Môi trường Marketing vĩmô bao gồm các yếu tố, các lực lượng
mang tính chất xã hội rộng lớn, chúng có tác động ảnh hưởng tới toàn bộmôi
trường Marketing vi mô và tới các quyết định Marketing của doanh nghiệp.
Môi trường Marketing vĩmô tập hợp tất cảcác yếu tốmà doanh nghiệp
không thểkiểm soát và thay đổi được đây chính là nguồn gốc nảy sinh các cơ
hội và rủi ro cho doanh nghiệp. Những yếu tố đó là những yếu tốthuộc về
nhân khẩu học, kinh tế, tựnhiên, kỹthuật, công nghệ, chính trịpháp luật, đạo
đức và văn hóa xã hội,
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4882 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Marketing trong kinh doanh của doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hay từ chối đề nghị
của bên kia.
• Mỗi bên đều tin chắc là mình nên hay muốn giao dịch với
bên kia.
Trao đổi là một quá trình chứ không phải là một sự việc, hai bên
được xem là đang thực hiện trao đổi nếu họ đang thương lượng để đi đến
những thỏa thuận. Khi đã đạt được sự thỏa thuận thì người ta nói rằng một
giao dịch đã hoàn thành. Giao dịch là đơn vị đo lường cơ bản của trao đổi.
Giao dịch là một cuộc trao đổi mang tính chất thương mại những vật có giá trị
giữa hai bên.
Như vậy các giao dịch thương mại chỉ có thể diễn ra thực sự khi hội
đủ các điều kiện:
• Ít nhất có hai vật có giá trị.
• Những điều kiện thực hiện giao dịch đã thỏa thuận xong.
• Thời gian thực hiện đã thỏa thuận xong.
• Địa điểm thực hiện đã thỏa thuận xong.
Những thỏa thuận này có thể được thể hiện trong cam kết hoặc hợp
đồng giữa hai bên, trên cơ sở một hệ thống luật pháp buộc mỗi bên phải thực
hiện cam kết của mình.
Khái niệm trao đổi, giao dịch dẫn ta đến khái niệm thị trường. Thị
trường là tập hợp những người mua nhất định có nhu cầu và mong muốn cụ
thể mà doanh nghiệp có thể thỏa mãn được, thị trường bao gồm những người
mua hiện tại và tiềm ẩn. Như vậy theo quan niệm này thì quy mô thị trường sẽ
8
tùy thuộc vào số người có cùng nhu cầu và mong muốn, vào lượng thu nhập,
lượng tiền vốn mà họ sẵn sàng bỏ ra để mua sắm hàng hóa thỏa mãn nhu cầu
và mong muốn đó. Quy mô thị trường không phụ thuộc vào số người đã mua
hàng và cũng không phụ thuộc vào số người có nhu cầu và mong muốn khác
nhau. Marketing quan niệm những người bán hợp thành ngành sản xuất cung
ứng còn người mua hợp thành thị trường. Do đó thuật ngữ thị trường được
dùng để ám chỉ một nhóm khách hàng có nhu cầu và mong muốn nhất định
được thỏa mãn bằng một loại sản phẩm cụ thể, họ có đặc điểm giới tính hay
tâm sinh lý nhất định, độ tuổi nhất định và sinh sống ở một vùng cụ thể.
Qua những khái niệm trên chúng ta đã có thể hiểu được một cách
đầy đủ và đúng đắn về khái niệm Marketing nói chung. Từ đó thấy được bản
chất của Marketing là đạt được mục tiêu của chủ thể bằng cách thỏa mãn nhu
cầu mong muốn của khách thể. Đứng trên góc độ doanh nghiệp thì bản chất
của Marketing là các hoạt động để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của thị
trường.
1.1.2. Vai trò và vị trí của Marketing trong hoạt động
kinh doanh
Xét về mặt lịch sử, sự ra đời lý thuyết Marketing hiện đại và ứng
dụng nó là một quá trình, quá trình đó gắn liền với quá trình tìm kiếm các triết
lý và phương pháp quản trị doanh nghiệp hướng ra thị trường. Trong thực tiễn
tồn tại 5 triết lý hay 5 quan điểm định hướng cho kinh doanh của doanh
nghiệp.
Khi nền kinh tế chưa phát triển hay phát triển thấp, cung chưa đáp
ứng đủ cầu, sản xuất chưa đáp ứng được tiêu dùng và nhu cầu của người tiêu
dùng còn giản đơn thì quan điểm chỉ đạo các nhà kinh doanh là: quan điểm
định hướng sản xuất. Quan điểm này cho rằng: Người tiêu dùng sẽ ưu thích
nhiều sản phẩm được bán rộng rãi với giá hạ. Vì vậy những nhà quản trị các
doanh nghiệp cần phải tập trung vào việc tăng quy mô sản xuất và mở rộng
9
phạm vi tiêu thụ. Như vậy ở đây người ta cho rằng điều mấu chốt nhất quyết
định sự thành bại của doanh nghiệp là số lượng sản phẩm sản xuất ra và mức
giá bán, nhưng hiện nay quan điểm này đã quá lỗi thời.
Những năm 20, 30 của thế kỷ XX khi nền kinh tế đã phát triển khả
năng cung ứng sản phẩm đã tốt hơn, nhu cầu của người tiêu dùng đã nâng cao
kèm theo sức mua đã gia tăng thì quan điểm định hướng vào hoàn thiện sản
phẩm ra đời. Theo quan điểm này thì: người tiêu dùng luôn ưa thích những
sản phẩm có chất lượng cao nhất, nhiều công dụng và tính năng mới. Vì vậy
các nhà quản trị doanh nghiệp muốn thành công phải luôn tập trung mọi
nguồn lực vào việc tạo ra các sản phẩm có chất lượng hoàn hảo nhất và
thường xuyên cải tiến chúng.. Ưu điểm của quan điểm này là đã chú ý đến lợi
ích của người tiêu dùng, tuy nhiên nhược điểm là chưa chú ý đến nhu cầu và
mong muốn của khách hàng .
Khi nền kinh tế phát triển mạnh nhờ sự phát triển mạnh của cung
thỏa mãn cầu và bắt đầu xuất hiện tình trạng dư thừa, tiêt thụ sản phẩm trở
nên khó khăn do cạnh trạnh khốc liết thì quan điểm tập trung vào bán hàng ra
đời. Quan điểm này cho rằng người tiêu dùng thường bảo thủ và do đó có sức
ỳ hay thái độ ngần ngại, chần chừ trong việc mua sắm hàng hóa. Vì vậy để
thành công doanh nghiệp cần tập trung mọi nguồn lực và sự cố gắng vào việc
thúc đẩy tiêu thụ và khuyến mãi. Tuy nhiên quan điểm này có hạn chế đó là
vẫn chưa đáp ứng nhu cầu vá mong muốn của người tiêu dùng mà chỉ chú ý
đến khâu bán hàng.
Giữa thế kỷ XX, các doanh nghiệp phải đối mặt với cạnh tranh gay
gắt và sự thường xuyên biến đổi của nhu cầu, điều đó đòi hỏi người cung ứng
phải bán những thứ thị trường cần chứ không phải những gì mình có, do đó
quan điểm Marketing ra đời. Nội dung của quan điểm là: chìa khóa để đạt
được mục tiêu trong kinh doanh của doanh nghiệp là phải xác định đúng nhu
cầu và mong muốn của thị trường mục tiêu từ đó tìm ra những biện pháp thỏa
10
mãn nhu cầu mong muốn này bằng phương thức có lợi thế hơn hẳn đối thủ
cạnh tranh.
Đến những năm 90 của thế kỷ XX xã hội phải đối mặt với những
vấn nạn như lãng phí tài nguyên, môi trường sinh thái bị phá vỡ, sự giảm sút
các chuẩn mực xã hội… thì quan điểm Marketing đạo đức xã hội ra đời. Theo
quan điểm thì nhiệm vụ của doanh nghiệp là xác định đúng đắn những nhu
cầu mong muốn của thị trường mục tiêu trên cơ sở đó đảm bảo thỏa mãn nhu
cầu và mong muốn này bằng phương thức hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh
đồng thời bảo toàn hoặc củng cố mức sống sung túc cho người tiêu dùng và
xã hội. Có thể thấy đây là quan điểm tiến bộ và hiện đại nhất cho đến nay.
Như vậy doanh nghiệp cần phải hiểu đúng khái niệm Marketing và
xác định đúng quan điểm tiếp cận khi nghiên cứu và vận dụng Marketing vào
hoạt động kinh doanh của mình bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới hướng đi
của doanh nghiệp. Có định hướng đúng doanh nghiệp sẽ có cơ hội thành công
hơn, nhất là trong môi trường cạnh tranh của cơ chế thị trường.
Qua nghiên cứu và phân tích lịch sử phát triển của Marketing các
nhà kinh tế còn khẳng định Marketing ra đời trước hết chính là để nhằm hỗ
trợ có hiệu quả cho hoạt động thương mại, tiêu thụ sản phẩm, giải quyết
những khó khăn rủi ro mà doanh nghiệp phải đối mặt cũng như xác định được
cơ hội của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp đưa ra giải pháp kinh
doanh có hiệu quả nhất.
Marketing còn có chức năng hết sức quan trọng đó là chức năng kết
nối mọi hoạt động của doanh nghiệp với thị trường. Marketing hướng các nhà
quản trị vào việc trả lời hai câu hỏi:
Một là, liệu thị trường có cần hết hay mua hết số sản phẩm doanh
nghiệp tạo ra hay không?
11
Hai là, liệu cái giá mà doanh nghiệp định bán, người tiêu dùng có
đủ tiền mua hay không?
Qua đó Marketing đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp hướng theo thị trường, biết lấy thị trường – nhu cầu và mong muốn
của khách hàng làm chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi quyết định kinh doanh.
Marketing là một chức năng cơ bản của kinh doanh, nó là đầu mối
quan trọng của một cơ thể quản lý thống nhất, trong điều kiện của kinh tế thị
trường. Nhìn chung chức năng hoạt động Marketing của doanh nghiệp luôn
luôn chỉ cho doanh nghiệp biết rõ những nội dung cơ bản sau:
• Khách hàng của doanh nghiệp là ai? Họ sống và mua hàng ở
đâu? Họ là nam hay nữ? Già hay trẻ? Họ mua bao nhiêu? Vì
sao họ mua?
• Họ cần loại hàng hóa nào? Loại hàng hóa đó có những đặc
tính gì? Bao gói ra sao? Vì sao họ cần những đặc tính đó ma
không phải là những đặc tính khác, những đặc tính hiện thời
của hàng hóa còn thích hợp với khách hàng nữa hay không?
So với hàng hóa của nhãn hiệu cạnh tranh, hàng hóa của công
ty có những ưu thế và hạn chế gì? Có cần phải thay đổi hàng
hóa không? Thay đổi yếu tố và đặc tính nào? Nếu không thay
đổi thì sao? Nếu thay đổi thì sẽ gặp những điều gì?
• Giá hàng của công ty nên quy định là bao nhiêu? Tại sao lại
quy định mức giá như vậy mà không phải là mức giá khác?
Mức giá trước đây còn thích hợp không? Nên tăng hay giảm
giá? Khi nào tăng hoặc giảm? tăng giảm bao nhiêu? Ở đâu?
Với ai?
12
• Doanh nghiệp nên tự tổ chức lực lượng bán hàng hay dựa vào
lực lựong khác? Cụ thể dựa vào ai? Khi nào thì đưa hàng hóa
ra thị trường? khối lượng là bao nhiêu?
• Làm thế nào để khách hàng biết, mua và yêu thích hàng hóa
của doanh nghiệp? Tại sao lại dùng cách thức này mà không
dùng cách thức khác? Các hàng hóa cùng loại người ta giới
thiệu với công chúng bằng cách nào? Tại sao người ta làm
vậy?
• Hàng hóa của doanh nghiệp có cần dịch vụ sau khi bán
không? Loại dịch vụ nào doanh nghiệp có khả năng cung cấp
nhất? vì sao? Vì sao doanh nghiệp lựa chọn loại dịch vụ này
mà không phải loại khác?...
Đó là những vấn đề mà ngoài chức năng Marketing ra thì không
một hoạt động chức năng nào khác của công ty phải có trách nhiệm trả lời,
điều này phản ánh tính chất độc lập của chức năng Marketing so với các chức
năng quản lý khác của công ty. Đương nhiên khi đề cập đến những nội dung
trên nhà quản trị Marketing không thể thoát ly khỏi các khả năng về tài chính,
về sản xuất và công nghệ, trình độ của nguồn nhân lực,... vì giữa chúng có
mối liên hệ với nhau.
Đối với các doanh nghiệp thương mại thì Marketing thương mại
đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Marketing thương mại được hiểu là:
“quá trình tổ chức, quản lý và điều khiển các hoạt động nhằm tạo ra khả năng
và đạt được mục tiêu tiêu thụ có hiệu quả nhất sản phẩm của một tổ chức trên
cơ sở thỏa mãn một cách tốt nhất nhu cầu của nhà sản xuất, nhà thương mại
và người tiêu thụ”.
Mục tiêu của Marketing thương mại cuối cùng vẫn là đảm bảo lợi
nhuận có thể có của doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình kinh doanh trên
13
thị trường. Nhưng mục tiêu trực tiếp của Marketing thương mại có thể được
xác định là tạo ra những cơ hội lớn nhất để tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp mà qua đó mới có thể đạt đến mục tiêu lợi nhuận. Marketing thương
mại được nghiên cứu và phát triển là để nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt
động thương mại. Thực chất của Marketing thương mại là xác định lại cho
phù hợp với điều kiện của nền kinh tế hiện đại vị trí của nhà kinh doanh và
khách hàng trong hoạt động kinh tế. Từ đó sử dụng một cách đồng bộ và khoa
học các quan điểm lý thuyết hiện đại về tổ chức và quản trị kinh doanh trong
quá trình tiếp cận và chinh phục khách hàng để tiêu thụ sản phẩm.
1.2. Nội dung của quản trị Marketing
Quản trị Marketing là phân tích, lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra
việc thi hành các biện pháp nhằm thiết lập củng cố và duy trì những cuộc trao
đổi có lợi với những người mua đã được lựa chọn để đạt được những mục tiêu
của doanh nghiệp đã đề ra.
Các quan điểm quản trị Marketing là những tư tưởng cơ bản của
Marketing đóng vai trò định hướng hoạt động Marketing của doanh nghiệp
nhằm thỏa mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng và giúp doanh nghiệp
cạnh tranh có hiệu quả. Có 5 quan điểm quản trị Marketing và đã được trình
bày ở phần trên. Bản chất của quá trình quản trị Marketing là gồm 3 bước:
• Bước 1: tìm kiếm và lựa chọn giá trị: tức là nghiên cứu và
tìm kiếm giá trị chưa được thỏa mãn và lựa chọn giá trị cung
ứng để thỏa mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng
• Bước 2: tạo giá trị : tìm kiếm các ý tưởng thiết kế những sản
phẩm thỏa mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng là định
giá bán hợp lý, thiết kế kênh phân phối.
14
• Bước 3: thông báo giá trị: thực hiện các hoạt động truyền
thông lựa chọn những hình thức tiêu thụ hợp lý, thực hiện các
dịch vụ hỗ trợ khách hàng.
Quá trình quản trị Marketing gồm 5 bước sau:
1. phân tích các cơ hội Marketing.
2. phân đoạn thị trường lựa chọn thị trường mục tiêu
3. lập kế hoạch chiến lược Marketing
4. hoạch định chương trình Marketing
5. tổ chức thực hiện kiểm tra kiểm soát (và điều chỉnh
nếu có)
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động Marketing
của doanh nghiệp
Hoạt động Marketing của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng chịu tác
động của nhiều nhân tố, các nhân tố đó hình thành môi trường kinh doanh của
một doanh nghiệp. Môi trường được tiếp cận dưới góc độ Marketing là môi
trường Marketing.
Môi trường Marketing là tổng hợp tất cả các yếu tố, những lực
lượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu
cực đến hoạt động hoặc ra các quyết định của bộ phận Marketing trong doanh
nghiệp đến khả năng thiết lập hoặc duy trì mối quan hệ giữa doanh nghiệp với
khách hàng.
Những thay đổi của môi trường Marketing ảnh hưởng sâu sắc và
mạnh mẽ tới các doanh nghiệp. Bao gồm cả ảnh hưởng tốt và xấu tới kinh
doanh. Môi trường không chỉ có những thay đổi, những diễn biến từ từ và dễ
dàng phát hiện và dự báo mà nó còn luôn tiềm ẩn những biến động khôn
lường, thậm chí những cú sốc.
15
Như vậy, môi trường Marketing tạo ra cả những cơ hội thuận lợi và
cả những sức ép, sự đe dọa cho tất cả các nhà kinh doanh. Điều căn bản là họ
phải sử dụng các công cụ nghiên cứu Marketing, các hệ thống Marketing để
theo dõi, nắm bắt và xử lý nhạy bén các quyết định Marketing nhằm thích ứng
với những thay đổi từ phía môi trường.
Môi trường Marketing là tập hợp của môi trường Marketing vi mô
và môi trường Marketing vĩ mô. Môi trường Marketing vi mô bao gồm các
yếu tố liên quan chặt chẽ đến doanh nghiệp và nó ảnh hưởng đến khả năng
của doanh nghiệp khi phục vụ khách hàng. Đó là các nhân tố nội tại của công
ty, các kênh Marketing, thị trường khách hàng, người cạnh tranh, người cung
cấp, các tổ chức trung gian,… các nhân tố này tác động trực tiếp tới hoạt động
của doanh nghiệp và doanh nghiệp cũng có ảnh hưởng nhất định tới những
yếu tố này.
Môi trường Marketing vĩ mô bao gồm các yếu tố, các lực lượng
mang tính chất xã hội rộng lớn, chúng có tác động ảnh hưởng tới toàn bộ môi
trường Marketing vi mô và tới các quyết định Marketing của doanh nghiệp.
Môi trường Marketing vĩ mô tập hợp tất cả các yếu tố mà doanh nghiệp
không thể kiểm soát và thay đổi được đây chính là nguồn gốc nảy sinh các cơ
hội và rủi ro cho doanh nghiệp. Những yếu tố đó là những yếu tố thuộc về
nhân khẩu học, kinh tế, tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ, chính trị pháp luật, đạo
đức và văn hóa xã hội,…
1.4. Kế hoạch hóa hoạt động Marketing trong doanh
nghiệp
1.4.1. Chiến lược Marketing
Để duy trì sự phát triển của mình, mọi doanh nghiệp đều phải nhìn
về phía trước với những mục tiêu cần đạt tới và những cách thức để đạt được
mục tiêu đó. Ngày nay, việc quản lý dựa trên những kinh nghiệm, trực giác và
16
sự khôn ngoan không thể là một sự đảm bảo cho thành công của doanh
nghiệp. Vì vậy, một kế hoạch chiến lược được thiết lập và phát triển cho toàn
bộ các hoạt động của doanh nghiệp là điều cần thiết
Kế hoạch chiến lược giúp cho doanh nghiệp thấy rõ hơn mục tiêu
chỉ đạo, sự phối hợp các hoạt động được hoàn hảo hơn. Đồng thời nó cũng
giúp cho nhà quản trị suy nghĩ có hệ thống những vấn đề kinh doanh nhằm
mang lại những chuyển biến tốt đẹp hơn cho công ty, doanh nghiệp.
Kế hoạch chiến lược của công ty là một chủ thuyết quản trị kinh
doanh làm cơ sở cho việc lập kế hoạch chiến lược kinh doanh sao cho đảm
bảo sự phát triển và duy trì sự thích nghi chiến lược giữa một bên là các mục
tiêu và khả năng của công ty và bên kia là các cơ hội thị trường đầy biến
động.
Như vậy, quá trình lập kế hoạch chiến lược của một công ty là sự
thể hiện của việc tìm hiểu và nhận biết những yếu tố, môi trường bên ngoài,
đánh giá những điều kiện và khă năng bên trong của công ty để soạn thảo các
kế hoạch chiến lược nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định.
1.4.2.Kế hoạch hóa hoạt động Marketing
Kế hoạch hóa hoạt động Marketing là quá trình phân tích, lập kế
hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra các chương trình Marketing đối với từng
nhóm khách hàng mục tiêu có nhu cầu và mong muốn cụ thể
Như vậy kế hoạch hóa Marketing có từng điểm nổi bật đáng lưu ý
là:
Một là, kế hoạch hóa hoạt động Marketing là một quá trình bao
gồm: phân tích, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra.
Hai là, kế hoạch hóa Marketing được triển khai cho từng nhóm
khách hàng mục tiêu có nhu cầu nhất định.
17
Ba là, mỗi nhóm khách hàng mục tiêu có nhu cầu và mong muốn
riêng, nên cũng có thể hiểu kế hoạch hóa Marketing được đặt ra với từng hàng
hóa riêng biệt, từng thị trường cụ thể.
Các giai đoạn của quá trình kế hoạch hóa hoạt động Marketing bao
gồm:
1. Phân tích thị trường và chiến lược Marketing hiện tại:
Phân tích thị trường và chiến lược Marketing hiện tại nhằm đánh
giá những đặc điểm chủ yếu của thị trường như quy mô, cơ cấu, xu hướng
biến động và ảnh hưởng của môi trường Marketing tới việc mua sắm của
khách hàng. Một lần nữa, những nội dung phân tích môi trường lại được đề
cập và tiếp cận để có thể xác định vị thế của công ty trong hiện tại. Chỉ có
điều sự phân tích này phải gắn với từng sản phẩm cụ thể. Đồng thời công ty
cũng cần phải phân tích cạnh tranh như: xác định các đối thủ cạnh tranh, thị
phần và chiến lược của họ. Khi phân tích chiến lược Marketing hiện tại, các
chiến lược bộ phận của Marketing hỗn hợp sẽ được xem xét lại. Cụ thể công
ty xét duyệt lại sản phẩm về doanh số, giá cả và lợi nhuận của những sản
phẩm chính, những nội dung trong chiến lược giá, phân phối và xúc tiến bán
cũng sẽ được xem xét lại trong hoàn cảnh mới.
2. Phân tích cơ may và rủi ro:
Từ những phân tích môi trường và thị trường, những cơ may và rủi
ro đe dọa được nhận biết và xác định. Những cơ may có thể sẽ mở ra những
khả năng phát triển mới nếu công ty tận dụng được. Những rủi ro, đe dọa cần
được nhận biết để có biện pháp giảm thiểu và phòng ngừa.
3. Xác định các mục tiêu Marketing:
Một mặt, các mục tiêu Marketing phải thống nhất và được định
hướng từ các mục tiêu của kế hoạch chiến lược, mặt khác các mục tiêu này
phải được thiết lập một cách rõ ràng, cụ thể và có thể đo lường được. Vì vậy
18
những mục tiêu của kế hoạch Marketing thường là: doanh số bán, lợi nhuận
và thị phần cần đạt được, chất lượng và đặc điểm nổi bật của sản phẩm, giá
cả, dịch vụ, vị thế doanh nghiệp.Thông thường, một kế hoạch Marketing có
thể có nhiều mục tiêu, những mục tiêu này có thể không thống nhất và mỗi
mục tiêu có tầm quan trọng khác nhau vì vậy cần sắp xếp một thứ tự mục tiêu
trong quá trình thực hiện theo tầm mức quan trọng của nó.
4. lựa chọn thị trường mục tiêu:
Dựa trên những kết quả phân tích môi trường thị trường chiến lược
Marketing hiện hành của công ty và nhiệm vụ mục tiêu mà công ty mong
muốn đạt tới, thực chất của việc lựa chọn thị trường mục tiêu là lựa chọn
những nhóm khách hàng tiềm năng mà công ty sẽ phục vụ với các sản phẩm
nhất định. Những thị trường mục tiêu được lựa chọn có thể là một hay một số
đoạn thị trường chính hay toàn bộ thị trường
Khi lựa chọn các thị trường mục tiêu cần làm rõ các vấn đề sau đây:
• loại sản phẩm sẽ được bán để thỏa mãn nhu cầu của khách
hàng.
• Phương thức thỏa mãn nhu cầu đó
• Quy mô và tiềm năng tăng trưởng của thị trường.
• Khả năng bán và thu lợi nhuận
• Mức độ phù hợp giữa một bên là nhu cầu của khách hàng
ở các thị trường được lựa chọn và bên kia là khả năng
thỏa mãn những nhu cầu đó
Tùy thuộc vào việc phân tích, đánh giá những vấn đề nói trên mà
công ty sẽ lựa chọn được những thị trường tiềm năng tốt nhất, được xem như
là những đối tượng của kế hoạch Marketing.
5. Thiết lập Marketing – mix
19
Marketing – mix ( Marketing hỗn hợp ) là một tập hợp các biến số
mà công ty có thể kiểm soát và quản lý được và nó được sử dụng để cố gắng
đạt tới những tác động và gây được những ảnh hưởng có lợi cho khách hàng
mục tiêu. Các bộ phận cấu thành của Marketing hỗn hợp được biết đến như là
4P: chiến lược sản phẩm (product), chiến lược giá cả (price), chiến lược phân
phối (places) và chiến lược xúc tiến khuếch trương (promotion).
• Chiến lược sản phẩm: đó là việc xác định danh mục
sản phẩm, chủng loại, sản phẩm và các đặc tính của nó
như tên gọi, nhãn hiệu, các đặc tính kỹ thuật, bao gói,
kích cỡ và dịch vụ sau bán hàng.
• Chiến lược giá cả: là việc xác định mục tiêu của chiến
lược giá, lựa chọn các phương pháp định giá, các chiến
lược giá của công ty.
• Chiến lược phân phối: bao gồm các vấn đề như thiết
lập các kiểu phân phối, lựa chọn các trung gian thiết
lập mối liên hệ trong kênh và toàn bộ mạng lưới phân
phối, các vấn đề về dự trữ, ,kho bãi, phương thức vận
chuyển…
• Chiến lược xúc tiến và khuếch trương: là mọi hoạt
động của công ty nhằm truyền bá những thông tin về
sản phẩm và dịch vụ của công ty, nó bao gồm các hoạt
động như: quảng cáo, kích thích tiêu thụ và các hoạt
động khuyến mại khác.
Đi liền với các chiến lược bộ phận sẽ là một hệ thống các biện pháp
cụ thể nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp. Các chiến lược bộ phận và
các biện pháp được phối hợp trong quá trình thực hiện sau này.
6. Đề ra chương trình hành động và dự đoán ngân sách
20
Một chương trình hành động cho toàn bộ kế hoạch Marketing của
công ty là cần thiết để đảm bảo rằng kế hoạch này sẽ được thực hiện dưới sự
kiểm soát và điều khiển của các nhà quản trị Marketing. Chưong trình hành
động phải trả lời được các câu hỏi sau:
• Cái gì sẽ được thực hiện?
• Khi nào thực hiện?
• Ai có trách nhiệm thực hiện?
• Tổng chi phí cho nó là bao nhiêu?
Đồng thời cần phải dự đoán ngân sách hay những kết quả tài chính
có thể của kế hoạch Marketing để phù hợp với chương trình và tiến hành thực
hiện một cách tốt nhất.
Tất cả những nội dung trình bày ở trên là nhằm khái quát về
Marketing và tác dụng của nó trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
sau đây em sẽ trình bày về hoạt động Marketing trong một doanh nghiệp
thương mại. Cụ thể là công ty TNHH sản xuất và thương mại Nam Thành,
đây là một doanh nghiệp trẻ đang nghiên cứu, tìm tòi để ứng dụng thành công
Marketing hiện đại trong quản trị kinh doanh. Trong giới hạn của để tài em
chỉ đề cập đến hoạt động kinh doanh thương mại của công ty trên thị trường
may vi tính.
21
Chương II: Thực trạng và một số biện pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động Marketing của công ty TNHH sản xuất và
thương mại Nam Thành
2.1. Thực trạng hoạt động Marketing
2.1.1. Lựa chọn thị trường mục tiêu
Thị trường tổng thể luôn gồm một số lượng rất lớn khách hàng với
những nhu cầu đặc tính mua và khả năng tài chính rất khác nhau. Sẽ không có
một doanh nghiệp nào có thể với tới tất cả các khách hàng tiềm năng, hơn nữa
mỗi doanh nghiệp thường chỉ có một thế manh xét trên một phương diện nào
đó trong việc thỏa mãn nhu cầu thị trường. Do đó phân đoạn thị trường, lựa
chọn thị trường mục tiêu là một trong những nội dung quan trọng nhất của lý
thuyết Marketing và là một khâu không thể thiếu được của tiến trình hoạch
định các chiến lược Marketing. Nắm được điều này nên Nam Thành xác định
rằng: chỉ có thể đáp ứng được nhu cầu và mong muốn của khách hàng bằng
những nỗ lực Marketing nổi trội hơn đối thủ cạnh tranh khi đã chọn được một
thị trường mục tiêu phù hợp.
Hiện nay, Việt Nam đang ra sức xây dựng một nền kinh tế thị
trường phát triển để vững vàng trên hành trình hội nhập thế giới, chủ động với
những cơ hội và thách thức sắp tới. Chúng ta đang đẩy nhanh tiến trình đàm
phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và khẳng định: bằng
những bước tiến vững chắc, trong năm 2006, Việt Nam chắc chắn sẽ gia nhập
WTO. Do ảnh hưởng của toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới hiện nay đang
chuyển thành một hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ thông qua mạng lưới
công nghệ thông tin. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của khoa học và
22
công nghệ trong phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống của con
người.
Thế kỷ XX đánh dấu những biến đổi bước ngoặt của khoa học và
công nghệ, có thể nói sự ra đời của máy vi tính là một phát minh hết sức vĩ
đại. Nó được sử dụng trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế và đời sống xã
hội, đảm nhận nhiều chức năng của lao động trí óc. Từ đó trên thị trường thế
giới và cả Việt Nam xuất hiện nhu cầu rất lớn về máy vi tính. Máy vi tính với
tốc độ tính toán nhanh và bộ nhớ lớn hơn con người rất nhiều có thể giúp
người sử dụng học tập, nghiên cứu, làm việc hoặc đơn thuần chỉ là giải trí. Nó
giúp con người những công việc từ đơn giản như: tạo lập văn bản, tính
toán,… đến những công việc phức tạp hơn như: nghiệp vụ văn phòng, làm đồ
họa,viết nhạc hay thiết kế thời trang. Các phần mềm mang tính thực tiễn cao
được ứng dụng ngày càng nhiều giúp con người giải quyết công việc một
cách nhanh gọn và chính xác, thực tế là một chiếc máy vi tính có thể thay thế
cho rất nhiều người. Bên cạnh đó máy vi tính còn là công cụ giúp con người
kết nối với toàn cầu thông qua mạng Internet.
Qua nghiên cứu tổng quan về thị trường Nam Thành đã qu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- da165_1743.pdf