặt.
Năm 2008, Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn, thách thức chưa từng có trong hơn 20 năm đổi mới. Một năm mà diễn biến kinh tế hàm chứa cả hai thái cực nóng và lạnh, sự chuyển đổi giữa hai thái cực này cũng diễn ra hết sức nhanh chóng.
Trước bối cảnh phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước trong 6 tháng đầu năm 2008, NHTƯ đã có những phản ứng kịp thời, sử dụng đồng bộ và quyết liệt về điều hành CSTT thắt chặt nhằm kìm chế lạm phát có hiệu quả và ổn định kinh tế vĩ mô. Các công cụ CSTT được điều hành linh hoạt để hút tiền từ lưu thông nhưng vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho nền kinh tế, điều hành linh hoạt tỷ giá theo tín hiệu thị trường. NHTƯ đã tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của thị trường ngoại hối và của các tổ chức tín dụng, hạn chế tăng trưởng tín dụng quá nóng có thể gây mất an toàn hệ thống của các tổ chức tín dụng. Đến cuối năm 2008, để chủ động ngăn chặn sự suy giảm kinh tế, CSTT thắt chặt được chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng.
Trong năm, NHTƯ đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. Cơ chế điều hành tỷ giá ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/- 0,75% lên +/- 3%; tỷ giá bình quân liên ngân hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh vào tháng 6 và cuối tháng 12. Bên cạnh đó, đã thực hiện tốt 8 nhóm giải pháp của Chính phủ về ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực thi các giải pháp điều hành tiền tệ của NHTƯ có thời điểm còn thiếu đồng bộ; thị trường tiền tệ, ngoại hối trong những tháng đầu năm còn có những biến động gây khó khăn nhất định cho hoạt động của các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp; chất lượng dịch vụ ngân hàng còn có những bất cập.
Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ (CSTT) đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế.
Trước những tác động bất lợi như vậy, NHTƯ đã thực thi CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường.
Từ đầu năm 2009, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư trong xã hội tiếp cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần của các gói giải pháp kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả, NHTƯ đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%.
II. Thực trạng sử dụng các công cụ của CSTT trong những năm qua
Mục tiêu năm 2007 là phấn đấu đạt tăng trưởng kinh tế cao ở mức 8,5%; triển khai điều hành tốt CSTT để đảm bảo ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát; vận hành các công cụ CSTT theo cơ chế thị trường; đồng thời, có những cảnh báo sớm về diễn biến thị trường để tránh gây đột biến, dẫn tới đỗ vỡ trên tổng thể. Thực hiện can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng giá VND gây bất lợi cho tăng trưởng kinh tế.
Trong phạm vi khối lượng tiền cung ứng tăng được Chính phủ phê duyệt năm 2007, NHTƯ đã sử dụng linh hoạt các công cụ CSTT để điều tiết có hiệu quả khối lượng tiền cung ứng này, nhằm đạt mục tiêu mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam, góp phần bình ổn thị trường ngoại hối, nhưng đồng thời cũng hút mạnh lượng tiền đã cung ứng ra cho mục đích mua ngoại tệ để giảm mức độ dư thừa vốn khả dụng của các NHTM, hạn chế sự giá tăng của tổng phương tiện thanh toán qua đó giảm áp lực lạm phát. Cụ thể:
- Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTƯ đã hút được một lượng tương đối lớn vốn khả dụng dư thừa của các TCTD, đồng thời vẫn điều tiết kịp thời sự thiếu hụt vốn mang tính thời điểm của một số TCTD, đảm bảo duy trì ổn định tiền tệ, ổn định lãi suất thị trường.
- Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó hạn chế tăng trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát trong những tháng cuối năm.
- Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do NHTƯ công bố, nhằm phát tín hiệu ổn định lãi suất thị trường.
- Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay chiết khấu trong hạn mức phân bổ.
Điều hành tỷ giá và quản lý dự trữ ngoại hối phù hợp với điều kiện mở cửa thị trường tài chính.
- Ngay từ đầu năm 2007, NHTƯ bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0,25% lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%.
- NHTƯ đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục tiêu thanh khoản và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước tính theo tuần nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời điểm cuối năm 2006 lên gần 18 tuần năm 2007.
Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tăng tổng phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát.
Năm 2008, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Cụ thể:
- Trong 6 tháng đầu năm, áp lực lạm phát gia tăng mang tính toàn cầu, trước tình hình đó, NHTƯ đã tăng tỷ lệ DTBB và mở rộng diện tiền gửi phải DTBB ở tất cả các kỳ hạn; phát hành tín phiếu bắt buộc 20.300 tỷ đồng cho các NHTM
- NHTƯ đã tăng tính thanh khoản cho thị trường bằng cách bơm mạnh tiền qua nghiệp vụ thị trường mở, chuyển từ đấu thầu lãi suất sang đấu thầu khối lượng, tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động tín dụng của các NHTM.
- Tuy nhiên, các biện pháp chính sách trên chưa ngăn chặn được đà tăng lãi suất huy động và mở rộng tín dụng của các NHTM, do vậy buộc NHTƯ phải quy định trần lãi suất huy động tiền gửi của các NHTM không được quá 12%.
- Một diễn biến bất lợi khác trên thị trường ngoại hối trong tháng 5/2008 là với mức thâm hụt thương mại lớn, lạm phát tăng cao. Để bình ổn thị trường ngoại hối, NHTƯ đã thực hiện hàng loạt biện pháp, như nới rộng biên độ tỷ giá từ ±1% lên mức ±2% tạo sự linh hoạt tỷ giá sát với cung - cầu thị trường; thực hiện mở rộng đối tượng bán ngoại tệ cho các NHTM, việc can thiệp dựa vào trạng thái ngoại tệ của các NHTM trong ngày, thực hiện minh bạch các thông tin về dự trữ ngoại hối.
- Trong tình hình kinh tế thế giới như vậy, mặc dù những tháng cuối năm 2008 mức độ ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nền kinh tế Việt Nam, nhất là thị trường tài chính Việt Nam còn nhỏ, song để ngăn chặn ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu và giảm áp lực lạm phát vẫn diễn ra ở Việt Nam đến tận tháng 9, NHTƯ đã phải tiếp tục áp dụng một số biện pháp hổ trợ thị trường như nâng cao lãi suất tín phiếu bắt buộc, trả lãi cho tiền gửi DTBB bằng VND.
Để kích thích kinh tế chống lại nguy cơ giảm phát, bắt đầu từ tháng 10, các loại lãi suất chỉ đạo đã liên tục được hạ xuống theo một lộ trình thích hợp. Lãi suất cơ bản từ mức 14%/năm sau 4 lần hạ hiện xuống còn 8,5%, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ tương ứng, biên độ dao động tỷ giá được nâng lên.
- Các chỉ số thị trường tiền tệ (tốc độ tăng M2, tín dụng và lãi suất) và các chỉ số kinh tế đạt được trong những tháng cuối năm cho thấy việc thực thi CSTT của NHTƯ năm 2008, mặc dù có những bất cập nhất định, nhưng thực sự đã có những tác động rất rõ nét đến việc ổn định thị trường tiền tệ, ngăn chặn đà lạm phát đang gia tăng rất cao, tạo thế chủ động cho NHTƯ trong thực thi CSTT, thiết lập được kỷ luật trên thị trường tiền tệ mà trước đây rất lỏng lẻo, làm thay đổi thái độ và hành vi ứng xử của các thành viên thị trường theo chiều hướng tích cực.
Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ.
Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng.
Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHTƯ đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hòa ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên ngân hàng
Tuy nhiên, diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục là thách thức cho thực thi CSTT như thâm hụt cán cân thương mại không được cải thiện mà vẫn tiếp tục gia tăng (theo số liệu của Tổng cục Hải quan 11 tháng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 113,6 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó, xuất khẩu là 51,33 tỷ USD, giảm 11,5% và nhập khẩu là 62,28 tỷ USD, giảm 17%).
Cán cân thương mại hàng hóa 11 tháng thâm hụt 10,95 tỷ USD bằng 21,3% xuất khẩu), nguồn bù đắp cho thâm hụt này suy giảm như nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm sút mạnh so với năm 2008, đầu tư gián tiếp nước ngoài không tăng mà còn giảm; nguồn kiều hối cũng giảm do khủng hoảng kinh tế toàn cầu... do vậy dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán, tình hình này tiếp tục gây bất lợi cho việc ổn định tỷ giá.
Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức thâm hụt ngân sách ở mức 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó mà gây áp lực giảm giá VND.
Trên thị trường tiền tệ xuất hiện những hiện tượng bất cập, mâu thuẫn nhau: Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, VND vẫn khan hiếm, biểu hiện ở áp lực tăng lãi suất, thanh khoản VND mỏng manh.
Sự khan hiếm tiền đồng về mặt lý thuyết là làm cho VND lên giá. Nhưng chính sách điều tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp (lãi suất cho vay hỗ trợ, trần lãi suất cho vay..) gây áp lực giảm giá VND, đồng thời kích thích nhu cầu sử dụng tiền đồng, tăng nhu cầu tín dụng, gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền đồng, gây áp lực cho NHTƯ phải cung ứng thêm tiền đồng. Điều này tiếp tục gây áp lực giảm giá VND. Đồng thời, sự biến động mạnh của giá vàng cũng có những tác động bất lợi đến tỷ giá.
Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá, NHTƯ đã thực hiện nâng các mức lãi suất chỉ đạo lên thêm 1%. Đây là giải pháp có tính đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế, vừa có tác dụng tiếp tục duy trì tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời chủ động ngăn chặn nguy cơ lạm phát và trước mắt ổn định thị trường ngoại hối.
III. Đánh giá quá trình thực hiện các công cụ của CSTT trong những năm qua
1. Những thành tựu đạt được
Mặc dù trong giai đoạn vừa qua (2007 – 2009) nền kinh tế Việt Nam có nhiều biến động thăng trầm, phải đối phó với lạm phát ở mức cao, phải chống chọi lại cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu (năm 2008), sang năm 2009 nền kinh tế lại có dấu hiệu giảm phát tuy nhiên với việc thực thi CSTT linh hoạt, hiệu quả của NHTƯ đã từng bước đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng và dần dần đang trên đà hồi phục. Cụ thể:
Năm 2007, với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ vốn tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện ở những kết quả sau:
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xảy ra những cú sốc về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính quốc tế
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh nhưng mặt bằng lãi suất trong năm ổn định.
+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm, trong bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND.
Nhìn chung, việc điều hành chính sách tiền tệ trong hai năm 2008 - 2009 đã thực sự thành công. NHTƯ đã có những quyết định hết sức nhanh nhạy, kịp thời trong điều hành lãi suất, tỷ giá, … và những liệu pháp đó đã nhanh chóng có tác động điều tiết rõ rệt đối với thị trường. Cụ thể:
- Về lãi suất
Sau hơn hai năm giữ ổn định ở mức 8,25%/năm, lãi suất cơ bản (LSCB) đã được NHTƯ điều chỉnh tăng lên mức 8,75% từ 01/02/2008 và nhảy vọt lên mức 12% từ 19/05/08. Chưa đầy 1 tháng sau đó, từ ngày 11/06/09, LSCB đã được đẩy lên mức đỉnh – 14%. Cùng với LSCB, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng liên tiếp được điều chỉnh tăng với đỉnh tương ứng là 13% và 15%. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD cũng được điều chỉnh tăng trong khi lãi suất DTBB bị điều chỉnh giảm. NHTƯ còn phát hành trên 20.000 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các NHTM.
Hình 1: Diễn biến LSCB của Việt Nam thời gian qua
Nguồn: NHNN Việt Nam
Chính sách tiền tệ thắt chặt với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã tạo ra một lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm mạnh cấp tín dụng từ các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm 3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm). Tỷ lệ lạm phát cả năm 2008 chỉ còn là 19,89%.
Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHTƯ đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng. LSCB từ từ giảm xuống, cùng với LSCB, LSTCK, LSTCV cũng được điều chỉnh giảm; các NHTM được bán tín phiếu bắt buộc trước hạn; Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được nới lỏng dần đi kèm với việc điều chỉnh lãi suất DTBB. Các công cụ trên đã tác động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức cung tiền cho nền kinh tế.
- Về tỷ giá
Diễn biến tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam từ đầu năm 2008 đến nay là hết sức phức tạp. Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng xuống dưới 16.000 và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong ngân hàng. Nhưng chỉ qua đầu quý 2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có lúc đã lên tới 19.500.
NHTƯ đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% (từ ngày 26/06/08) đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thông, công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam (điều chưa hề có tiền lệ tại Việt Nam), … Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức 16.500 cho đến hết quý 3/08.
Từ cuối năm 2008 đến nay, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn cung ngoại tệ của Việt Nam; cộng thêm tâm lý giữ ngoại tệ của dân cư và các thành phần kinh tế đã dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn nóng, phố biến ở mức 18.000. NHTƯ đã thêm hai lần điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá (+3% từ 06/11/08 và +5% từ 23/03/09) và triển khai một số công cụ can thiệp khác. Vì vậy, tỷ giá ngoại tệ đang dần ổn định, nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán những mặt hàng thiết yếu được đáp ứng cơ bản đầy đủ.
- Hỗ trợ lãi suất
Đầu năm 2009, Chính Phủ đã đưa ra gói kích cầu bao gồm các nhóm giải pháp cơ bản:
- Với doanh nghiệp: giảm, giãn thuế TNDN, hỗ trợ lãi suất ở mức 4%.
- Với dân cư: trợ cấp người nghèo, giãn/miễn thuế TNCN, giảm VAT, đào tạo lao động.
- Về phía Chính Phủ: tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng chi tiêu công, đẩy mạnh xúc tiến thương mại để tăng xuất khẩu.
Nổi bật và có tác động rõ rệt nhất là chính sách hỗ trợ lãi suất mà ở đó vai trò của hệ thống ngân hàng và các công cụ chính sách tiền tệ một lần nữa lại được phát huy mạnh mẽ.
Để đối phó với suy thoái, Chính Phủ của hầu hết các nước đều đưa ra các gói hỗ trợ lên tới hàng ngàn tỷ USD với cách thức chủ yếu là hỗ trợ trực tiếp: mua tài sản xấu, sở hữu vốn của các tập đoàn tài chính và tập đoàn công nghiệp lớn; chi tiền cho người nộp thuế, người tiêu dùng; thưởng tiền cho người hủy xe cũ, mua xe mới, … Gói hỗ trợ của Chính Phủ Việt Nam được định lượng là 1 tỷ USD với cách làm rất sáng tạo, rất linh hoạt. Phần lớn tiền hỗ trợ không được chi trực tiếp mà được hỗ trợ gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất. Bằng cách này chúng ta đã kích thích tăng trưởng mạnh tín dụng, giúp các doanh nghiệp có được nguồn vốn giá rẻ nên giảm được giá thành sản phẩm, duy trì ổn định sản xuất, kích thích được nhu cầu trong nước, …
2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân
2.1 Hạn chế
Có thể nói, điều hành CSTT năm 2007 về cơ bản, đạt được mục tiêu đặt ra, tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động, cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO nên việc điều hành CSTT đã phải đối mặt với nhiều thách thức làm cho việc thực hiện mục tiêu ban đầu còn có hạn chế nhất định.
Thách thức lớn nhất mà điều hành CSTT năm 2007 phải đối mặt, đó là dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều. (Theo số liệu thống kê đến tháng 10/2007, doanh số phát sinh tiền gửi bằng VND của người không cư trú tại các NHTM thì có khoảng 13 tỷ USD của người không cư trú được chuyển cho người cư trú cho mục đích đầu tư vào thị trường chứng khoán, đầu tư vào bất động sản và chi tiêu các nhu cầu tiêu dùng khác trong nước). Tình hình này đã có tác động làm tăng tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế (tăng M2); làm tăng cung ngoại tệ, gây sức ép làm VND lên giá; dự trữ vượt của hệ thống ngân hàng tăng mạnh - là một nhân tố thúc đẩy tín dụng tăng nhanh; dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) có tác động thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển mạnh hơn, và một lượng vốn nhất định của dân cư cũng như từ hệ thống ngân hàng được đầu tư trên thị trường chứng khoán, qua đó đã làm tăng dư nợ cho vay nền kinh tế.
Cùng với việc gia tăng mạnh dòng vốn đầu tư nước ngoài là sự tăng giá khó lường mang tính toàn cầu của một một số mặt hàng, như giá dầu thô, giá lương thực, bên cạnh đó là hạn hán lũ lụt, dịch bệnh gia cầm trong nước đã có tác động mạnh đến mức mức giá tiêu dùng nói chung. Trong bối cảnh trên, CSTT phải cùng một lúc đạt hai mục tiêu là vừa phải hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế đạt 8,5%, vừa phải kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng là cực kỳ khó khăn. Giải pháp ổn định lãi suất hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế và ổn định thị trường tiền tệ không để xảy ra sự dịch chuyển dòng vốn, nhưng lại rất khó khăn để kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế và kiềm chế lạm phát.
Năm 2007 dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào ào ạt, việc hạn chế dòng vốn này vào Việt Nam là vấn đề không đơn giản khi Việt Nam đã gia nhập WTO, thị trường tài chính từng bước tự do hóa. Vì vậy, việc hạn chế sự gia tăng nguồn vốn nước ngoài nằm ngoài tầm kiểm soát của NHTƯ, mà đòi hỏi phải có chính sách vĩ mô đồng bộ để đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả, giám sát chặt chẽ luồng vốn đầu tư gián tiếp, hạn chế tình trạng đầu cơ trên thị trường chứng khoán,… nhằm hạn chế những tác động bất lợi của dòng vốn này.
Năm 2008, NHTƯ đã thực hiện một loạt các biện pháp mạnh nhằm trị bằng được “cơn ho” lạm phát. Việc thắt chặt tiền tệ với các biện pháp như tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu… là phù hợp với xu thế tự do hóa và thông lệ quốc tế, ở đó, NHTƯ cần thực thi chính sách tiền tệ của mình thông qua các công cụ gián tiếp. Thế nhưng, các liệu pháp trên vẫn chưa đủ liều và hình như chưa đủ răn đe.
Chính sách thắt chặt tiền tệ thông qua việc phát hành tín phiếu trên thị trường mở thì không có gì lạ, song điều mà nhiều người dễ nhận thấy là tần suất thực hiện các liệu pháp tiền tệ là quá dày và mang tính mệnh lệnh hành chính không phù hợp với xu thế thị trường.
2.2 Nguyên nhân
Một là, NHTƯ quá bị động và đôi khi còn chủ quan trong việc thực thi chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát. Sự bị động này một phần là do NHTƯ thiếu tính độc lập và tự chủ trong việc quyết định và thực thi các chỉ tiêu tiền tệ. Cần tăng cường tính độc lập và tự chịu trách nhiệm của NHTƯ trong việc thực thi chính sách tiền tệ.Thường trước khi thông qua một số Quyết định nào đó, NHTƯ phải xin phép hoặc hỏi ý kiến Chính phủ. Điều này tất yếu dẫn đến sự chậm trễ trong việc triển khai chính sách tiền tệ, trong khi đó, các chính sách tiền tệ luôn có độ trễ của nó trừ các chính sách hành chính. Bên cạnh đó, do công tác dự báo yếu kém cộng với sự chậm trễ trong việc công bố các chỉ tiêu kinh tế nên khi hiện tượng lạm phát có khuynh hướng bùng phát nhanh thì NHTƯ không kịp trở tay.
Hai là, các công cụ chính sách tiền tệ được vận dụng không hợp lý nên bản thân chúng tỏ ra không đủ lực để kiểm soát lạm phát hiệu quả. Chẳng hạn đối với công cụ dự trù bắt buộc, NHTƯ đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên gấp đôi từ 5% lên 10% (tiền gửi dưới 12 tháng) bởi Quyết định số 1141 vào giữa năm 2007, trong khi đó lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu thì sau hơn 2 năm (từ tháng 12/2005 đến 1/2008) mới có điều chỉnh mới.
Việc chia các tỷ lệ dự trù bắt buộc theo các kỳ hạn tiền gửi cũng không hợp lý, bởi theo nguyên tắc thì loại tiền gửi không kỳ hạn với đặc tính rủi ro cao và khả năng tạo tiền lớn thì tỷ lệ dự trữ phải lớn hơn so với các kỳ hạn khác, trong khi đó NHTƯ áp dụng chung một mức tỷ lệ cho loại tiền gửi dưới 12 tháng kể cả tiền gửi không kỳ hạn. Chính điều này nên NHTƯ cũng không biết khả năng hệ thống ngân hàng có thể tạo thêm bao nhiêu tiền tín dụng trên 1 đồng tiền cơ sở tăng thêm. Hay nói các khác là số nhân tiền tệ đã bị bóp méo.
Bên cạnh đó là nghiệp vụ thị trường mở với tư cách là một công cụ hiện đại bởi tính thị trường của nó. Trong thực tế hoạt động, số thành viên tham gia trên thị trường mở cũng hạn chế với khoảng 2 - 3 thành viên/ phiên trong số hơn 40 ngân hàng cổ phần lẫn quốc doanh đang hoạt động hiện nay tại Việt Nam (chưa kể các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh), thậm chí có phiên giao dịch không có thành viên nào.
Ba là, tính bất lực của các công cụ chính sách tiền tệ hướng thị trường. Thực tế, NHTƯ đã thay dần các công cụ chính sách tiền tệ mang tính hành chính như hạn mức tín dụng, kiếm soát trực tiếp lãi suất... Song khi hệ thống thể chế hỗ trợ thị trường còn manh nha, yếu kém và thiếu đồng bộ thì việc chuyển sang sử dụng các công cụ kiểm soát gián tiếp đã làm cho NHTƯ bị “hụt tay”. Khi đó, NHTƯ chỉ có một con đường là lại tìm về các công cụ hành chính. Quyết định 306 về việc buộc các NHTM phải mua tín phiếu và phân bổ chỉ tiêu cho từng NHTM là minh chứng rõ nét nhất.
Bên cạnh đó, do thiếu năng lực và kinh nghiệm điều hành chính sách trong bối cảnh mở cửa và hội nhập. Việc tiếp cận nền tài chính quốc tế và dòng chảy tài chính bên ngoài đổ vào tăng cao đã làm cho đồng nội tệ có xu hướng lên giá đe dọa sự thâm hụt nghiêm trọng của cán cân thương mại. Mặc dù tính chung thì cán cân thanh toán Việt Nam thặng dư do được bù đắp từ sự dồi dào của cán cân vốn, song với chiến lược khuyến khích xuất khẩu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các công cụ của CSTT ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện.doc