Đề án Các giải pháp để phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam

Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phù hợp, nó tạo ra những bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời nó cũng ứng với nền kinh tế thời chiến và nó đóng vai trò quan trọng để tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Vì nó huy động ở mức cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyền.

Nhưng sau khi giải phóng toàn vẹn đất nước thì kinh tế lại nằm trong một thời kỳ mới, thời kỳ hoà bình. Tuy thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung nhưng nền kinh tế cũng một lục tồn tại cả ba loại hình kinh tế tự cung tự cấp, kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá.

Do các quan hệ kinh tế cũ thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lí kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi nên làm xuất hiện nhiều tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc không cần nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lí kinh tế mà chung ta không quản lí có hiệu quả các nguồn tài nguyên xản xuất của đất nước bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm,sản xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự kiện này đã gây các hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng của nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nền, thu nhập từ nền kinh tế không đủ cho tiêu dùng, tiết kiệm không có. Vốn đầu tư chủ yếu dựa vào viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo cao, khủng hoảng đi liền với lạm phát cao làm cho đời sống của nhân dân vị giảm sút, thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng, viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta tới bức bách phải đổi mới.

 

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1488 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các giải pháp để phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n bán hàng hoá của mình với giá cao, người mua lại luôn luôn muốn mua hàng hoá với giá thấp. Trên cơ sở giá thị trường, giá cả thị trường là kết quả thoả thuận giữa người mua với người bán. Giá cả thị trường điều hoà được quan hệ giữa người mua với người bán. Thông qua sự biến động của giá cả thị trường, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Điều tiết sản xuất hàng hoá được hiểu theo nghĩa là điều tiết tư liệu sản xuất và sức lao động vào từng ngành kinh tế. Nếu giá cả của hàng hoá trong một ngành kinh tế nào đó có xu hướng tăng lên thì ngành đó sẽ thu hút thêm lao động xã hội, làm cho quy mô sản xuất của ngành này tăng lên. Giá cả của hàng hoá nhiều lợi nhuận hơn. Điều này tạo ra động lực kinh tế thúc đẩy những người mở rộng quy mô sản xuất. Nếu giá cả giảm xuống thì sẽ làm cho quy mô sản xuất thu hẹp lại. Như vậy, lợi nhuận là động lực thúc đẩy hoạt động của cơ chế thị trường. Theo C.Mác những nhà kinh doanh dưới chủ nghĩa tư bản "ghét cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít, chẳng khác gì giới tự nhiên ghê sợ chân không". Thông qua sự biến động của giá cả thị trường, quy luật giá trị còn có tác dụng điều tiết lưu thông hàng hoá nghĩa là chi phối luồng vận động của hàng hoá. Hàng hoá sẽ được vận chuyển từ những thị trường có giá thấp đến những thị trường có giá cao. Khả năng tách rời giá trị của giá cả không phải là nhược điểm của quy luật giá trị, mà trái lại nó lại là vẻ đẹp riêng biệt của quy luật giá trị, là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Nếu giá cả thị trường của hàng hoá luôn luôn ngang bằng với giá trị, nói cách khách đi điều đó cũng có nghĩa là phủ định của sự hoạt động của quy luật giá trị. Trong những giai đoạn khác nhau của sản xuất và lưu thông hàng hoá, quy luật giá trị cũng có những biểu hiện hoạt động khác nhau. Trong giai đoạn cạnh tranh tự do, vì giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất (giá cả sản xuất = chi phí sản xuất + lợi nhuận bình quân) cho nên sự hoạt động của quy luật giá trị trong giai đoạn này có biểu hiện: giá cả thị trường lên xuống xoay xung quanh giảm giá cả sản xuất. Trong giai đoạn động quyền, sự hoạt động của quy luật giá trị lại có biểu hiện mới: giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá cả độc quyền. Giới hạn thấp nhất của giá cả thị trường chính là chi phí sản xuất (C+V) giá cả phải bù đắp được chi phí sản xuất. Giới hạn trên của giá cả tuỳ thuộc hoàn cảnh thị trường. Người bán phải biến bán với giá trị cao, nhưng nếu mua luôn mua với giá trị thấp, giá bán cao quá sẽ mất khách hàng, hàng hoá khó tiêu thụ, bước chuyển hàng hoá thành tiền không thực hiện được. Vì vậy, giới hạn cao của giá cả chính là nhu cầu có khả năng thanh toán của người mua. Giá cả thị trường có những chức năng sau đây: -Chức năng thông tin: giá cả phát tín hiệu thông tin qua đó các doanh nghiệp biết được mình cần phải sản xuất loại hàng hoá gì để có nhiều lợi nhuận. Giá cả thấp sẽ không hấp dẫn các nhà kinh doanh. - Giá cả làm cân bằng cung cầu nên các nguồn lực được sử dụng hợp lý. - Giá cả làm chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư trong xã hội. -Giá cả là phương tiện nối liền hàng hoá với tiền tệ, người sản xuất với người tiêu dùng. Nói tới cơ chế thị trường là nói đến cơ chế vận động của cầu, quy luật lưu thông tiền tệ. … Quy luật lưu thông tiền tệ xác định khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhằm bảo đảm sự hoạt động nhịp nhàng của cơ chế thị trường. Việc thừa hoặc thiếu tiền tệ đều dẫn tới việc tiêu cực. Nếu thiếu tiền, hàng hoá không lưu thông được. Nếu thừa tiền sẽ gây nên tình trạng lạm phát, giá cả hàng hoá tăng vọt, thị trường bất ổn định. Nói tới cơ chế thị trường cần phải nói tới cạnh tranh. Đó là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế nhằm dành phần sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi cho mình để thu lợi nhuận cao. Cạnh tranh là mội trường tồn tại của cơ chế thị trường. Nó đòi hỏi mỗi chủ thể kinh tế phải chuẩn bị cho mình khả năng cạnh tranh thắng lợi trên thị trường. Sự tồn tại và phát triển của cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan đối với những xã hội còn tồn tạo nền kinh tế hàng hoá. Coi nhẹ hay bỏ qua vai trò của nền kinh tế thị trường là một trong những nguyên nhân gây thất bị trên lĩnh vực kinh tế. Trong lịch sử cơ chế thị trường có được không gian rộng lớn ở giai đoạn cạnh tranh tự do tư bản chủ nghĩa. Vì vậy tác động của cơ chế thị trường được phát hiện khá sớm. Cơ chế thị trường được coi là "bàn tay vô hình" điều tiết sự vận động của nền kinh tế hàng hoá. e. Những ưu điểm và nhược điểm của cơ chế thị trường. Thực tế có thể đánh giá đầy đủ những ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường. Tuy nhiên có thể nêu lên những ưu điểm của cơ chế thị trường như sau: Một là: cơ chế thị trường kích thích việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng xuất lao động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. Kinh tế thị trường lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động. Động lực này đòi hỏi các doanh nghiệp hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp hơn chi phí lao động xã hội cần thiết. Điều này đòi hỏi phải nâng cao năng xuất lao động trên cơ sở áp dụng những thành tựu mớic của khoa học kỹ thuật công nghệ. Hai là : cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh chóng. Sở dĩ như vậy là vì: trong nền kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc ao đưa ra thị trường một loại hàng hoá mới và đưa ra sớm nhất sẽ thu được nhiều lợi nhuận nhất. Điều đó tất yếu đòi hỏi phải năng động thường xuyên và đổi mới thường xuyên. Ba là: trong nền kinh tế thị trường hàng hoá rất phong phú và đa dạng. Do vậy nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả mãn này càng tốt hơn những nhu cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển toàn diện của mọi thành viên xã hội. Song cơ ché thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo, mà nó vốn có những khuyết tật dưới đây của cơ chế thị trường: Đó là những căn bệnh gắn liền với sự hoạt động của cơ chế thị trường đó là: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát, phân hoá giàu nghèo và gây ô nhiễm môi trường. Khủng hoảng sản xuất "thừa" là căn bệnh cố hữu của các nền kinh tế thị trường phát triển. ở đây, do mức cung hàng hoá vượt quá mức cầu có khả năng thanh toán, cho nên dẫn tới tình trạng "dư thừa hàng hoá". Nguyên nhân của tình trạng này là do mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này được biểu hiện ở tính kế thừa cao độ trong từng doanh nghiệp với tính vô chính phủ trong toàn bộ nền sản xuất xã hội. Xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn đội mâu thuẫn với sức mua có hạn của quần chúng. Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư và giai cấp vô sản. Gắn liền với khủng hoảng kinh tế là nạn thất nghiệp của người lao động - căn bệnh nan giải của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường tạo ra sự phân hoá giai cấp, do đó nó cũng làm tăng thêm mâu thuẫn giai cấp. Tác động của các quy luật kinh tế thị trường đã dẫn đến tình trạng một số người phát giấy có, còn một số người khác bị phá sản trở thành những người làm thuê. Sự đối kháng về lợi ích kinh tế là cơ sở đấu tranh giai cấp. Một khuyết tật khác của cơ chế thị trường là gây ô nhiễm môi trường sinh thái, tàn phá đất đất đai, rừng đầu nguồnm nguồn nước… do chạy theo lợi nhuận nên bất chấp sự ô nhiễm môi trường. Tóm lại, cơ chế thị trường có tác động điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá, chi phối sự vận động của nền kinh tế thị trường. Sự điều tiết đó mang tính chất mù quáng . Các chủ thể tham gia thị trường hoạt động vì lợi ích riêng của mình, cho nên sự vận động của cơ chế thị trường tất yếu dẫn tới những thói lừa gạt, phá sản và thất nghiệp… tất cả đã gây nên tình trạng không bình thường trong quan hệ kinh tế và dẫn tới sự sự mất ổn định xã hội. 4. Quan điểm của Lênin về kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội. a. Điều kiện ra đời. Không lâu sau cách mạng tháng mười, việc thực hiện kế hoạch xã hội chủ nghĩa xã hội của của Lênin bị gián đoạn bởi cuộc chiến tranh năm 1918-1920. Trong thời kỳ nài V.I. Lênin đã áp dụng chính sách cộng sản thời chiến là trưng thu lương thực thừa của nông dân, xoá bỏ quan hệ hàng hoá tiền tệ, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ máy nhà nước. Nhờ chính sách này quân đội đủ sức để chiến thắng kẻ thù, bảo vệ nhà nước Xô Viết. Tuy nhiên, khi hoà bình lập lại, chính sách cộng sản thời chiến không còn thích hợp. Nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển sản xuất. Hậu quả chiến tranh đối với nền kinh tế rất nặng nề, thêm vào đó chính sách trưng thu lương thực thừa đã làm mất động lực đối với nông dân. Việc xoá bỏ hàng hoá, quan hệ hàng hoá - tiền tệ làm mất tính năng động của nền kinh tế vốn dĩ mới bước vào giai đoạn phát triển. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách kinh tế mới thích ứng thay thế. Chính sách kinh tế mới được V.I.Lênin đề xướng để đáp ứng yêu cầu này nhằm tiếp tục kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới. b. Nội dung quan điểm về kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội của Lênin. ở nước Nga thì Lênin đã vạch rõ 5 thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là: - Thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ - Thành phần kinh tế tư bản tư nhân. - Thành phần kinh tế tư bản nhà nước. - Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Năm thành phần kinh tế này cùng tồn tại và đan xen vào nhau hình thành nên thời kỳ quá độ ở nước Nga lúc đó. Lênin cũng khái quát chung mà trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì các nước đều tồn taij 3 thành phần kinh tế cơ bản laf: - Kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. - Kinh tế tư bản tư nhân. - Kinh tế xã hội chủ nghĩa. Và tương ứng với nó là 3 giai cấp cùng tồn tại trong thời kỳ quá độ là: - Giai cấp tiểu tư sản (chủ yếu là nông dân). - Giai cấp tư sản. - Giai cấp công nhân. Các thành phần kinh tế và giai cấp tuy có quan hệ với nhau nhưng chúng lại có tính độc lập tương đối và đối lập với nhau. Đây cũng chính là mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội với Chủ nghĩa tư bản, mâu thuẩn giữa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội với con đường đi lên chủ nghĩa tư bản. Đây là mâu thuẫn giữa "ai thắng ai", giữa chủ nghĩa xã hội mới ra đời còn non yếu với chủ nghĩa tư bản tuy bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn, mâu thuẫn cơ bản này được phản ánh trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Như vậy giải quyết được mâu thuẫn đó là xác lập sự toàn thắng của chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản dưới sự lãnh đạo chủ động và tích cực của chủ nghĩa cộng sản. Lênin đã đưa quan điểm mới của mình về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội qua "chính sách kinh tế mới" (NEP) của mình. Nội dung của chính sách NEP gồm những phần chủ yếu sau: Một là: thay chính sách trung thu lương thực thừa bằng thuế lương thực. Việc thu lương thực của nhân dân trước kia rồi mới phân phát lại cho nhân dân bằng tem phiếu bị xoá bỏ. Thay vào đấy là nhà nước chi thu một phần sản phẩm nhất định của nông dân, nó như là địa tô mà người dân phải trả cho nhà nước nhưng địa tô này không là cao mà là nhỏ so với sản phẩm nông dân làm ra. Như vậy, sản phẩm do nông dân làm ra không bị thu hết mà chỉ có một phần nhỏ phần còn lại thì người dân có tự do quyền sử dụng. Hai là, tổ chức thị trường thương nghiệp, thiết lập quan hệ hàng hoá - tiền tệ giữa nhà nước và nông dân, giữa thành và nông dân, giữa công nghiệp và nông nghiệp. Vì nền kinh tế nhiều thành phần do vậy phải có sự trao đổi sản phẩm giữa các thành phần kinh tế với nhau. Nên đòi hỏi phải thiết lập tổ chức thanh toán thương nghiệp và quan hệ hàng hoá - tiền tệ tất yếu phải có. Và quan hệ này được thực hiện ở mọi nơi, và đối với mọi thành phần kinh tế Ba là, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sử dụng rộng rãi các hình thức kinh tế quá độ. Nền kinh tế hàng hoá bao gồm cả thành phần nhà nước hay đại diện cho hình thức kinh tế xã hội chủ nghĩa và cả thành phần kinh tế tư bản. Nhưng trong đó phải lấy thành phần kinh tế nhà nước là quan trọng nhất, có vai trò điều khiển nền kinh tế cả nước. Các thành phần kinh tế khác có vai trò bổ xung, kích thích thúc đẩy nền kinh tế và tạo ra những cơ sở vật chất bổ sung để tiến lên xã hội chủ nghĩa. Quan điểm về kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội của Lênin là rất đúng đắn. Nó phù hợp với sự phát triển tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa xã hội. Với chính sách kinh tế mới (NEP) của Lênin có ý nghĩa quan trọng đối với sự khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá trong nước Liên Xô cũ nói riêng, cũng như quốc tế nói chung và với các nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó có nước ta. ii. Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 1. Thực trạng nền kinh tế ở Việt Nam Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa, nước ta bắt xây dựng mô hình kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của nhân dân ta có thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa khác, mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được những tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch hoá nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển nền kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phù hợp, nó tạo ra những bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời nó cũng ứng với nền kinh tế thời chiến và nó đóng vai trò quan trọng để tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Vì nó huy động ở mức cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyền. Nhưng sau khi giải phóng toàn vẹn đất nước thì kinh tế lại nằm trong một thời kỳ mới, thời kỳ hoà bình. Tuy thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung nhưng nền kinh tế cũng một lục tồn tại cả ba loại hình kinh tế tự cung tự cấp, kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. Do các quan hệ kinh tế cũ thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lí kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi nên làm xuất hiện nhiều tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc không cần nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lí kinh tế mà chung ta không quản lí có hiệu quả các nguồn tài nguyên xản xuất của đất nước bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm,sản xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự kiện này đã gây các hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng của nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nền, thu nhập từ nền kinh tế không đủ cho tiêu dùng, tiết kiệm không có. Vốn đầu tư chủ yếu dựa vào viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo cao, khủng hoảng đi liền với lạm phát cao làm cho đời sống của nhân dân vị giảm sút, thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng, viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta tới bức bách phải đổi mới. Tại đại hội VI (1986) của Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế ng thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lí từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến đại hội VII (1991) Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta thành lt hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, theo định hướng XHCN có sự quản lí của nhà nước. Đó là sự đổi mang tính tất yéu khách quan. 2. Đặc điểm của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. a. Đặc điểm chung của nền kinh tế thị trường ở nước ta với nền kinh tế thị trường khác. Sự giống nhau giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế đều xuất phát từ tính khách quan của nó. Cả hai kinh tế thị trường này chịu sự tác động của cơ chế thị trường với hệ thống các quy luật cạnh tranh, quy luật giá tr, quy luật cung - cầu, quy luật lưu thông tiền tệ…, có các chủ thể kinh tế độc lập, tự chủ để có quyền ra những quyết định phi tập trung hoá, thị trường có vai trò quyết định trong việc phân phối các nguồn lực kinh tế, giá cả do thị trường quyết định… Đồng thời cả nền kinh tế thị trường ở tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa đều là các nền kinh tế hỗn hợp, tức là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết, quản lí của nhà nước. Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà nước ở các nền kinh tế khác nhau, không có nền kinh tế thị trường thâm thuý, chỉ vận hành theo cơ chế thị trường. b. Những nét riêng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Nhưng bất cứ nền kinh tế thị trường nào cũng hoạt động trong những điều kiện lịch sử xã hội của một nước nhất định, nên nó bị chi phối bởi điều kiện lịch sử và đặc biệt là chế độ ch của nước đó, và do đó có những đặc điểm riêng phân biệt với các nền kinh tế thị trường của các nước khác. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng có những đặc trưng riêng. Cụ thể: Thứ nhất: Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình vận động từ nền kinh tế hàng hoá kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc thành nền kinh tế hàng hoá phát triển thấp đến cao. Đặc điểm này xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế nước ta biểu hiện ở các mặt sau: - Trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém. Do từ nền kinh tế sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ TBCN lên chủ nghĩa xã hội. - Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, kém hiệu quả. Từ điểm xuất phát thấp, nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ cho nên cơ cấu kinh tế của nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Hiện tượng độc canh cây lúa vẫn còn tồn tại. Ngành nghề chưa phát triển. Từ đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay, tuy cơ cấu kinh tế đã có nhiều thay đổi, nhưng vẫn chưa hình thành được một cơ cấu kinh tế hợp lí và có hiệu quả. Một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý và có hiệu quả khi nó phản ánh đúng yêu cầu của các quy luật khách quan, khi nó cho phép khai thác mọi năng lực của đất nước và thực hiện được sự phân công hợp tác quốc tế. - Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Chúng ta mới từng bước có thị trường hàng hoá nói chung, trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thông thường với hệ số giá cả và quan hệ mua bán bình thường theo cơ chế thị trường.Về cơ bản vẫn chưa có thị trường sức lao động mới chỉ có ở khu vực ngoài quốc doanh với hình thức thuê mướn còn thô sơ. Chưa có thị trường tiền tệ và thị trường vốn hoặc nếu có chỉ hoạt động ngoài quốc doanh với hình thức vay, trả, mua bán thô sơ. Khu vực nhà nước vẫn sử dụng lãi suất, tỷ giá và quan hệ tài chính tiền tệ do nhà nước quy định. Chưa có lãi suất, tỷ giá và tín dụng thực sự theo cơ chế thị trường… - Năng suất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp. Nó phản ánh tổng hợp thực trạng kinh tế hàng hoá còn kém phát triển. Do trình độ cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ còn thấp kém kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội còn kém, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, thị trường trong nước còn chưa phát triển … cho nên năng suất lao động xã hội và thu nhập bình quân tính theo đầu người ở nước ta tất yếu phải thấp. Hai là: nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần bao gồm: thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế hợp tác xãm thành phần kinh tế tư bản nhà nước, thành phần kinh tế cá thể và tiểu chủ,thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Nhưng trong đó thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Từ ba loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, cụ thể là 5 thành phần trên. Nhưng không vì lấy thành phần kinh tế nhà nước làm chủ đạo mà cũng phải khuyến khích tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Từ đó tạo nên một thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế quốc doanh, các đơn vị kinh tế tư nhân, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nước, các hình thức đan xen và thâm nhập vào nhau giữa các thành phần kinh tế đều có thể tham gia thị trường với tư cách chủ thể thị trường bình đẳng. Việc xác định vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường của các nước khác. Trong thời kỳ mới cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một trong những giải pháp cơ bản để cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước và cải thiện căn bản cơ chế quản lí doanh nghiệp. Nhà nước thông qua chế độ tham dự cổ phần để khống chế hoạt động của các doanh nghiệp theo định hướng của nhà nước. Ba là: nền kinh tế hàng hoá phát triển theo cơ cấu kinh tế mở giữa nước ta với các nước trên thế giới. Nền kinh tế hàng hoá nước ta một thời kỳ dài tồn tại với cơ cấu kinh tế khép kín, tự cung tự cấp gắn liền với kinh tế tự nhiên. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước kia của ta thì cũng chủ quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa với nhau là chủ yếu. Ngày nay ta phát triển kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước cho nên ta mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước trên thế giới. Dựa trên quan điểm: "Việt Nam muốn là bạn với các nước, da phương hoá và đa dạng hoá trên các phương diện đối ngoại". Có như vậy chúng ta mới tranh thủ được vốn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trình độ quản lí tiên tiến mới phát triển nhanh chóng hiện đại xã hội chủ nghĩa mới tham gia vào phân công hợp tác quốc tế. Mới tham quan vào quá trình quốc tế hoá và khu vực. Muốn vậy đòi hỏi phải có chính sách đúng đắn và đảm bảo quyền bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng và đảm bảo chủ quyền của nhau, không can thiệp vào nội bộ của nhau. Bốn là: nền kinh tế hàng hoá phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và có sự quản lí vĩ mô của nhà nước. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng vận dụng theo quy luật kinh tế nội tại của kinh tế thị trường nói chung, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế. Sự quản lí của nhà nước nhằm hạn chế, khắc phục những "thất bại của thị trường", thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không thể khắc phục được. Nền kinh tế thị trường ở nước ta không phải là kinh tế thị trường tự do, thả nổi mà là nền kinh tế có định hướng mục tiêu xã hội - xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển kinh tế thị trường được xem là phương thức, con người thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Vai trò quản lí của nhà nước trong nền kinh tế thị trường hết sức quan trọng. Sự quản lí của nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả , đặc biệt là bảo đảm sự công bằng và tiến bộ xã hội. Không có ai ngoài nhà nước lại có thể làm giảm bớt sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thọ và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các vùng của đất nước. Nhưng cũng cần phải nhấn mạnh rằng sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế sao cho tương hợp với thị trường, nhà nước sử dụng các biện pháp kinh tế là chính để điều tiết nền kinh tế. Tóm lại: để thực hiện thành công phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải : Giữ vững và tăng cường bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta: nhà nước của dân, do dân, vì dân, tăng cương vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Kinh tế dựa trên chế độ công hữu bao gồm kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác phải được củng cố và mở rộng, kinh tế nhà nước phải thực hiện được vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Tăng cường nâng cao chất lượng quản lí kinh tế vĩ mô của nhà nước, đặc biệt là thông qua chính sách phân phối thu thập để đạt được sự tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn đặc điểm trên có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nó nói lên nội dung của việc phát triển kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 3. Những điều kiện tiền đề để phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Để phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thì không thể có những điều kiện tiền đề để phát triển. Các tiền đó cụ thể như sau: Trước hết chúng ta có một Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng ta là một Đảng mạnh, nắm vững lý luận chủ nghĩa xã hội Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta là một Đảng hết lòng vì dân vì nước. Dám làm và dám chịu, luôn luôn đánh giá lại mình và tìm những khuyết điểm để sửa chữa lại cho đúng. Bằng chứng là ta đã nhận định đúng đắn cần phải đổi mới nền kinh tế sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và gần đây nữa là Đảng thực hiện phê bình và tự phê bình của các cơ sở Đảng cũng như các Đảng viên. Thứ hai là, đất nước chúng ta có những tiềm năng lớn về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên. Đó là các lợi thế so sánh trên trường quốc tế và là điều kiện tiền đề để phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta có nhiều khoáng sản, chủng loại phong phú, có trữ lượng tương đối lớn. Chúng ta có những điều kiện mà không phải nước nào cũng có được. Nhưng hiện thời các tiềm năng và điều kiện ở nước ta chưa được khai thác hoặc chỉ ở mức mới khai với quy mô nhỏ. Thứ ba là, nhân dân ta có một truyền thống đáng quý, đáng tự hào là cần cù, sáng tạo, ham học hỏi, thông minh, chúng ta có một truyền thốn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKinh tế thị trường và sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta để phát triển kinh tế.DOC
Tài liệu liên quan