Đề án Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ mà Nhà nước ra quyết định quy mô tổ chức, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp công ích.

Chuyển từ cơ chế cấp vốn, giao nhiệm vụ sang cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhà nước có chính sách ưu đãi

đối với các sản phẩm và dịch vụ công ích, không phân biệt loại hình doanh nghiệp, thành phần kinh tế. Nhà nước cấp đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Thực hiện cơ chế quản lý doanh nghiệp, tiền lương và thu nhập trên cơ sở khối lượng, chất lương sản phẩm, dịch vụ mà Nhà nước giao hoặc đặt hàng. Doanh nghiệp công ích cũng phải thực hiện hạch toán.

 

 

doc41 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1810 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khi thực hiẹn chuyên đổi sở hữu hơn 700 doanh nghiệp và bộ phận DNNN chưa được xử lý triệt để đang giao cho các công ty cổ phần giữ hộ. Tình trạng trên khiến cho một khối lượng không nhỏ của cải vật chất của xã hội không được khai thác, sử dụng là nguy cơ tiềm ẩn cho nền kinh tế. + Cuối cùng là vấn đề lao động dôi dư trong sắp xếp DNNN. Theo số liệu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, hiện nay cả nước có khoảng 100.000 lao động dôi dư từ quá trình đổi mới, sắp xếp lại DNNN, nhưng không thể bố trí được việc làm, cũng như vẫn chưa được hưởng theo chế độ quy định hiện hành. Hiện nay số lao động trong các DNNN là 1,7 triệu người xấp xỉ bằng con số của năm 1991 (trong khi số lượng DNNN đã giảm hơn một nửa). Theo lộ trình sắp xếp DNNN từ nay đến năm 2003, số lao động bố trí được việc làm là khoảng 150.000 người. Đó là chưa kể số lao động dư thừa còn khoảng 200.000 ở các doanh nghiệp vẫn giữ 100% vốn Nhà nước. Đây là một gánh nặng cho sự phát triển cả trong hiện tại lẫn tương lai. III. Nguyên nhân. Để phân tích nguyên nhân hoạt động kém hiệu quả của DNNN hiện nay chúng ta phải nhìn nhận toàn diện. Về đại thể có thể chia làm hai nhóm nguyên nhân: 1. Nguyên nhân khách quan - Sự kìm hãm của những di sản lịch sử. Các DNNN của nước ta hiện nay, trừ phần nhỏ được thành lập mới trong giai đoạn cải cách, đa phần là doanh nghiệp cũ dế thừa từ thời bao cấp với các đặc trưng như công nghệ kỹ thuật lạc hậu không có nguồn thay thế. Theo thống kê của bộ công nghiệp thì thiết bị của DNNN hiện nay có 26% của Liên Xô (cũ), 24% của các nước Đông Âu, 20% của các nước ASEAN và Bắc Âu, trên 18% là của các nước khác, còn trong nước chỉ chế tạo chưa đến 12%; nguồn vốn khấu hao để tái sản xuất giản đơn cũng chưa đủ do chế độ trích nộp khấu hao vào ngân sách Nhà nước những năm trước; lao động vừa thiếu ( thiếu lao động lành nghề) vừa thừa ( lao động không đáp ứng yêu cầu của công việc) song chưa có cơ chế giải quyết; cơ cấu DNNN không hợp lý, không có khả năng tự đổi mới công nghệ cũng như ngành nghề v.v. Gánh nặng lịch sử đó không phải chúng ta có thể khắc phục trong ngày một ngày hai. Để thoát ra khỏi tình thế quẫn bách đó, chúng ta cũng không thể dùng giải pháp phá đi làm lại bởi năng lực sản xuất của đất nước và đời sống của nhiều con người trong cậy vào đây. Chúng ta chỉ có thể gỡ rối dần dần, vừa cải tổ vừa giữ ổn định kinh tế và xã hội. Chính vì thế hiệu quả của hệ thống DNNN chưa thể cải thiện nhanh. 2. Những nguyên nhân chủ quan bao gồm : - Về mặt quan điểm nhận thức, chưa có sự thống nhất trong nhận thức về những chủ trương đường lối của Đảng dẫn đến khi thực hiện hiệu quả còn thấp, đặc biệt là tình trạng trên thông nhưng dưới không thông. Nhiều vấn đề chưa rõ, còn nhiều ý kiến khác nhau đang gây tranh cãi. - Liên quan đến mức độ chưa hoàn thiện của cơ chế quản lý DNNN. Những cải tổ cơ chế quản lý DNNN từ năm 1981 đến nay có thể coi là một bước cách mạng trong mô hình tổ chức kinh tế-xã hội của nền kinh tế. Chúng ta đã cơ bản chuyển được các DNNN từ chỗ là một phân xưởng trong xí nghiệp kinh tế quốc dân sang vai trò một pháp nhân có quyền tổ chức sản xuất và kinh doanh hàng hoá độc lập. Tuy nhiên cơ chế quản lý mới còn vướng ở mốt số điểm như cơ chế thực thi sở hữu Nhà nước vẫn tỏ ra chưa hiệu quả do vẫn tồn tại các mảnh của chế độ chủ quản hành chính trước kia( như duyệt dự án đầu tư mới , bổ nhiệm cán bộ chủ chốt, kiểm tra theo chức năng của cơ quan chủ quản v.v.) đồng thời lại buộc phải thừa nhần quyền tư chủ khá rộng rãi của doanh ghiệp, do đó dẫn đến doanh nghiệp vừa làm vừa lo, còn cơ quan quản lý Nhà nước vẫn thích can thiệp trực tiếp quá nhiều vào công việc của doang nghiệp mà không phải chịu trách nhiệm. Ví dụ điển hình cho tình trạng này là vụ việc của Công ty dệt Nam Định. Một phần hoạt động sai nguyên tắc tài chính của dệt Nam Định là đầu tư vào 26 dự án không hiệu quả. Song cả 26 dự án náy đều được Bộ Công nghiệp ký duyệt; các cơ quan quản lý Nhà nước có chức năng kiểm tra thanh tra vừa phân tán, vừa chồng chéo (do các văn bản pháp quy mới cũ mâu thuẫn với nhau song không được sàn lọc) nhưng đồng thời lại không có một cơ quan Nhà nước nào chịu trách nhiệm cho sự còn mất của tài sản Nhà nước , cuối cùng phó mặc cho doanh nghiệp phải tự bảo toàn vốn. Song chúng ta quên rằng trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp, dù là DNNN đi chăng nữa, đều đại diện cho một lợi ích độc lập , đó là lợi ích doanh nghiệp. Nếu Nhà nước không kiểm soát tốt (mà điều này khó làm được nếu không có những tiêu chuẩn tốt về kế toán, thống kê, kiểm toán) thì doanh nghiệp sẵn sàng biến lợi nhuận thành chi phí hợp pháp dưới dạng lương thưởng cho cán bộ và công nhân. Ngoài ra còn có những khó khăn trong việc phân định thua lỗ do rủi ro hay do sự thiếu trách nhiệm của những người liên quan. Chính vì thế có thể thấy tình trạng tài chính không rõ ràng và cực kỳ bê bối của DNNN hiện nay thể hiện qua nợ khó đòi trở thành phổ biến, doanh nghiệp không thể phá sản vì chủ nợ không đệ đơn v.v. là hậu quả của chính tình trạng thể chế hoá sở hữu Nhà nước chưa tìm được hình thức hợp lý. - Liên quan đến những thách thức chung của nền kinh tế nước ta. Tình trạng chung của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là kém hiêu quả và sức cạnh tranh thấp . Tại sao? Bởi vì tiềm năng tư đổi nới công nghệ của nước ta rất thấp. Phần GDP giành cho nghiên cứu rất ít và lại chủ yếu chi dùng cho những lĩnh vực lý thuyết, ít tính ứng dụng. Chiến lược chuyển giao công nghệ chưa được nhận thức đúng để vạch ra và thực hiện một cách kiên quyết. Dẫn đến chiến lược đầu tư thể hiện khá nhiều sai lầm (như xi măng lò đứng, nhà máy sản xuất đường, sản xuất gạch tuy nen v.v) Nền kinh tế chưa hình thành, các ngành mũi nhọn đủ sức nâng các doanh nghiệp nói riêng, và kinh tế nói chung rời bệ phóng để cất cánh. Ngoài ra các giám đốc DNNN.cũng như mọi người dân Việt Nam khác còn rất bỡ ngỡ với cung cách làm ăn thị trường, cạnh tranh khốc liết do vậy nhiều khi còn bị lường gạt, Ngoài ra tệ nạm tham ô, tham nhũng có xu hướng tăng trong nền kinh tế cũng là những căn nguyên làm giảm thiệu quả DNNN. - Ngoài ra còn một nhóm các nguyên nhân cũng ảnh hưởng rất lớn tới tiến trình cải cách doanh nghiệp. Thứ nhất, chưa có người chủ thực sự tư liệu sản xuất. Chính phủ ở xa, giám đốc trên danh nghĩa được nhà nước bổ nhiệm thay mặt Chính phủ để điều hành quản lý sản xuất kinh doanh song chưa thực sự là ông chủ, còn công nhân thực chất vẫn không phải là chủ. Thực chất không có ai chăm lo bảo tồn và phát triển nguồn vốn không có ai chịu trách nhiệm khi mất mát thua lỗ. Hai là, Nhà nước ít vốn song đầu tư còn dàn trải, chủ yếu đủ để giữ cho các doanh nghiệp tồn tại chứ không đủ sức cạnh tranh và phát triển trong thị trường sôi động. Ba là, tình trạng phân phối trong các doanh nghiệp không phù hợp với kết quả sản xuất kinh doanh, không khuyến khích được sản xuất, chưa khơi dậy được lòng tin trong quần chúng , để họ tự giác gắn bó và cùng chịu trách nhiệm. Bốn là, cán bộ quản lý chưa thực sự có đủ tiêu chuẩn trí tuệ tâm huyết với nhà nước chưa thực sự dũng cảm tự chịu trách nhiệm. Tóm lại, chúng ta cần nhìn nhận thực trạng yếu kém hiện nay của DNNN một cách thẳng thắn, khách quan, toàn diện có như vậy những giải pháp chúng ta đặt ra mới thiết thực và có khả năng đi vào cuộc sống. Nên tránh cách nhìn quá bi quan quy mọi sai lầm yếu kém về cho doanh nghiệp. Cũng không buông trôi coi hiệu quả thấp như căn bệnh cố hữu của DNNN để từ đó không tích cực tìm giải pháp khắc phục. Đây là yêu cầu việc phát huy vai trò chủ đạo của KTNN cũng như của công cuộc đổi mới hiện nay. Phần thứ ba: Những giải pháp nhăm tăng cường vai trò chủ đạo của KTNN. Hiện nay, để củng cố, phát huy vai trò chủ đạo của KTNN không còn cách nào hơn là phải thực hiện cải cách triệt để DNNN. Sau đây, người viết xin trình bày những giải pháp cơ bản nhất đã và đang được đề ra cho tiến trình sắp xếp, đổi mới, phát triển DNNN. I. Về quan điểm nhận thức Để phát triển KTNN làm cho nó trở nên vững mạnh không còn cách nào hơn là phải sắp xếp, đổi mới phát triển DNNN. Tiến trình cải DNNN đã được thực hiện hơn 10 năm qua song vẫn còn rất chậm. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là chưa có sự nhận thức sâu sắc của không ít cán bộ quản lý Nhà nước, quản lý doanh nghiệp và người lao động về các chủ trương, chính sách đổi mới DNNN; chưa có sự thống nhất trong nhận thức, nhiều vấn đề gây chưa được thực tiễn tổng kết chứng minh. Vì vậy bài viết xin đưa ra một số ý kiến về mặt lý luận nhằm làm sáng tỏ, giải thích rõ hơn về những chủ trương chính sách của Đảng. Thông qua các nghị quyết của Đảng và chính phủ có thể tóm gọn chủ trương sắp xếp cải cách DNNN thành những điểm cơ bản sau: Nhà nước giảm sự quản lý hành chính với các DNNN, thu gọn đầu mối quản lý, chỉ nắm giữ những ngành những lĩnh vực then chốt bằng việc thành lập và tập trung nguồn lực vàp các tổng công ty nhà nước, cổ phần hoá một bộ phận DNNN mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn, giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê những DNNN có quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài, sáp nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài mà Nhà nước không cần nắm giữ. Những chủ trương này là hoàn toàn đúng đắn, chúng mang tính tất yếu khách quan phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Việc thành lập các tổng công ty là nhằm nắm giữ những ngành những lĩnh vực then chốt và tạo ra vai trò chủ đạo của KTNN. Thực vậy, kinh nghiệm của tiến trình lịch sử cho thấy, vai trò chủ đạo của một thành phần kinh tế nào đó không phải ở chỗ quy mô của nó to hay nhỏ, lực lượng của nó nhiều hay ít, mà là ở chỗ nó có chi phối được các thành phần kinh tế khác hay không, có làm cho các mối quan hệ kinh tễ diễn ra theo tính chất của phương thức sản xuất thống trị hay không. Nhà nước chỉ nắm giữ nhũng đầu mối chủ chốt góp phần làm gọn nhẹ bộ máy hành chính, làm giảm gánh nặng cho Nhà nước, từ đó khả năng quản lý điều tiết nền kinh tế có hiệu quả hơn, phù hợp với yêu cầu của KTTT.Việc giao, bán, khoán, cho thuê, cổ phần hoá thực chất là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu một bộ phận các DNNN cỡ vừa và nhỏ không nắm vai trò chủ đạo, để cho những doanh nghiệp đó trở về đúng vị trí và phát huy được những vai trò vốn có của nó. Hay thực chất đó là quá trình phi quốc hữu hoá những doanh nghiệp vừa và nhỏ. ở đây, phi quốc hữu hoá không có nghĩa là tư hữu hoá. Mục đích của phi quốc hữu hoá là tìm ra những hình thức thực hiện mới cho chế độ công hữu, hình thức mới này không còn là hình thức thực hiện chế độ công hữu như chế độ quốc hữu nữa mà là hình thức thực hiện chế độ công hữu khác phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mô hình đầu của tiến trình này là cổ phần hoá để cho người lao động chi phối tài sản của xí nghiệp tương tư như mô hình “khoán ruộng đất cho nông dân” . Một trong những nguyên nhân làm cho cải cách DNNN không tiến triển được là chủ thể lợi ích của cải cách không rõ ràng, cải cách bị thiếu động lực thúc đẩy. Cải cách ở nông thôn có chủ thể rất rõ ràng, nông dân tích cực yêu cầu cải cách và nông dân là người được lợi trong cải cách. Cải cách xí nghiệp phải dựa vào đông đảo công nhân viên chức của xí nghiệp, nhưng tính tích cực của công nhân viên chức không cao. Bởi vì trong thể chế cũ công nhân vẫn được bao cấp ổn định và là người chủ trên danh nghĩa, trong thể chế cũ, người công nhân có nhiều lợi ích hơn so với nông dân. Sau khi chuyển đổi cơ chế, xoá bỏ chế độ bao cấp, người công nhân phải chịu thiệt rủi ro hơn. Phải làm cho công nhân trở thầnh người được lợi trong cải cách, làm cho họ thấy cải cách sẽ đem lại cho họ nhiều lợi ích hơn nữa. Nếu như cải cách ở nông thôn thực hiện “người cầy có ruộng” thì cải cách ở thành thị phải thực hiện “người lao động có cổ phần”. Bán cổ phần cho công nhân, công nhân trở thành những cổ đông. Làm như thế có phải là tư hữu hoá không? Câu trả lời là không, vì: Một là, tư hữu hoá có nghĩa là đem tất cả quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền chi phối quy vào một chủ thể. Điều này không thích ứng với quá trình xã hội hoá sản xuất. Sự ra đời của nền sản xuất xã hội tạo điều kiện cho việc huỷ bỏ chế độ tư hữu hoá. Để giải quyết vấn đề tập trung vốn và tư liệu sản xuất ngày càng mở rộng mang tính xã hội hoá. Chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ chế độ nghiệp chủ sang chế độ hợp tác hoá và cuối cùng là chế độ cổ phần, đây chính là quá trình xã hội hoá phương thức chiếm hữu tư liệu sản xuất mà Mác đã từng nói. Sự phát triển không ngừng của nền sản xuất xã hội hoá đã làm cho nhân tố XHCN trong lòng của chủ nghĩa tư bản ngày càng nhiều lên. Hai là, việc đông đảo nhân viên cùng chi phối tài sản doanh nghiệp chứng tỏ đây là quá trình xã hội hoá chứ không phải là tư hữu hoá. Trước đây chúng ta coi chế độ quốc hữu là sở hữu toàn dân, trên danh nghĩa thì đó là sở hữu toàn dân nhưng trên thực tế giữa tư liệu sản xuất và người lao động không hề có mối liên hệ nào cả. Loại sở hữu toàn dân này thực chất là một hình thức sở hữu ngành mang tính đóng kín, bị chia cắt thành nhiều mảnh và chỉ một số ít người có tiến nói quyết định. Việc giao tài sản doanh nghiệp cho công nhân viên chức sẽ làm cho mối quan hệ giữa công nhân viên chức và tài sản doanh nghiệp từ chỗ danh nghĩa chuyển sang thực chất. Đây là sự tiến bộ của quá trình xã hội hoá sản xuất chứ không phải quá trình tư hữu hoá. Ba là, Người lao động có tài sản không phải là tư hữu hoá, bởi vì trong chế độ cổ phần, quyền sở hữu và quyền tài sản pháp nhân doanh nghiệp đã được tách ra. Sau khi tài sản được đưa vào doanh nghiệp thì nó biến thành tài sản chung của tập thể. Bất luận đầu tư vào đâu nó cũng biến thành tài sản đã được xã hội hoá do mọi người cùng chiếm hưũ, cùng chi phối, cùng sử dụng, cùng hưởng lợi nhuận và cùng phải chịu rủi ro. Cho nên trong doanh nghiệp hiện đại việc cá nhân có tài sản không có nghĩa là tư hữu hoá. Vậy chủ trương cải cách hiện nay không đi ngược lại với quan điểm của Mác khi ông cho rằng phải xoá bỏ tư hữu “những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành công thức duy nhất là: ” xoá bỏ chế độ tư hữu”. Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp chính là tìm một hướng đi mới phù hợp với trình độ của lượng sản xuất, một con đường mới tiến lên CNXH. Chính Các Mác cho rằng sự chuyển dịch biến đổi từ sở hữu tư nhân sang sở hữu xã hội, sở hữu hỗn hợp là sở hữu theo nghĩa các tư liệu sản xuất được sử dụng có tính xã hội, hoặc ở mức cao hơn là tư liệu sản xuất thuộc về xã hội. Những biến đổi đó phải được coi là quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, do tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất quyết định. II. Những giải pháp cụ thể . 1. Sửa đổi, bổ xung cơ chế, chính sách . 1.1. Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh . Doanh nghiệp tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu trên thị trường phù hợp với mục tiêu thành lập và điều lệ hoạt động. Xoá bỏ bao cấp đối với doanh nghiệp. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các ngành, vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành phần kinh tế. Ban hành Luật cạnh tranh để bảo vệ và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, hợp tác bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật chung. Đối với DNNN hoạt động trong lĩnh vực độc quyền cần có quy định kiểm soát giá và điều tiết lợi nhuận và cần tổ chức một số DNNN cùng cạnh tranh bình đẳng. Nhà nước ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả và cơ chế giám sát DNNN. Đổi mới chế độ kế toán, kiểm toán, chế độ báo cáo, thông tin, thực hiện công khai hoạt động kinh doanh và tài chính doanh nghiệp. - Về vốn: doanh nghiệp được tiếp cận và thu hút các nguồn vốn trên thị trường để phát triển kinh doanh, được chủ động giải quyết các tài sản dư thừa, vật tư hàng hoá ứ đọng. Nhà nước có cơ chế để trong 5 năm 2001-2005 cơ bản tạo đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp. Không thu tiền sử dụng vốn ngân sách đi đôi với việc chuyển hình thức cấp vốn sang đầu tư vốn. Thí điểm thành lập công ty đầu tư tài chính nhà nước để thực hiện đầu tư và quản lí vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nghiên cứu ban hành Luật sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào kinh doanh. Doanh nghiệp được tự chủ trong việc phân phối và trích lập các quỹ từ lợi nhuận để lại theo khung quy định chung. Nhà nước có chính sách đối với những tài sản do doanh nghiệp đầu tư bằng vốn vay và đã trả hết nợ bằng nguồn khấu hao cơ bản và lợi nhuận do chính tài sản đó làm ra theo hướng thực hiện hài hoà các lợi ích, phù hợp với đặc điểm của từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể, khuyến khích doanh nghiệp tiếp tục tái đầu tư phát triển. - Về đầu tư: tăng thêm quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong quyết định đầu tư trên cơ sở đầu tư chiến lược, quy hoạch phát triển được phê duyệt. - Về đổi mới, hiện đại hoá công nghệ: doanh nghiệp được áp dụng chế độ ưu đãi đối với người có đóng góp vào đổi mới công nghệ mang lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp; chi phí này được hạch toán vaò giá thành sản phẩm. Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ đoanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ. - Về lao động, tiền lương: doanh nghiệp quyết định việc tuyển chọn lao động và chịu trách nhiệm giải quyết chế độ đối với người lao động do mình tuyển dụng không có việc làm bằng các nguồn kinh phí của doanh nghiệp; được tự chủ trong việc trả tiền lương và tiền thưởng trên cơ sở năng suất lao động và hiệu quả sản suất kinh doanh của doanh nghiệp. - Về cán bộ quản lí doanh nghiệp: doanh nghiệp chủ động lựa chọn và bố trí cán bộ quản lý theo hướng chủ yếu là thi tuyển; cơ quan Nhà nước và tổ chức có thẩm quyền ra quyết định bổ nhiệm cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp. Nhà nước có cơ chế khuyến khích vật chất, tinh thần, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cán bộ quản lý doanh nghiệp . -Về thanh tra, kiểm tra: hàng năm doanh nghiệp phải được kiểm toán, kết quả kiểm toán là căn cứ pháp lý về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý Nhà nước phải có trương trình thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với doanh nghiệp và thông báo trước cho doanh nghiệp. Cơ quan bảo vệ pháp luật chỉ kiểm tra, thanh tra khi doanh nghiệp đã có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Các cơ quan thanh tra, kiểm tra phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thanh tra kiểm tra. 1.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích. Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ mà Nhà nước ra quyết định quy mô tổ chức, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp công ích. Chuyển từ cơ chế cấp vốn, giao nhiệm vụ sang cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với các sản phẩm và dịch vụ công ích, không phân biệt loại hình doanh nghiệp, thành phần kinh tế. Nhà nước cấp đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Thực hiện cơ chế quản lý doanh nghiệp, tiền lương và thu nhập trên cơ sở khối lượng, chất lương sản phẩm, dịch vụ mà Nhà nước giao hoặc đặt hàng. Doanh nghiệp công ích cũng phải thực hiện hạch toán. 1.3 Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được. - Bổ xung cơ chế, chính sách đối với lao động dôi dư trong sắp xếp, cơ cấu lại DNNN. Doanh nghiệp phải rà soát và xây dựng đúng định mức để xác định số lượng lao động cần thiết. Lao động dôi dư được doanh nghiệp tạo điều kiện đào tạo lại hoặc nghỉ việc hưởng nguyên lương một thời gian để tìm việc; nếu không tìm được việc thì được nghỉ chế độ mất việc theo quy định của Bộ Luật Lao Động. Bổ sung sửa đổi một số chính sách cụ thể đối với người lao động dôi dư có nguyện vọng nghỉ hưu trước tuổi. Chính phủ bố trí nguồn kinh phí để giải quyết chính sách cho số lao động dôi dư. Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động theo hướng cho phép áp dụng chế độ mất việc đối với số lao động dôi dư tại thời điểm giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê DNNN. Khẩn trương bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội; ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cùng đóng góp. - Xin xử lý nợ không thanh toán được . Chính phủ quy định biện pháp giải quyết dứt điểm các khoản nợ không có khả năng thanh toán cuả doanh nghiệp đối với ngân sách Nhà nước và ngân hàng, đồng thời có giải pháp để ngăn ngừa sự tái phát. Thành lập công ty mua bán nợ và tài sản của doanh nghiệp nhà nước để xử lý nợ và tài sản không cần dùng, tạo điều kiện lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp. 2. Tiếp tục thực hiện các hình thức đổi mới và sắp xếp lại DNNN. Trong thời gian trước mắt cần tiếp tục kiện toàn và nâng cao hiệu quả của các tổng công ty Nhà nước, đẩy mạnh cổ phần hoá và sáp nhập, khoán, cho thuê, giao, bán, giải thể, phá sản, các DNNN quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài không cổ phần hoá được và Nhà nước không cần nắm giữ, đổi mới nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý doanh nghiệp. Hai giải pháp về cổ phần hoá và đổi mới quản lý doanh nghiệp là hai giải pháp lớn, còn nhiều vấn đề phải bàn luận nên sẽ đề cập chi tiết ở những phần sau. Trong phần này chỉ xin bàn đến việc phát triển các tổng công ty Nhà nước và việc sáp nhập, khoán, cho thuê, giao bán, giải thể, phá sản các doanh nghiệp: 2.1. Về thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sát nhập, giải thể, phá sản DNNN. Đối với doanh nghiệp quy mô nhỏ có vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng,Nhà nước không cần nắm giữ và không cổ phần hoá được, tuỳ thực tế của từng doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định một trong các hình thức: giao,bán khoán kinh doanh, cho thuê. Khuyến khích DNNN đã giao, bán, được chuyển thành công ty cổ phần của người lao động. Sát nhập, giải thể, phá sản những DNNN hoạt động không hiệu quả, nhưng không thực hiện được các hình thức nói trên . Sửa đổi, bổ sung Luật phá sản doanh nghiệp theo hướng người quyết định thành lập doanh nghiệp có quyền đề nghị tuyên bố phá sản . Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hiểu biết của người lao động và toàn bộ xã hội đối với chủ trương cổ phần hoá, giao, bán, khoán kinh doanh , cho thuê, giải thể, phá sản DNNN. 2.2. Về việc thực hiện đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty Nhà nước ; hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh. - Tổng công ty Nhà nước phải có vốn điều lệ đủ lớn (tối thiểu là 500 tỷ VNĐ), có thể huy động vốn từ nhiều nguồn, trong đó vốn Nhà nước là chủ yếu; thực hiện kinh doanh đa ngành, có ngành chính chuyên sâu; có liên kết giữa các đơn vị thành viên về sản suất, tài chính, thị trường...: có trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến,năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Để quá trình sắp xếp diễn ra đúng định hướng, cần rà soát lại các quá trình tổng công ty hiện có. Xác định ngành nào lĩnh vực nào cần có tổng công ty Nhà nước thì tập trung kiện toàn và phát triển; những ngành, những lĩnh vực không cần có tổng công ty Nhà nước hoặc tổng công ty không hội đủ những điều kiện về quy mô trình độ công nghệ quản lý, sức cạnh tranh của sản phẩm thì nên sáp nhập. Hoàn thành việc sắp xếp các tổng công ty Nhà nước hiện có nhằm tập trung hơn nữa nguồn lực để chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; làm lực lượng chủ lực trong việc bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô; làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Những ngành, lĩnh vực, sản phẩm cần tổ chức tổng công ty nhà nước: khai thác, chế biến , cung ứng than, các khoáng sản quan trọng; luyện kim; cơ khí chế tạo; sản xuất xi măng; bưu chính; viễn thông; điện tử; hàng không; hàng hải; đường sắt; hoá chất và phân hoá học; sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghiệp thực phẩm quan trọng; hoá dược; xây dựng; kinh doanh bán buôn lương thực; ngân hàng; bảo hiểm.... Trong từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế cần có sự điều chỉnh phù hợp. Những tổng công ty đang hoạt động không có đủ các yêu cầutrên sẽ được sắp xếp lại. Thí điểm, rút kinh nghiệm để nhân rộng việc thực hiện chuyển tổng công ty Nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ -công ty con, trong đó tổng công ty đầu tư vốn vào các doanh nghiệp thành viên là những công ty trách nhiệm hưũ hạn một chủ (tổng công ty) hoặc là công ty cổ phần mà tổng công ty giữ cổ phần chi phối. Công ty con được công ty mẹ đầu tư vốn, chịu sự ràng buộc của công ty mẹ tuỳ theo tỷ lệ đầu tư vốn, tài sản, vị thế của công ty mẹ thông qua Điều lệ Tổ chức và Hoạt động và Quy chế Tài chính. Thực hiện hạch toán kinh tế ở hai cấp, ở mỗi cấp hạch toán, doanh nghiệp đều có pháp nhân đầy đủ. Ngoài ra, tổng công ty có thể đầu tư vào các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Tổng công ty 100% vốn nhà nước phải có hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị là cơ quan đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại tổng công ty, nhận và chịu trách nhiệm bảo toàn, phát triển vốn, tài sản Nhà nước giao. Nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng quản trị: Trình Thủ tướng Chính phủ (hoặc bộ trưởng , chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) xem xét quyết định: chủ trương thành lập , chia tách, sát nhập, chuyển đổi sở hữu, giải thể đơn vị thành viên; ban hành điều lệ mẫu; bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật chủ tịch, uỷ viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc; phê duyệt mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển trung hạn, dài hạn của tổng công ty, các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền Chính phủ phê

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50076.doc
Tài liệu liên quan