Mục lục
Lời giới thiệu 1
Nội dung 2
I. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại 2
1. Tổng quan về ngân hàng thương mại 2
1.1. Ngân hàng thương mại-lịch sử hình thành và phát triển 2
1.2. Khái quát hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại 3
2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại 6
2.1.Khái niệm về tín dụng của NHTMQD 6
2.1.1.Khái niệm về tín dụng 6
2.1.2.Tín dụng ngân hàng thương mại 7
2.2.Các hình thức tín dụng của các NHTM 7
2.2.1. Phân loại căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay 7
2.2.1.1. Cho vay tiêu dùng 7
2.2.1.2. Cho vay kinh doanh 9
2.2.1.2.1. Cho vay ngắn hạn 9
a.Chiết khấu thương phiếu 9
b. Cho vay từng lần 10
c. Cho vay theo hạn mức 10
d. Cho vay thấu chi 11
2.2.1.2.2. Cho vay trung hạn và dài hạn 11
2.2.2. Căn cứ vào điều kiện đảm bảo đối với khoản vay 12
2.2.2.1. Cho vay có đảm bảo 12
2.2.2.2. Cho vay không có đảm bảo 13
2.2.3. Căn cứ vào phương thức hoàn trả 13
2.3. Qui trình cho vay 14
2.3.1. Giai đoạn trước khi cho khách hàng vay vốn. 14
2.3.1.1. Hồ sơ vay vốn 14
2.3.1.2. Phân tích tín dụng 14
2.3.2. Giai đoạn cho vay. 16
2.3.3. Giai đoạn thu hồi nợ. 18
II. Đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại quốc doanh 18
1. Khái niệm về chất lượng tín dụng 18
2. Đánh giá chất lượng tín dụng 19
2.1. Chỉ tiêu định tính 19
2.1.1. Khả năng đáp ứng yêu cầu và thu hút khách hàng 19
2.1.2. Sự phù hợp với tình hình phát triển kinh tế 19
2.1.3. Khả năng thích nghi và sức cạnh tranh của ngân hàng 20
2.2. Chỉ tiêu định lượng 20
2.2.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá mức dư nợ 20
2.2.1.1. Tổng dư nợ 20
2.2.1.2. Tỉ trọng cho vay trong tổng tài sản và vốn chủ sở hữu 20
2.2.1.3. Tỉ lệ nợ quá hạn 21
2.2.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá cơ cấu đầu tư 22
2.2.3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng thu hồi nợ 23
2.2.4. Nhóm chỉ tiêu đánh giá tốc độ quay vòng vốn 24
2.2.5. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lợi 24
2.2.5.1. Chỉ tiêu ROA 24
2.2.5.2. Chỉ tiêu ROE 25
2.2.5.3. Phân tích mối quan hệ giữa ROA và ROE 25
2.2.5.4. Chỉ tiêu doanh lợi trên một đồng vốn 27
3.Nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của NHTM 27
3.1.Ngân hàng thương mại 27
3.1.1.Hệ thống thông tin ngân hàng. 27
3.1.2.Trình độ công nghệ ngân hàng. 27
3.1.3.Đội ngũ cán bộ công nhân viên tại ngân hàng 28
3.2.Khách hàng của NHTM 28
3.2.1.Thu nhập và nhu cầu tiêu dùng . 28
3.2.2.Đòi hỏi về dịch vụ tín dụng 29
3.3.Chính phủ 29
3.3.1.Khuôn khổ pháp lý 29
3.3.2.Sự ổn định vĩ mô 29
3.4.Môi trường xã hội 30
3.4.1.Xu hướng đa dạng hoá trong môi trường hội nhập quốc tế 30
3.4.2.Sự gia tăng cạnh tranh trong thị trường tài chính 30
Kết luận 31
Tài liệu tham khảo 32
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2.2.1.2.1. Cho vay ngắn hạn
Phát sinh khi doanh nghiệp cần bổ sung vốn lưu động còn thiếu phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh như dự trữ, mở rộng sản xuất kinh doanh. Thời hạn cho vay ngắn hạn từ 12 tháng trở xuống. Các nghiệp vụ cho vay ngắn hạn có thể kể đến như: nghiệp vụ chiết khấu, cho vay thấu chi, cho vay hạn mức, cho vay từng lần.
a.Chiết khấu thương phiếu
Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ qua đó ngân hàng giao cho khách hàng một số tiền ghi trong thương phiếu mà không đợi đến hạn thanh toán nó. Viêc giao nộp thương phiếu cho ngân hàng thông thường phải đem lại sự hoàn trả cho ngân hàng-người chiết khấu, khoản tiền mà họ đã ứng trước: người cung cấp hàng hoá hay dịch vụ lập ra các thương phiếu thể hiện số hàng đã cung cấp hoặc dịch vụ đã làm và nhượng lại cho ngân hàng để được thanh toán trước hạn và ngân hàng sẽ chịu trách nhiệm thu tiền ở người mua khi đến hạn.
Theo nghĩa rộng, chiết khấu là một kỹ thuật tài trợ ngắn hạn-kể cả tín dụng để cân đối ngân quỹ-cũng như trung và dài hạn.Chiết khấu có thể thực hiện với hối phiếu, kỳ phiếu và thậm chí với séc. Thủ tục chiết khấu cũng khác với thủ tục cho vay ứng trước hay cầm cố chẳng hạn như không lập hợp đồng tín dụng hay khế ước vay tiền, nhưng phải lập bảng kê thương phiếu, chiết khấu từng lần hay hợp đồng chiết khấu thường xuyên, phải có thủ tục nhập, xuất thương phiếu, cách gia hạn thương phiếu, thay đổi thương phiếu, cách giải quyết thương phiếu bị từ chối khi đến hạn. Cách hạch toán cũng có những đặc thù về định khoản, về cách tính lãi suất, việc thu lãi trước, thu hoa hồng, lệ phí xác nhận thương phiếu, thu ngân thương phiếu,....
Chiết khấu thương phiếu đem lại lợi nhuận cao mà tương đối ít rủi ro so với cho vay ứng trước. Bên cạnh những thuận lợi không thể phủ nhận, chiết khấu thương phiếu còn có bất lợi là chi phí quản lí cao, mỗi thương phiếu phải được quản lí một cách riêng biệt.
b.Cho vay từng lần
Cho vay từng lần là loại cho vay mà mỗi lần vay vốn, ngân hàng và khách hàng thực hiện một thủ tục vay vốn cần thiết và kí kết hợp đồng vay vốn.
Cho vay từng lần áp dụng với các đối tượng khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên.
c.Cho vay theo hạn mức
Cho vay theo hạn mức tín dụng mà ngân hàng cam kết cho khách hàng vay tới một giới hạn tối đa trong một thời gian nhất định.
Cho vay theo hạn mức tín dụng đối với các khách hàng có nhu cầu vay trả thường xuyên, ổn định.
Ngân hàng căn cứ vào nhu cầu vay vốn, đặc điểm sản xuất kinh doanh , dòng tiền, giá trị tài sản đảm bảo để xác địng hạn mức trong một thời gian nhất định.
Trong thời hạn rút vốn của hợp đồng, khách hàng có thể vừa rút vốn vay, vừa trả nợ tiền song đảm bảo không vượt hạn mức dư nợ đã thỏa thuận trong hợp đồng.
d.Cho vay thấu chi
Cho vay thấu chi là phương thức cho vay mà trong đó ngân hàng chấp nhận cho khách hàng chi vượt số tiền hiện có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các qui định về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Thấu chi có thể là thấu chi trong ngày hoặc thấu chi “ over night ” hay thấu chi có kì hạn mà thời hạn tối đa không quá 6 tháng.
Khi khách hàng sử dụng tài khoản thấu chi, mọi khoản thu khách hàng được ghi vào tài khoản để trả nợ ngay, giảm được tiền lãi phải trả cho ngân hàng. Đồng thời mỗi lần có tiền thu về tài khoản làm giảm mức dư nợ thực tế thì cũng không làm tăng mức dư nợ được vay tiếp của khách hàng.
Về phía ngân hàng có lợi là giảm bớt được các khoản thủ tục giấy tờ đồng thời thông qua tài khoản này biết được khách hàng đang gặp khó khăn hay thuận lợi.
Về phía khách hàng có được lợi thế chủ động trong quan hệ với ngân hàng, tránh tình trạng gò bó về thời hạn vay vốn, thời gian làm thủ tục vay nên sử dụng vốn linh hoạt hơn.
Phương thức cho vay được các NHTM qui định chỉ áp dụng với các đối tượng: là doanh nghiệp Việt nam, có tình hình tài chính lành mạnh, có lãi hai năm liền kề so với thời điểm xem xét cho vay thấu chi, có doanh số thanh toán lớn và thường xuyên tại ngân hàng, có tín nhiệm với ngân hàng.
2.2.1.2.2.Cho vay trung hạn và dài hạn
Các khoản cho vay trung hạn là các khoản cho vay có thời hạn từ trên 12 tháng đến 5 năm. Các khoản cho vay dài hạn có thời hạn từ 5 năm trở lên.
2.2.2. Căn cứ vào điều kiện đảm bảo đối với khoản vay
2.2.2.1. Cho vay có đảm bảo
Là khoản vay mà ngân hàng nắm giữ tài sản của người vay với mục đích xử lí tài sản đó để thu hồi tiền cho vay trong trường hợp người vay vi phạm hợp đồng tín dụng.
Loại cho vay này dựa trên ba nguyên tắc cơ bản:
-Nguyên tắc tiền vay phải được trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi .
Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn của ngân hàng là nguồn vốn huy động của khách hàng. Đó là một bộ phận tài sản của các chủ sở hữu mà ngân hàng tạm thời quản lí và sử dụng,ngân hàng cũng có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu rút vốn của khách hàng khi họ yêu cầu. Nếu các khoản tín dụng không được trả đúng hạn thì nhất định sẽ ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả của ngân hàng.
Để thực hiện nguyên tắc này, mỗi lần cho vay ngân hàng phải định kì hạn nợ phù hợp. Khi đến kì hạn nợ, người đi vay phải lập giấy trả nợ cho ngân hàng, nếu không ngân hàng sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của người đi vay để thu nợ. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ số dư thì chuyển nợ quá hạn. Sau một thời gian nếu khách hàng vẫn không trả nợ, ngân hàng sẽ phát mãi tài sản đảm bảo. Nguyên tắc này hạn chế rủi ro về thanh khoản.
-Nguyên tấc vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
Nguyên tắc này đòi hỏi ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử dụng tiền vay đúng mục đích đã ghi trong đơn vay. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này, ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn.
-Nguyên tắc vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo.
Tính vận động của vốn tín dụng gắn liền với sự vận động của vật tư hàng hoá, gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của các đoanh nghiệp. Do đó đảm bảo tín dụng là một phương tiện cho người chủ ngân hàng có thêm một nguồn vốn khác để thu hồi nợ nếu mục đích cho vay bị phá sản.
Tài sản đảm bảo có thể tồn tại dưới nhiều dạng:
+Tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay ngân hàng
+Tài sản đảm bảo là tài sản của người đi vay
+Tài sản đảm bảo còn thể là tín chấp hoậc bảo lãnh của người thứ ba
Đảm bảo tín dụng được coi là tiêu chuẩn xét duyệt cho vay nhưng phải thấy rằng đây không phải là tiêu chuẩn mang tính nguyên tắc. Tuy vậy trong nền kinh tế thị trường các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức phức tạp và đa dạng, vì thế mọi dự đoán rủi ro của ngân hàng đều mang tính tương đối. Đảm bảo tín dụng là một tiêu chuẩn bổ sung những mặt hạn chế của nhà quản trị tín dụng cũng như phòng ngừa những diễn biến không thuận lợi của môi trường kinh doanh
2.2.2.2. Cho vay không có đảm bảo
Là những khoản vay mà ngân hàng không nắm giữ tài sản để thu hồi khoản vay mà thay vào đó những điều kiện ràng buộc khác ( khách hàng không được giao dịch với các ngân hàng khác ) vì mọi hoạt động thu chi của doanh nghiệp đều phải thông qua ngân hàng,ngân hàng quản lí tình hình tài chính của doanh nghiệp, khách hàng và ngân hàng có sự sở hữu chung.
Ngân hàng cấp tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh, mà dựa trên cơ sở uy tín của khách hàng
Loại cho vay này đòi hỏi ngân hàng phải xem xét, phân tích, đánh giá, khách hàng dựa vào hàng loạt các chỉ tiêu để giảm thiểu rủi ro không thanh toán.
2.2.3. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Dựa vào phương thức hoàn trả có thể phân loại cho vay thành cho vay hoàn trả một lần và cho vay hoàn trả định kì .
2.3. Qui trình cho vay
Qui trình cho vay về cơ bản có thể chia thành ba giai đoạn: giai đoạn trước khi cho vay, giai đoạn cho vay, giai đoạn sau khi cho vay.
2.3.1. Giai đoạn trước khi cho khách hàng vay vốn.
2.3.1.1. Hồ sơ vay vốn
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn, ngân hàng hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ xin vay vốn. Hồ sơ xin vay vốn bao gồm: giấy đề nghị vay vốn, các tài liệu chứng minh năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự, trách nhiệm dân sự của khách hàng, các tài liệu chứng minh tình hình sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống, khả năng tài chính của khách hàng và của người bảo lãnh ( giấy phép kinh doanh, giấy xác nhận nghề nghiệp, giấy xác nhận thu nhập, các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh trong thời gian gần nhất, biên bản góp vốn điều lệ, quyết định giao vốn, báo cáo nhanh tình hình tài chính..), các tài liệu liên quan đến mục đích sử dụng vốn vay, tính khả thi và hiệu quả của dự án vay vốn ( hợp đồng kinh tế về mua bán, dịch vụ, hợp đồng bao tiêu sản phẩm, hợp đồng xuất nhập khẩu, báo cáo nghiên cứu khả thi được duyệt, giấy phép xây dựng, giấy phép về vệ sinh môi trường, dự toán, kết quả đấu thầu, hợp đồng thi công và các tài liệu liên quan đến sử dụng vốn vay), hồ sơ thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, xuất trình chứng minh thư nhân dân, hộ chiếu, giấy phép lưu trú đối với cá nhân người nước ngoài.
2.3.1.2. Phân tích tín dụng
Sau đó ngân hàng bắt đầu tiến hành phân tích tín dụng.Việc phân tích tín dụng bao gồm việc thu thập những thông tin trực tiếp hay gián tiếp đối với việc đánh giá tín dụng, việc chuẩn bị và phân tích thông tin thu thập được và việc lưu lại thông tin để sử dụng trong tương lai. Mục đích của việc phân tích tín dụng nhằm mục đích hiểu rõ khách hàng, hiểu rõ mục đích vay vốn, kế hoạch sử dụng vốn vay, cũng như để xác định mức vay và các điều kiện cho vay để vừa đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng vừa hạn chế rủi ro cho vay đến mức có thể chấp nhận được.
Trước hết ngân hàng cần tiếp cận với các nguồn thông tin về khách hàng. Phương pháp tiếp cận thường là thông qua hồ sơ vay vốn, phỏng vấn trực tiếp khách hàng, gặp gỡ với các chủ nợ khác để tham khảo kinh nghiệm của họ trong quá trình cấp tín dụng cho khách hàng, hoặc thông qua các cơ quan chuyên cung cấp thông tin.
Khi đã có các tài liệu và thông tin thu thập được, ngân hàng tiến hành phân tích khách hàng về các mặt:
Thứ nhất, về năng lực khách hàng. Khách hàng muốn vay cần phải có đủ năng lực pháp lí. Nếu khách hàng vay bằng hình thức bảo lãnh thì ngân hàng phải xem xét năng lực pháp lí của người bảo lãnh. Năng lực còn được xem xét trên khía cạnh năng lực cá nhân như giáo dục, sức khỏe, công việc, tháo vát. Đối với các công ty thì năng lực được hiểu là tư cách pháp lí, các yếu tố đầu vào, đầu ra, môi trường kinh doanh, thu nhập, các khó khăn gặp phải, bộ máy hoạt động và quản lí. Đối với các dự án thì năng lực cần được xem xét như NPV, IRR.
Thứ hai, về uy tín của khách hàng. Uy tín của khách hàng được khai thác thông qua người thân, bạn bè, những người kinh doanh cùng ngành nghề hay đối tác làm ăn kinh doanh của khách hàng, thể hiện ở những quan hệ làm ăn có sòng phẳng hay không, có nợ nần dây dưa hay không, và những quan hệ tốt hay xấu.
Thứ ba, về tính cách khách hàng. Ngân hàng cần thiết phải làm rõ mục tiêu xin vay, trách nhiệm, tính trung thực của khách hàng, kế hoạch sử dụng vốn và phương án trả nợ.
Thứ tư, về khía cạnh dòng tiền mặt. Dòng tiền mặt được định nghĩa là
Dòng tiền mặt = lợi nhuận ròng+các chi phí không bằng tiền mặt+các khoản phải trả bổ sung-số dư hàng tồn kho và các khoản phải thu bổ sung.
Ngân hàng tiến hành xem xét các khoản thu nhập, cổ tức, doanh thu bán hàng và các khoản dự trữ có khả năng thanh khoản của khách hàng, xem xét các khoản phải trả, phải thu và hàng tồn kho, xem xét cơ cấu vốn và đòn bẩy tài chính, xem xét chứng khoán và chỉ số giá/thu nhập hiện thời của khách hàng, kiểm soát chi phí, các chỉ số thanh toán, xem xét chất lượng quản lí và những thay đổi trong hoạt động kế toán gần đây.
Thứ năm, phân tích về tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Qui định về tài sản thế chấp, cầm cố,bảo lãnh được chính phủ qui định trong nghị định số 178/1999/ND-CP ngày 29/12/1999. Ngân hàng phải xem xét về quyền sở hữu tài sản, tình trạng của tài sản, giá trị của tài sản, mức độ chuyên môn hoá của tài sản, xem xét quyền pháp lí trở ngại và hạn chế đối với việc nắm giữ tài sản, xem xét vấn đề thuê mua và thế chấp liên quan đến tài sản và thiết bị dùng làm tài sản thế chấp.
Thứ sáu, phân tích các điều kiện môi trường khác ảnh hưởng trực tiếp đến dự án của khách hàng hay tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Ngân hàng phải nghiên cứu về xu hướng tiến triển gần đây của công việc sản xuất kinh doanh, của lĩnh vực mà khách hàng sản xuất kinh doanh cùng với những tác động của sự thay đổi của nền kinh tế ( như suy thoái kinh tế, lãi suất tăng cao, lạm phát tăng cao, ..) và những biến động tự nhiên ( như thiên tai,..). Những tác động tiêu cực như thế sẽ khiến công việc của khách hàng lâm vào tình trạng khó khăn như giảm doanh thu, giảm thu nhập, thua lỗ, không thể trả được nợ. Vì vậy ngân hàng cần nghiên cứu kỹ lưỡng và dự báo được những thay đổi có thể xảy ra.
Sau khi phân tích khách hàng, ngân hàng phải quyết định cho vay hay không. Nếu ngân hàng quyết định không cho vay, ngân hàng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản trong đó nêu rõ căn cứ từ chối cho vay. Nếu ngân hàng quyết định cho vay thì kí hợp đồng tín dụng.
2.3.2. Giai đoạn cho vay.
Việc cho vay phải được ngân hàng lập thành văn bản gọi là hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng bao gồm các nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất vay, thời hạn, hình thức đảm bảo, giá trị tài sản đảm bảo, phương thức trả nợ, và các cam kết được các bên thoả thuận.
Trong phần thoả thuận cam kết, ngân hàng cam kết cung cấp tín dụng cho khách hàng vào các thời điểm định sẵn trong tương lai gọi là quá trình giải ngân. Còn khách hàng cam kết trả một mức phí cam kết vào khoảng 0,5% mức tối đa có thể vay.
Các điều khoản hạn chế gồm các điều khoản đồng ý và từ chối. Điều khoản đồng ý yêu cầu người vay phải thực hiện một số yêu cầu nhất định( định kì nộp các baó cáo tài chính, phải có tài sản thế chấp, phải bảo đảm tính thanh khoản và hợp pháp..). Điều khoản từ chối hạn chế người vay tiến hành một hoạt động nào đó nếu không có sự chấp thuận của ngân hàng.
Kể từ khi bắt đầu giải ngân đến lúc đến hạn thu hồi khoản cho vay, ngân hàng phải thường xuyên kiểm soát, giám sát khách hàng. Kiểm soát tín dụng có vai trò vô cùng quan trọng đối với một chương trình cho vay lành mạnh của ngân hàng. Nó không chỉ giúp ngân hàng phát hiện ra những khoản cho vay có vấn đề nhanh hơn mà còn giúp xác định được các cán bộ tín dụng có tuân thủ chính sách cho vay của ngân hàng hay không. Ngân hàng có thể áp dụng nhiều biện pháp khác nhau:
_Thực hiện kiểm soát định kì hay bất thường đối với các khoản cho vay.
_Đánh giá quá trình thanh toán của khách hàng
_Đánh giá chất lượng tài sản thế chấp.
_Đánh giá sự thay đổi trong tình hình tài chính người vay, sự thay đổi trong các dự báo, đánh giá các yếu tố làm tăng hay giảm nhu cầu tín dụng.
_Tiến hành theo dõi thường xuyên các khoản cho vay lớn, các khoản cho vay có vấn đề.
Việc kiểm tra giám sát vốn vay có tác dụng làm tăng hiệu quả và khả năng thu hồi vốn vay.
2.3.3. Giai đoạn thu hồi nợ.
Đến kì hạn trả nợ, theo hợp đồng tín dụng đã kí, khách hàng vay phải chủ động trả nợ cho ngân hàng.
Đối với các dự án sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, ngân hàng có thể xem xét mức thu hồi nợ gốc cao hơn so với thu lãi. Trường hợp khách hàng vay có nợ quá hạn sẽ thu hồi nợ gốc trước và thu tận lãi khi khách hàng có tiền.
Đến kì hạn trả nợ nếu khách hàng không trả được nợ hoặc không trả được nợ mà không được gia hạn nợ hoặc khoanh nợ thì số nợ gốc đến hạn phải trả được chuyển sang nợ quá hạn và áp dụng lãi suất nợ quá hạn tối đa bằng 150%lãi suất cho vay trong hạn. Thời gian gia hạn nợ vay trung và dài hạn tối đa bằng một nửa thời gian cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
II. Đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
1. Khái niệm về chất lượng tín dụng
Chất lượng của một sản phẩm hoặc dịch vụ là năng lực của sản phẩm, dịch vụ đó nhằm thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng. Từ cách tiếp cận trên có thể định nghĩa chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
2.1. Chỉ tiêu định tính
2.1.1. Khả năng đáp ứng yêu cầu và thu hút khách hàng
Khả năng đáp ứng yêu cầu và thu hút khách hàng là sự phù hợp của tín dụng với mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Do trong nền kinh tế tồn tại nhiều loại hình doanh nghiệp với các ngành nghề khác nhau nên có chu kì sản xuất kinh doanh khác nhau, qui mô vốn khác nhau nên nhu cầu về vốn cũng khác nhau, các cá nhân cũng có mức thu nhập, tính cách khác nhau, khả năng hoàn trả khác nhau nên nhu cầu về vốn cũng khác biệt. Vì vậy ngân hàng-người cho vay, phải đáp ứng được những nhu cầu rất đa dạng đó.
Khả năng đáp ứng nhu cầu và thu hút khách hàng thể hiện ở số vốn có thể cung cấp, lãi suất cho vay, thời hạn phù hợp, chi phí nghiệp vụ thấp, mức độ an toàn của vốn cho vay, thủ tục đơn giản, giao dịch thuận tiện, uy tín của ngân hàng...
2.1.2. Sự phù hợp với tình hình phát triển kinh tế
Tín dụng là để phục vụ nhu cầu về vốn của nền kinh tế. Chất lượng tín dụng cao sẽ phục vụ tốt sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Cụ thể hơn, trong từng thời kì mà nhà nước có đường lối chiến lược phát triển khác nhau, ưu tiên thúc đẩy các ngành kinh tế, vùng kinh tế nào đó thì ngân hàng phải cung cấp tín dụng phù hợp với yêu cầu của ngành kinh tế, vùng kinh tế đó.
2.1.3. Khả năng thích nghi và sức cạnh tranh của ngân hàng
Ngân hàng hoạt động trong nền kinh tế chịu ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế vĩ mô như môi trường luật pháp, thể chế, sự tăng trưởng hay sụt giảm của nền kinh tế, sự thay đổi trong cơ cấu các ngành nghề, cơ cấu lao động, sự cạnh tranh của các ngân hàng khác...luôn đòi hỏi ngân hàng phải thay đổi để thích nghi và cạnh tranh.
Thích nghi và cạnh tranh là yếu tố để ngân hàng tồn tại, thu lợi nhuận và phục vụ nhu cầu của nền kinh tế.
2.2. Chỉ tiêu định lượng
2.2.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá mức dư nợ
Các chỉ tiêu phản ánh mức dư nợ gồm có: tổng mức dư nợ, tổng dư nợ / tổng tài sản, tổng dư nợ / vốn chủ sở hữu.
2.2.1.1. Tổng dư nợ
Tổng dư nợ phản ánh khối lượng cho vay đối với nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về vốn tăng và được phản ánh qua tổng dư nợ tăng lên mỗi năm. Tổng dư nợ của ngân hàng có thể phản ánh hai trạng thái.
Trạng thái thứ nhất, ngân hàng đã đạt mức cho vay đối với nền kinh tế cao, đồng vốn đi vào quá trình lưu thông, là chất dầu bôi trơn bộ máy kinh tế.
Trạng thái thứ hai, ngân hàng tỏ ra dễ dãi hoặc yếu kém trong quá trình cho vay. Bởi vậy sự dễ dãi này khiến các ngân hàng gặp rủi ro với tỉ lệ cao.
2.2.1.2. Tỉ trọng cho vay trong tổng tài sản và vốn chủ sở hữu
Tổng dư nợ
Tỉ trọng cho vay trong tài sản =
Tổng tài sản
Tổng dư nợ
Tỉ trọng cho vay trong vốn chủ sở hữu =
Tổng vốn chủ sở hữu
Cả hai chỉ tiêu này đều phản ánh chất lượng cho vay của ngân hàng thông qua hiệu quả sử dụng vốn để cho vay. Giá trị của hai chỉ tiêu này càng cao thì ngân hàng sử dụng vốn càng linh hoạt, vốn không bị ứ đọng. Tuy nhiên, do tính chất hai mặt của chỉ tiêu đánh giá mức dư nợ nên nó cũng không hoàn hảo. Tổng dư nợ bao gồm trong nó cả nợ quá hạn, nợ tồn đọng. Dư nợ lớn cũng có thể do nợ quá hạn lớn, vốn cho vay không có khả năng sinh lời làm giảm sút hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Vì vậy muốn đánh giá được cụ thể hơn về chất lượng tín dụng người ta cần phải sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ nợ quá hạn.
2.2.1.3. Tỉ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn
Tỉ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ =
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn
Tỉ lệ nợ quá hạn trong vốn chủ sở hữu =
Vốn chủ sở hữu
Trong số dư nợ thì khả năng gặp rủi ro của các món nợ là khác nhau vì vậy cần có sự phân định rõ ràng nợ xấu, nợ tốt làm căn cứ xác định món nợ nào là món nợ có khả năng sinh lời, nhiều hay ít, tỉ lệ gặp phải rủi ro. Nợ quá hạn là những khoản cho vay đã đến kì hạn trả nợ gốc hoặc lãi mà khách hàng không trả nợ đúng hạn và không được điều chỉnh kì hạn nợ gốc hoặc lãi hoặc không được gia hạn nợ gốc hoặc lãi.Tỉ lệ nợ quá hạn cao phản ánh chất lượng tín dụng giảm sút, chắc chắn kéo theo sự giảm sút trong thu nhập. Tỉ lệ nợ quá hạn cao trên tổng dư nợ khiến ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh vì có nguy cơ bị mất vốn, trong khi ngân hàng vẫn phải trả lãi cho khoản tiền gửi đã huy động. Điều này dễ dẫn đến mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Theo tiêu chuẩn an toàn quốc tế tỉ lệ nợ quá hạn trên vốn chủ sở hữu từ 0,5% đến 3%.
Nợ quá hạn có nguồn từ ba nguyên nhân chính:
-Do bản thân ngân hàng trong khâu phân tích khách hàng có nhiều sai sót, không nắm và dự báo hết các khía cạnh của khách hàng, của doanh nghiệp, của dự án.
-Do khách hàng sản xuất kinh doanh thua lỗ vì thiếu kinh nghiệm, buông lỏng quản lí, cố tình lừa đảo.
-Do các nguyên nhân khách quan như các yếu tố kinh tế vĩ mô, môi trường thể chế, các yếu tố ảnh hưởng tự nhiên..
Mặc dù vậy, chỉ dựa vào tỉ lệ nợ quá hạn thấp thì chưa thể kết luận chất lượng tín dụng của ngân hàng nào là tốt. Tỉ lệ nợ quá hạn thấp có thể phản ánh sự quá thận trọng trong quá trình cho vay, ngân hàng muốn bảo toàn vốn,thu nhập thấp hơn là chấp nhận mạo hiểm. Xét trên khía cạnh này những nỗ lực làm giảm tỉ lệ nợ quá hạn bằng cách cắt giảm tổng dư nợ so với tổng tài sản, vốn chủ sở hữu chỉ là biện pháp có thể áp dụng khi nền kinh tế có nhiều bất ổn nhằm làm giảm rủi ro chứ không thể là biện pháp làm tăng nội lực của chính ngân hàng.
2.2.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá cơ cấu đầu tư
Chỉ tiêu cơ cấu vốn đầu tư dùng để đánh giá tỉ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng của ngân hàng cũng như đòi hỏi về vốn các nền kinh tế chưa.
Cơ cấu vốn đầu tư có thể được tính như sau:
Số vốn cho vay
Cơ cấu vốn đầu tư =
Số vốn huy động
Cơ cấu vốn đầu tư càng lớn tức là số vốn cho vay trong số vốn huy động được càng lớn, ngân hàng không để vốn bị ứ đọng, vốn được cho vay đem lại khả năng sinh lời.
Cơ cấu vốn đầu tư tăng trưởng theo các năm phản ánh sự tăng trưởng của ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Vì thu nhập từ cho vay đem lại khoảng 75% đến 80% thu nhập các ngân hàng nên cơ cấu vốn đầu tư tăng là dấu hiệu đáng mừng báo hiệu tăng trưởng lớn trong thu nhập.
Chỉ tiêu này có thể được xem xét cụ thể như sau:
Số vốn cho vay theo ngành nghề
Cơ cấu vốn đầu tư theo ngành nghề =
Số vốn huy động
Số vốn cho vay theo thời hạn
Cơ cấu vốn đầu tư theo thời hạn =
Số vốn huy động
Cơ cấu vốn đầu tư theo thời hạn là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức độ phù hợp của tín dụng đối với một nền kinh tế đang phát triển. Nền kinh tế đang phát triển cần có một nguồn vốn lớn để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, để thực hiện các chương trình kinh tế trọng điểm nhằm tạo bước đột phá nên vốn đầu tư dài hạn cần chiếm tỉ trọng cao. Nếu cơ cấu vốn đầu tư dài hạn chiếm tỉ trọng nhỏ thì chứng tỏ ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tất yếu của nền kinh tế.
2.2.3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng thu hồi nợ
Trong trường hợp người vay sử dụng vốn kém hiệu quả, sản xuất kinh doanh thua lỗ, bị phá sản.. thì người vay phải bán tài sản để trả nợ ngân hàng, hoặc trong trường hợp người đó vay có thế chấp tài sản thì ngân hàng phải tiến hành xử lí tài sản thế chấp để thu hồi vốn và lãi. Số tiền thu hồi do bán tài sản của người vay hoặc bán tài sản thế chấp có thể đủ trả hết nợ món vay nhưng cũng có thể chỉ trả được một phần nợ vay song trong trường hợp nào đi chăng nữa thì vẫn có thể đánh giá là chất lượng tín dụng thấp.
Số tiền thu nợ do bán
Tỷ lệ thanh toán tài sản của người vay
nợ do bán tài sản = *100%
của người vay Tổng doanh số thu nợ
2.2.4. Nhóm chỉ tiêu đánh giá tốc độ quay vòng vốn
Chỉ tiêu này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng (thường là một năm).
Doanh số thu nợ bình quân
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này thường được của ngân hàng tính toán hàng năm để đánh giá khả năng quản lí tổ chức vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Hệ số này càng cao phản ánh chất lượng tín dụng càng cao, tình hình tổ chức quản lí vốn tín dụng càng tốt.
2.2.5. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lợi
2.2.5.1. Chỉ tiêu ROA
Để đánh giá khả năng sinh lợi của vốn cho vay, người ta sử dụng chỉ tiêu ROA được tính:
Lợi nhuận sau thuế
ROA=
Tổng tài sản
phản ánh mức thu lợi trên một đơn vị tài sản. Tỉ lệ này càng cao thể hiện hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng cao. ROA của các ngân hàng lớn trên thế giới thường là 1%.
2.2.5.2. Chỉ tiêu ROE
Bên cạnh ROA, người ta cũng thường sử dụng ROE được tính như sau:
Lợi nhuận sau thuế
ROE =
Vốn chủ sở hữu
phản ánh mức thu lợi trên một đồng vốn chủ sở hữu.
Nếu phân tích ROE theo hướng sau:
Lợi nhuận sau thuế T
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34564.doc