Đề án Kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại và các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn

 

MỤC LỤC

Mục lục.1

Lời mở đầu.3

Nội dung.

Chương1 Những lý luận chung về vốn kinh doanh trong DNTM5

 1.1 Khái niệm và phân loại.5

 1.1.1Vốn kinh doanh.5

 1.1.2 Các loại vốn kinh doanh của DNTM.6

 1.1.3 Đặc điểm của vốn kinh doanh trong DNTM.7

. 1.2 vai trò của vốn kinh doanh.9

 1.2.1 Sự cần thiết của vốn kinh doanh với doanh nghiệp.10

 1.2.2 Vai trò của vốn kinh doanh.10

 1.3Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh.12

 1.4 Kế hoạch vốn và bảo toàn vốn.14

 1.4.1Kế hoạch vốn.14

 1.4.2. Bảo toàn vốn.16

Chương 2:Thực trạng của việc huy động và sử dụng vốn của DNTM

 2.1 Thực trạng của DNTM . 17

 2.1.1 Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của DNTM . 17

 2.1.2 Thành tựu của thương mại Việt Nam những năm qua . 19

 2.2 Thực trạng huy động vốn của DNTM . 22

 2.2.1 Những thành tựu .22

 2.2.2 Những tồn đọng . 24

 2.2.3 Nguyên nhân của những tồn đọng về huy động vốn . 26

 2.3 Thực trạng sử dụng vốn trong DNTM . 27

 2.3.1Thực trạng . 27

 2.3.2 Nguyên nhân của việc sẻ dụng vốn chưa hiệu quả. 30

Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong DNTM

 3.1 Mục tiêu và phương hướng phát triển thương mại nước ta. 31

 3.1.1 Mục tiêu . 31

 3.1.2 Các quan điểm . 31

 3.2 Những giải pháp huy động vốn . 32

 3.2.1 Nguồn huy động . 32

 3. 2.2 Các chính sách huy động vốn . 34

 3.3 Các biện pháp để sử dụng hiệu quả vốn kinh doanh . .38

 3.3.1 Giải pháp chung cho việc sử dụng vốn kinh doanh . 39

 3.3.2 Các giải pháp sử dụng hiệu quả vốn lưu động . 40

 3.3.3 Các giải pháp sử dụng hiệu quả vốn cố định. 42

 3.4 Những điều kiện tiền đề . 43

Kết luận . 44

Danh mục tài liệu tham khảo 45

 

 

doc45 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1471 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại và các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ho tất cả các doanh nghiệp. Đó là một sự phát huy tính năng động sáng tao ,đông thời nó làm cho môi trương canh tranh ngày càng quyềt liệt.Đòi hỏi các DNTM phải đặt khách hàng vào vị trí trung tâm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, thể hiện bằng chất lượng hang hoá , băng phương thức phục vụ cũng như giá cả hợp lý... để không ngừng nâng cao trình độ thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Ngày nay với chính sách đổi mới, mở cửa đời sống nhân dân được nâng cao, con người ta không chỉ đòi hỏi “ăn no mạc ấm” mà là “ ăn ngon mặc đẹp” .Chính vì vậy các tiêu chí “ khách hàng là thượng đế”, “ chân lý thuộc về khách hàng”... trở thành những khẩu hiêu quen thuộc và được thuộc và được thực hiện một cách triệt để. Kinh doanh thương mại trong cơ chế thị trường được coi là “cuộc chạy đua không có đích cuối cùng” để nâng cao trình độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Các hình thức trên cạnh tranh với đối thủ được sử dụng tối đa để giành khách hàng, mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Thứ ba là giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ doamh mghiệp cũng như quan hệ với các doanh nghiệp bên ngoài. Bất kỳ sự vật hiện tượng nào tồn tại trong thế giới khách quan cũng đều tác động qua lại với môi trường bên ngoài. Sự tồn tại và phát triển của DNTM cũng không nằm ngoài qui luật đó. DNTM muốn phát triển với những thành công trong kinh doanh thì phải kết hợp hài hoà các yếu tố bên trong và bên ngoài để tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng ăn ý mới có thể có hiệu quả cao trong kinh doanh. Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp là quan hệ giữa các cá nhân, bộ phận trong doanh nghiệp. Khi thực hiện tốt được công tác này thì sẽ qui tụ được sức mạnh của đoàn kết, phấn đấu vì mục tiêu chung. Từ đó tạo động lực để doanh nghiệp có thể vượt qua khó khăn phát triển kinh doanh. Đồng thời với việc thực hiện tốt quan hệ trong doanh nghiệp là giải quyết mối quan hệ bên ngoài của DNTM đó là mối quan hệ với bạn hàng, cơ quan cung ứng, cấp trên... Các DNTM chủ yếu thực hiện chức năng kinh doanh thương mại tức là việc dùng tiền của, công sức vào việc buôn bán hàng hoá nhằm mục đích kiếm lợi. Kinh doanh thương mại trước hết đòi hỏi phải có vốn kinh doanh.Vốn kinh doanh là các khoản vốn bằng tiền và bằng tài sản như nhà cửa kho tàng,bên bãi...Doanh nghiệp phải có vốn mới thực hiện được chức năng lưu thông hàng hoá Kinh doanh thương mại thường được gắn với hoạt động mua bán .Vì trong suốt quá trình hoạt động thì DNTM phải thực hiện chức năng mua hàng (T_H) nhưng không mua hàng để phục vụ tiêu dùng mà để bán kiếm lời (H_T’) ,trong đó T’=T+sT Vốn trong kinh doanh thương mại được dùng vào hoạt động kinh doanh và sau mỗi chu kỳ đòi hỏi vốn được bảo toàn và có lãi.Có như vậy mới có thể mở rộng và phát triển kinh doanh. Từ đặc điểm quan trọng nhất của doanh nghiệp thương mại là thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá là chủ yếu nên vốn trong DNTM cũng có những đặc điểm riêng là vốn cố định chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số vốn nếu như các doanh nghiệp công nghiệp tốn khá nhiều tiền của vào việc xây dựng nhà xưởng, kho tàng bến bãi thì với DNTM là chiếm tỷ lệ rất nhỏ ngược lại thì vốn lưu đọng trong DNTM lại chiếm tỷ lệ khá lớn. Mà theo đặc điểm của vốn lưu động là giá trị được chuyển dịch toàn bộ cũng như hoàn vốn một lần vào giá thành tiêu thụ nên vòng lưu chuyển của vốn là ngắn. Hơn nữa vốn lưu động là rất lớn nên chúng ta chủ yếu xem xét các giải pháp để nâng cao hiệu quả vốn thì chú ý đặc biệt đến vòng chu chuyển của vốn. 2.1.2.Thành tựu của thương mại Việt Nam trong những năm qua. Doanh nghiệp thương mại có thể trực tiếp sản xuất hàng hoá để bán – tức là thực hiện chức năng sản xuất, thế nhưng chức năng chủ yếu vẫn là buôn bán lưu thông .Hoạt động chủ yếu của DNTM là hoạt động thương mại. Hoạt động này gồm 2 lĩnh vực :thương mại trong nước và xuất nhập khẩu. Thành tựu đáng kể nhất của thương mại Việt Nam thời gian qua là hoạt động thương mại ở cả hai lĩnh vực trên đều có đóng góp đáng kể. Trong thời kỳ kinh tế tập trung bao cấp hoạt động thương mại chủ yếu là thương mại trong nước, ngược lại những năm gần đây hoạt động ngoại thương được chú trọng đến nỗi khi nói đến hoạt động thương mại người ta nghĩ ngay đến ngoại thương, đến xuất nhập khẩu.Cả hai xu hướng đó đều không khách quan .Trong thực tế mỗi lĩnh vực đều có vi trí và vai trò riêng không thể thiếu được.Thương mại trong nước là cầu nối giữa người sản xuất và tiêu dùng, là phương tiện để hàng hoá trong nước giao lưu trao đổi, xuất nhập khẩu là mở rộng thị trường trao đổi mua bán ra nước ngoài .Trong những năm đổi mới -đặc biệt là trong giai doạn 1996-2001 hoạt động thương mại khá phát triển, đảm bảo lưu chuyển cung ứng vật tư hàng hoá trong cả nước và giao lưu quốc tế. Thị trường trong nước với sự đa dạng vế thành phần của DNTM trở nên sôi động và phong phú,cụ thể là các thành tựu sau: Năm 1995 cả nước có 10.860 doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực thương mại thì đến năm 2000 con số đó là 19226. Kết quả đạt được không chỉ dừng lại ở số lượng tăng nhanh mà sư thay đổi nhanh về cơ cấu cũng như thành phần kinh tế tham gia họat động thương mại. Thực hiện đường lối chính sách của đảng và nhà nước xây dựng nền kinh tế đa thành phần trong đó xí nghiệp quốc doanh giữ vai trò chủ đạo và các thành phần kinh tế khác cũng khẳng định vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Với hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 1995 của cả nước là 121,1 ngàn tỷ đồng ,đến năm 2000 đạt 219,4 ngàn tỷ tăng 81,1% Mức bán lẻ bình quân đầu người năm1995 là 1,6 triệu và năm 2000 là 2,8 triệu.Tổng mức bán lẻ hàng năm tăng 27,7%. Mạng lưới thương mại dịch vụ được nâng cấp và phát triển rộng khắp cả nước. Đặc biệt các các loại hình phục vụ văn minh lịch sự như trung tâm thương mại siêu thị khách sạn nhà hàng chất lương cao đang phát triển mạnh. Hệ thống nhà hàng khách sạn tăng lên khá nhanh .Nếu như năm 1995 cả nước chỉ có 845 khách sạn thì đến năm 2001 số lượng khách sạn là 1569, đấy là chưa kể các nhà nghỉ nhà trọ chất lương thấp. Đồng thời qui mô và chất lượng cũng được nâng lên rõ rệt, nhiều khách sạn đã đạt các tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó số lượng khách du lịch quốc tế ngày một đông thể hiện sự tăng trưởng của du lịch Việt Nam.Năm 1995 có 1,35 trịêu lượt khách , đến đầu năm 2001 là hơn 2 triệu lượt khách. Ngoài ra còn phải kể đến sự đóng góp của các DNTM sản xuất.Với mô hình mới-gắn sản xuất với tiêu thụ đã giảm các khâu trung gian,góp phần nâng cao chất lương hàng hoá giảm giá thành sản phẩm .Với mạng lưới các cửa hàng giới thiệu sản phẩm cac doanh nghiêp này đã có thể trực tiếp bán sản phẩm của mình. Hiện nay các xí nghiệp sản xuất kinh doanh theo cơ chế này chiếm từ 10- 15% tổng mức bán lẻ và tiêu dùng trong xã hội. Đó là những kết quả đạt được của thương mại trong nước còn lĩnh vực thứ hai của thương mại trong thời gian qua được đánh giá như thế nào? Hoạt động xuất nhập khẩu là đầu ra lớn cho hàng hoá trong nước đồng thời cũng là nguồn cung cấp trang thiết bị nguyên vật liệu cho sản xuất trong nước.Giai đoạn 1995 –2001 cũng là thời kỳ sôi động và đạt nhiều thành tích của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá. Trong giai đoạn 1996-2001 bình quân tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm là 22,5 tỷ USD, trong khi bình quân năm của giai đoạn90-95 chỉ là 7,5 tỷ USD.Tỷ trọng xuất khẩu bình quân những năm 1996-2000 là 37,6%.Năm 2000 với mức xuât khẩu bình quân 180 USD/người nước ta thoát khởi khu vực các nước có nền ngoại thương kém phát triển. Cơ cấu hàng xuất khẩu có những thay đổi đáng kể theo hướng tăng sản phẩm chế biến và giảm tỷ trọng hàng thô hay mới qua sơ chế ;bình quân thời kỳ 1990-1995, tỷ lệ hàng thô hay mới qua sơ chế trong tổng giá trị xuất khẩu là 73,8% đến thời kỳ 1996-2000 là 54,8 %. Do đó hàng xuất khẩu có giá trị cao hơn, đồng thời giải quyết được công ăn viêc làm và phát triển nghành công nghiệp chế biến. Hơn nữa trong những năm gần đây thị trường xuất khẩu Việt Nam ngày càng mở rộng Trong năm 1995 mới chỉ có quan hệ buôn bán với khoảng 100 nước thì đến năm 2000 đã có hơn 170 nước đặt quan hệ giao lưu buôn bán với nước ta .Sự mở rộng giao lưu đó đã có tác dụng tích cực thúc đẩy sản xuất trong nước. Ngoài các thị trường quen thuộc như ASEAN,Đông Bắc á,EU,Bắc Mỹ.. Việc mở rộng các thị trường mới đã mang lại hiệu quả cao cho hoạt động ngoại thương và khẳng định sự tiến bộ về chất lượng và khả năng đáp ứng thị hiếu khách hàng ở những thị trường khó tính... Để có những thành tựu trên là kết qua của việc thực hiện các chủ trương đường lối chính sách, biện pháp của chính phủ.Theo tinh thân nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII,VIII về mở rộng giao lưu buôn bans trong nước và quốc tế.Bên cạnh đó là việc hoàn thiện chính sách môi trường pháp lýthuận lợi cho sự phát triển của thương mại.Tuy nhiên , cũng phải thừa nhận là chúng ta chưa có những chiến lược thị trường , chiến lược lưu thông và phân phối một cách hiệu quả.Chính sách tài chính còn nhiều kẻ hở, nền thương mại còn manh mún ,sức mua thấp, khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế còn thấp.Để đạt được thành tựu khả quan hơn cần có những chính sách và những biện pháp đồng bộ trên các khâu ... một trong số đó là những giải pháp nâng cao hiệu quả vốn kinh doanh trong DNTM 2.2Thực trạng huy động vốn để kinh doanh của DNTM 2.2.1Thành tựu huy động vốn. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì việc có vốn là điều kiện phải có như là một tất yếu.Chính vì vậy việc tạo nguồn vốn đồng thời là hoạt động thường xuyên hằng ngày của cac nhà quản trị ,đồng thời là một chiến lược lâu dài.Nguồn vốn được tạo như thế nào?Làm sao có thể huy động vốn một cách tối đađể kinh doanh..Đó là bài toán cần những lời giải sát thực.Đó chẳng những là vấn đề của nhà quản trị mà là đối tượng nhà đầu tư để cho họ biết doanh nghiệp có thể hứa hẹn đem lại lợi nhuận không? Và của các tổ chức tín dụng,người có vốn kinh doanh để biết khả năng trả nợ...Trong cơ chế thị trường tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệpnói chung và DNTm nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công tác huy động vốn. Trước hết là nguồn vốn huy dộng trong nước .Trước đây trong cơ chế tập trung bao cấp mọi nguồn thu của xí nghiệp quốc doanh đều phải nộp vaò ngân sách nhà nước và những nhu cầu chi của xí nghiệp quốc doanh được cấp phát từ ngân sách nhà nước. Hoạt động thu hút vốn cho nền kinh tế thực chất là hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước. Sự tập trung quá mức như vậy đã không thể khai thác được tiềm năng về vốn của nền kinh tế vì thế nguồn vốn hết sức đơn điệu và ít lãi. Thế nhưng hiện nay trong cơ chế thị trường- nguồn vốn huy động đã phong phú và đa dạng lên rất nhiều. Vốn huy động từ ngân sách nhà nước, từ tư nhân, từ khách hàng, hay từ hợp tác kinh doanh... Mặc dù vốn từ ngân sách nhà nước là quan trọng nhưng các nguồn khác cũng ngày càng thể hiện sự đóng góp của mình vào việc làm tăng nguồn vốn. Ngày nay đời sống nhân dân được cải thiện và khấm khá dần lên, chính vì thế nguồn vốn trong dân đang là một tiềm lực rất lớn bên cạnh việc đa dạng nguồn vốn là sự đa dạng của các chính sách huy động vốn từ việc khuyến khích các doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản xuất đến các chính sách hấp dẫn ngừơi dân bỏ tiền ra đầu tư...Hơn nữa các hình thức huy động vốn cũng phong phú hơn các hình thức huy động vốn mới được thí nghiệm và đưa ra áp dụng đại trà như: huy động vốn bằng thị trường vốn, thị trường chứng khoán, phát hành trái phiếu hay là việc cho thuê tài chính... các hình thức này đang mở ra những cơ hội và triển vọng mới cho việc huy động vốn để sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn thứ hai được huy động là vốn từ nước ngoài. Đây là nguồn vốn quan trọng trong quá trình phát triển kinh doanh. Trong thời kỳ trước (1976-1990) vốn trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thường xuyên do đó vốn đầu tư để thực hiện tái sản xuất mở rộng đều trông chờ vào nguồn vốn nước ngoài. Hiện nay khi nền kinh tế đã có nhiều thay đổi việc tái đầu tư bằng vốn trong nước là chủ yếu nhưng vốn nước ngoài vẫn là nguồn vốn quan trọng. Trong mười năm trở lại đây doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không ngừng tăng lên. Mỗi năm có trên 200 doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh và 120-130 doanh nghiệp được đưa vào sản xuất kinh doanh. Đến năm 2001 số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm 3.6% tổng số doanh nghiệp nhưng khu vực này có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, giải quyết được việc làm trực tiếp cho hơn 38 vạn lao động chiếm giữ 38.2% vốn sử dụng, 41.9% giá trị tài sản cố định, 22.8% doanh thu, 37.4% tổng ngân sách nhà nước và 60.5% tổng lợi nhuận của toàn bộ các doanh nghiệp. doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có ưu thế về kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh doanh và quan hệ kinh tế với thị trường nước ngoài vì thế nên hiệu quả kinh doanh cao. Tỷ suất lợi nhuận vốn/ năm năm 2000 tính chung cho toàn bộ khối doanh nghiệp là 5.45% trong đố doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 8.87% cao nhất trong khối các doanh nghiệp. Như vậy vốn kinh doanh của doanh nghiệp được đầu tư của nước ngoài có hiẹu quả cao. Tuy DNTM chiếm tỷ trọng trong số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa nhiều- chỉ chiếm 8.6% nhưng cũng đã đạt được những thành quả đáng mừng. Hiện nay vốn nước ngoài cũng được thu hút bằng nhiều hình thức phong phú và đa dạng hơn. Nếu như trước đây vốn nước ngoài chủ yếu chỉ là vay nợ, viện trợ thì nay vốn nước ngoài được hình thành do các hình thức khác nữa như: xuất khẩu, dịch vụ thu ngoại tệ, làm trung gian đại lý cho nước ngoài. 2.2.2Những tồn đọng Những thành tựu như trên là dấu hiệu đáng mừng cho việc huy động vốn tuy nhiên thật là thiếu sót nếu như không xem xét những tồn đọng của việc huy động vốn của các doanh nghiệp nói chung đặc biệt là doanh nghiệp thương mại. Bởi vì việc quan tâm đến những tồn đọng và tìm hiểu nguyên nhân là cần thiết để có thể phát triển tốt hơn. Nó sẽ cung cấp cho chúng ta những bài học quý giá và cơ sở để định hướng được giải pháp đúng đắn. Thứ nhất về các nguồn vốn. Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước. Trong tình hình thường xuyênbội chi ngân sách như ở nước ta thì nguồn vốn này hết sức eo hẹp, không phải doanh nghiệp nào cũng được nhận. Nếu có ngân sách Nhà nước thì sự rót vốn cũng chỉ nhỏ rọt như muối bỏ bể so với nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Hơn nữa đối với DNTM thì thuộc nhóm doanh nghiệp có mục đích chính là lợi nhuận thì nguồn vốn từ ngân sách lại càng ít được ưu tiên hơn. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng và các tổ chức tài chính khác. Nguồn vốn này luôn đi kèm với những ràng buộc khắt khe về khả năng tài chính, về luận chứng kinh tế kỹ thuật cũng như các điều kiện đối nhân (nhười bảo lãnh), đối vật (tài sản vô hình, hữu hình của doanh nghiệp)...làm cơ sở đảm bảo vốn vay, mà không phải doanh nghiệp nào cũng có thể đáp ứng được. Hơn nữa vốn có giới hạn về số lượng cũng như thời hạn nên điều đó càng không dễ dàng. Mặt khác do các doanh nghiệp không trung thực trong việc kê khai tài sản thế chấp và thực trạng của doanh nghiệp làn cho ngân hàng chưa yên tâm để cho vay. Nguồn vốn trong dân chưa được huy động đúng tiềm năng. Mặc dù các chuyên gia kinh tế nước ngoài đánh giá tỷ lệ tích luỹ là khá so với các nước có cùng mức thu nhập nhưng mức độ tăng tích luỹ ở nước ta còn chậm. Mà tỷ lệ tích luỹ tư nhân vào đầu tư từ 1991 đến nay gần như chỉ giao động xung quanh một chữ số. Trong một cuộc điều tra gần đây đồng tiền tích luỹ của tư nhân nước ta được huy động thông qua các tổ chức tài chính chỉ chiếm 11.8%; trong khi ỏ dạng vàng là 34.7%, ở dạng tiền mặt là 15.4%; mua sắm nhà của mất 10%; dưới dạng thóc gạo và hoa màu 11.3%. Còn lại ở dưới các hình thức khác. Đặc biệt tầng lớp có thu nhập cao chỉ đưa 12.3% tích luỹ vào các tổ chức tài chính còn sử dụng tới 58.3% dưới dạng tiền mặt và vàng. Như vậy lẽ ra tầng lớp này phải sử dụng tiền dự trữ vào đầu tư sản xuất kinh doanh để sinh lợi thì họ lại không làm như vậy. Nguồn vốn huy động từ nước ngoài. Đối với nguồn vốn này người đi vay phải trả giá cho việc sử dụng nó. Đó là sự lệ thuộc về vốn và kỹ thuật, sự bóc lột của ông chủ nước ngoài, sự biến động của thị trườn quốc tế, lượng vốn và tốc độ rót vốn của nước ngoài, mức độ hấp dẫn của thị trường trong nước cao hay thấp hơn thị trường nước ngoài... Hơn nữa nhưng năm gần đây vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta có xu hướng chững lại. Hai năm gần đây cho thấy cả vốn đầu tư mới cấp phát lẫn vốn thực hiện trong khu vực đầu tư nước ngoài đang giảm xuống. Quy mô đầu tư trung bình ở mức 13-14 triệu USD từ năm 1998 trở về trước chỉ còn 6-7 triệu USD/ dự án. Nhiều nhà phân tích đã nhận xét nếu tình trạng này kéo dài thì khu vực đầu tư nước ngoài sẽ trở nên “hụt hơi” và kinh tế nước doanh nghiệp những năm tới sẽ khó tăng nhanh. Thứ hai là về các hình thức huy động vốn. Thực tế hiện nay ở các DNTM các hình thức huy dộng vốn còn đơn điệu, và chưa được đánh giá đúng tầm quan trọng. Hình thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường quốc tế được nhiều nước thực hiện hiệu quả, hơn nữa với nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp thì sự huy động vốn trên thị trường vốn quốc tế, được đánh giá quan trọng và lâu dài. Tuy nhiên trên thực tế chưa có DNTM Việt Nam nào phát hành trái phiếu quốc tế. Nguồn vốn từ phát hành trái phiếu công ty chưa đạt hiệu quả cao. Nguồn vốn trong dân huy động con hạn chế , chưa huy động hết tiềm năng.Vốn từ nước ngoài những năm gần đây có xu hướng giảm xuống... là do chưa co những chính sách huy động hiệu quả. Thứ ba là sự giao lưu vốn ở Việt Nam còn đơn điệu. Mặc dù bước vào cơ chế thị trường nhu cầu vốn đã xuất hiện đúng bản chất cần có thị trường để giao lưu nhưng thực tế lại chưa đáp ứng được nhu cầu đó. nguyên nhân của những tồn đọng về huy động vốn. Bất kỳ một kết quả nào là thành tựu hay tồn đọng cũng là kết quả của tổng hợp các nhân tố khách quan cũng như chủ quan.Trong phạm vi đề án này đề cập đến những nguyên nhân sau: Thứ nhất là sự hạn chế của các chủ trương chính sách của nhà nước.Sự thiếu đồng bộ trong chính sách chẳng những làm cho hiệu quả huy động vốn thấp mà còn làm mất lòng tin của các nhà đầu tư ,đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài Thứ hai sự bất ổn định về tài chính ,tiền tệ ,lạm phát cao.. làm cho nhân dân không tin tưởng đưa vốn vào kinh doanh. Chính vì thế mới có tình trạng vô lý là , trong khi các doanh nghiệp đang khát vốn thì nhân dân lại cất trữ tài sản dưới dạng tìên mặt và vàng với số lượng lớn. Thứ ba là do sự kém hiểu biết và thiếu kinh nghiệm trong việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng và các thể chế tài chính khác.Điều này không những chậm cho dân cư có ý thức huy động đồng tiền của mình vào đầu tư sản xuất kinh doanh mang lại lợi ích cho cá nhân và xã hội mà còn “đập vỡ” những ý định mới phôi thai. Thứ tư là sự phiền hà chậm trễ của thủ tục đầu tư làm hạn chế sự đầu tư vốn phát triển kinh doanh. Nguyên nhân này làm cho doanh nghiệp mất nhiều cơ hội kinh doanh thuận lợi. Bên cạnh đó là sự không trung thực của các doanh nghiệp trong việc kê khai tài sản ,hoạt động kinh doanh, làm cho nhà đầu tư không tin tưởng đầu tư.Cùng với nó là việc sử dụng vốn kém hiệu quả đã cản trở sự huy động vốn. 2.3Thực trạng sử dụng vốn trong DNTM. 2.3.1 Thực trạng Vốn được huy động như thế nào đã là câu hỏi không dễ dàng giải quyết. Tuy nhiên giải quyết được vấn đề huy động vốn không có nghĩa là hoàn thành mà vấn đề còn đặt ra là phải sử dụng vốn như thế nào để nâng cao hiệu quả. Trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp được chủ động phát huy năng lực sáng tạo nên các chính sách quản lý sử dụng vốn linh động và hiệu quả hơn nhiều. Mặc dù vậy hiệu quả sử dụng vốn vẫn chưa cao và còn nhiều tồn tại cần khắc phục. Vốn sử dụng lãng phí và đầu tư không hợp lý, vốn tồn đọng, bị chiếm dụng...Cụ thể một số mặt còn tồn tại như sau: Sử dụng vốn sai mục đích. Nhiều DNTM mắc phải khuyết điểm này, như là vốn vay ngắn hạn lại đầu tư các kế hoạch kinh doanh dài hạn hoặc ngược lại. Điều này thực sự là nguy hiểm. Bởi vì nếu sử dụng vốn ngắn hạn vào dự án dài hạn thì không thể thu hồi vốn đúng kế hoạch, dẫn đến sự dây dưa nợ nần làm cho ngân hàng mất tin tưởng, doanh nghiệp phải bù đắp những khoản khác vào việc trả nợ...khiến cho vốn được sử dụng không đúng kế hoạch, dễ dẫn tới sự lộn xộn, lợi dụng vốn. Ngược lại lấy vốn dài hạn phục vụ những chiến lược ngắn hạn thì hiệu quả sử dụng vốn không cao giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngoài ra có không ít các doanh nghiệp tập trung vào đầu tư mua sắm, xây dựng tài sản cố định. Điều này sẽ dẫn tới tình trạng sử dụng vốn không hợp lý bởi vì DNTM không cần quá coi trọng đến tài sản cố định, mà phải chú ý đến việc sử dụng vốn như thế nào trong lưu thông để doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Đối với DNTM sản xuất thì khi đầu tư vào tái sản cố định đặc biệt là công nghệ phải chú ý đến sự hiện đại của công nghệ. Tránh tình trạng nhập ồ ạt công nghệ, hoặc là đã lạc hậu rất nhiều so với thế giới (ở nước ta trình độ công nghệ chỉ bằng 0.6-0.7 so với mức độ tiên tiến của thế giới, cá biệt có doanh nghiệp nhập công nghệ chỉ đạt 0.15-0.2) hoặc là chưa thể sử dụng công nghệ đó vào trong nước. Kinh doanh kém hiệu quả. Mặc dù lĩnh vực thương mại thường được coi là làm ăn có hiệu quả vì có nhiều thuận lợi và hoạt động cũng năng động hơn so với các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên vẫn có nhiều doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, nợ ngân hàng quá lớn (70-80% tổng giá trị tài sản doanh nghiệp) còn một số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, nợ chồng chất đã mất toàn bộ vốn tự có, đến mức phải bán cả tài sản cố định cũng như thu hồi hết tài sản lưu động mà cũng không đủ trả nợ. Vấn đề quản lý vốn trong DNTM cũng có nhiều bất cập. Vấn đề quản lý vốn hiệu quả cần được đặc biệt chú ý. Thực tế ở nước ta đa số các DNTM thiếu vốn, luôn có nhu cầu kêu gọi đầu tư để sản xuất kinh doanh nhưng quản lý vốn lại không chặt chẽ. Sự kém hiệu quả trong lĩnh vực này dẫn đến tình trạng khách hàng chiếm dụng vốn, cho vay trong và ngoài doanh nghiệp, để nợ quá lâu...Việc còn thiếu các nhà lãnh đạo cao cấp, các doanh nghiệp tài ba, doanh nghiệp mạnh...trong lĩnh vực thương mại đã làm giảm bớt các cơ hội đầu tư, không đáp ứng được các nhu cầu triển khai các dự án lớn. Đồng thời cũng giảm cơ hội và điều kiện cần thiết khai thác các nguồn vốn đầu tư trong nước, đảm bảo sự hợp tác bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Tại các tổng công ty việc quản lý vốn và tài sản chưa tốt việc điều hành quản lý giữa công ty mẹ và đơn vị thành viên còn nhiều lúng túng. Hiện nay các tổng công ty có quyền sử dụng toàn bộ vốn và tài sản của Nhà nước giao cho để phục vụ sản xuất kinh doanh theo nguuyên tắc bảo toàn và phát triển vốn. Tuy nhiên các công ty lại thể hiện chưa phải là một thực thể kinh tế thống nhất làm phát huy sức mạnh nội lực, chưa khắc phục được tình trạng rời rạc dẫn đến phân phối và sử dụng vốn kém hiệu quả. Sự ứ đọng vốn của các ngân hàng thương mại. Có một nghịch lý là trong khi các doanh nghiệp thiếu vốn thì hệ thống ngân hàng thương mại lại phải đối mặt với sự ứ đọng vốn. Do có mâu thuẫn giữa ngân hàng và doanh nghiệp về thủ tục vay vốn. Trong khi doanh nghiệp cho rằng ngân hàng đưa ra quá nhiều thủ tục phiền hà làm cản trở quá trình vay vốn thì các ngân hàng biện hộ là do khách hàng không dảm bảo các điều kiện tối thiểu khi đi vay vì thế ngân hàng sẽ gặp nhiều rủi ro. Sự hạn chế đầu ra của ngân hàng còn do thị trường tiêu thụ hàng hoá trong nước đã bão hoà, chưa có biệm pháp mở rộng thị trường. Vốn lưu động trong DNTMnước ta hiện nay chu chuyển còn chậm. Trong DNTM vốn lưu động nằm trong lĩnh vực vốn lưu thông là chủ yếu, từ đó giảm bớt số vốn lưu động bị chiếm dụng để có thể tăng hiệu quả sử dụng vốn. Như vậy thực trạng sử dụng vốn trong DNTM đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Vốn kinh doanh được sử dụng chưa hiệu quả, sự đầu tư vốn còn manh mún, chưa khoa học, sử quản lý vốn chưa chặt chẽ... Chính vì vậy hiệu quả sử dụng vốn chưa cao (hệ số sinh lời chỉ khoảng 11%) thực tế đặt ra cần có những chính sách và biện pháp để giải quyết vấn đề sử dụng vốn mở rộng sản xuất. Nguyên nhân của việc sử dụng vốn chưa hiệu quả. Vốn được sử dụng chưa hiệu quả là do nhiều nguyên nhân. ở đây chúng ta chỉ xét hai nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng đó Thứ nhất là do dư âm của bao cấp vốn trong cơ chế tập chung bao cấp trước đây. Trong cơ chế đó vốn được bao cấp qua ngân sách Nhà nước và ngân hàng. chính sách này không những làm cho các nguồn vốn trong dân không được huy động mà còn tạo ra tình trạng kém hiệu quả trong quá trình phân phối và sử dụng vốn. Mặc dù cơ chế này không còn ồn tại thay vào đấy là sự chủ động sáng tạo của các doanh nghiệp nhưng sự thụ động đã đi vào tiềm thức một thế hệ lãnh đạo mà ít nhiều còn ảnh hưởnh đến hiện nay. Đặc biệt là trong lĩnh vực đầy năng động là thương mại Thứ hai là sự hạn chế về trình độ quản lý và sử dụng vốn. Trong thời kỳ đổi mới, mở cửa trình độ quản lý của các doanh nghiệp cũng được tăng lên rất nhiều nhưng vẫn còn thiếu những cán bộ quản lý có tài, có năng lực và kiến thức chuyên sâu về sử dụng vốn. Do sự yếu kém về công tác quản lý của các nhà lãnh đạo, nhà quản trị dẫn đến việc sử dụng vốn chưa hiệu quả là điều khó tránh khỏi. Ngoà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35311.doc
Tài liệu liên quan