MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT VÀ CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO 4
I.Hoạt động thương mại doanh nghiệp 4
II.Các cam kết của chính phủ Việt Nam 6
III. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động thương mại của doanh nghiệp sản xuất 13
1.Cơ hội khi gia nhập WTO 13
1.1. Mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu 13
1.2. Nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế 16
1.3. Sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO 16
2. Thách thức của việc gia nhập WTO 17
2.1. Sức ép cạnh tranh 17
2.2 Thách thức về nguồn nhân lực 17
3.Sự tác động đến thương mại đầu vào 18
4.Sự tác động đến thương mại đầu ra 20
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỦA DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT SAU KHI GIA NHẬP WTO 23
1.Những thành tựu đạt được 23
2. Những vấn đề đặt ra 26
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CỦA DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH GIA NHẬP WTO 28
I. Đối với doanh nghiệp 28
1.Giải pháp để vượt qua thách thức 28
2.Doanh nghiệp cần thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh . 29
II. Đối với chính phủ và các cơ quan chức năng có liên quan 30
1.Các giải pháp cho chiến lược phát triển xuất khẩu 30
22. Những giải pháp tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu 32
3.Các doanh nghiệp thương mại, công nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động 33
Kết luận 36
danh mục tài liệu tham khảo 36
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2890 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động thương mại của các doanh nghiệp sản xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tầng mạng (phải thuê mạng do DN Việt Nam nắm quyền kiểm soát) và nới lỏng một chút về việc cung cấp dịch vụ qua biên giới để đổi lấy giữ lại hạn chế áp dụng cho viễn thông có gắn với hạ tầng mạng (chỉ các các doanh nghiệp nhà nước nắm đa số vốn mới đầu tư hạ tầng mạng, nước ngoài chỉ được góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên doanh với đối tác Việt Nam đã được cấp phép).
Dịch vụ phân phối, về cơ bản giữ được như BTA, tức là khá chặt so với các nước mới gia nhập. Trước hết, về thời điểm cho phép thành lập DN 100% vốn nước ngoài là như BTA (1/1/2009). Thứ hai, tương tự như BTA, ta không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, xi măng, phân bón… ta chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm. DN có vốn đầu tư nước ngoài, mở điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được ta cho phép theo từng trường hợp cụ thể.
Dịch vụ bảo hiểm, về tổng thể, mức độ cam kết ngang BTA, tuy nhiên, ta đồng ý cho Hoa Kỳ thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ ngày gia nhập.
Dịch vụ ngân hàng, ta đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007. Ngoài ra ngân hàng nước ngoài muốn được thành lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn phi chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND từ thể nhân Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế về mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam (không quá 30%).
Dịch vụ chứng khoán, ta cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO
Các cam kết khác, với các ngành còn lại như du lịch, giáo dục, pháp lý, kế toán, xây dựng, vận tải… mức độ cam kết về cơ bản không khác nhiều so với BTA. Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn - xuất bản.
III. T¸c ®éng cña viÖc ViÖt Nam gia nhËp WTO ®Õn ho¹t ®éng th¬ng m¹i cña doanh nghiÖp s¶n xuÊt
1.C¬ héi khi gia nhËp WTO
1.1. Mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu
Khi gia nhập WTO, theo nguyªn t¾c tèi huệ quèc, nước ta sẽ được tiếp cận mức độ tự do hãa này mà kh«ng phải đàm ph¸n hiệp định thương mại song phương với từng nước. Hàng hoá của nước ta vì vậy sẽ có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong việc thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế. Do điều kiện tự nhiên và chi phí lao động rẻ, Việt Nam có lợi thế trong một số ngành, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp và dệt may. Đây là hai ngành được WTO rất quan tâm và đã đề ra nhiều biện pháp để xoá bỏ dần các rào cản thương mại. Chẳng hạn, theo Hiệp định Dệt may của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng đối với mặt hàng dệt may được xoá bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng lợi ích này nếu có mối quan hệ thương mại "như thế nào đó" đối với các nước thành viên WTO. Đối với thương mại hàng nông sản, các thành viên WTO cũng đã và đang đưa ra nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan, từ đó mang lại cơ hội mới cho những nước xuất khẩu nông sản như Việt Nam.
Từ thập kỷ 90 cho đến nay, xuất khẩu của Việt Nam đã có bước phát triển ngoạn mục. Tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước năm 2000 đạt 16,5 tỷ USD (xuất khẩu hàng hoá đạt 14,3 tỷ USD và xuất khẩu dịch vụ đạt 2,2 tỷ USD), tăng gấp 6,87 lần so với 1990 (đạt 2,4 tỷ USD). Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình hàng năm của thời kỳ 1991 – 2000 là 21,5%. Năm 2001 xuất khẩu hàng hoá đạt 15,2 tỷ USD, tăng 6,3% so với năm 2000. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu đạt 16,706 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm 2001 và năm 2003, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 19870 triệu USD, tăng 7,4% so với kế hoạch phấn đấu cả năm (18,5 tỷ USD) và tăng 18,9% so với cùng kỳ năm 2002.
Sau thời kỳ bị chững lại năm 1998 và những tháng đầu năm 1999, xuất khẩu của Việt Nam đã trở lại nhịp độ tăng trưởng cao. Năm 1999 tăng 23,3% và năm 2000 tăng 24%. Cho tới năm 2003 đã tăng 18,9% so với năm 2002, đưa xuất khẩu bình quân theo đầu người của Việt Nam vượt xa ngưỡng 170 USD (chỉ sự chậm phát triển về ngoại thương). Bên cạnh đó là sự cải thiện quan trọng cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo hướng tích cực tăng dần tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp (tỷ trọng phát triển từ 38,3% năm 2002 lên 43% năm 2003) và giảm dần tỷ trọng nhóm hàng nguyờn li?u, khoáng sản (từ 31,2% năm 2002 và còn 27,6% năm 2003) và giảm nhẹ tỷ trọng nhóm hàng nông lâm thuỷ sản (từ 30,5% năm 2002 giảm còn 29,4% năm 2003). Ngoài ra, Việt Nam còn chú trọng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ lệ sản phẩm chế biến, giảm xuất khẩu thô, hàng nông lâm – thuỷ sản đầu thập kỷ 90 từng chiếm tỷ trọng trên dưới 50% trong tổng xuất khẩu của Việt Nam (năm 1990 chiếm tỷ trọng 48%, năm 1991 chiếm 52%, 1992 chiếm 49,5% tổng kim ngạch xuất khẩu) đã từng bước giảm đáng kể. Thị trường xuất khẩu sản phẩm của Việt Nam cũng không ngừng được mở rộng và đa dạng hoá. Từ chỗ chỉ xuất khẩu sang các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu, ngày nay sản phẩm của Việt Nam đã có mặt ở khắp mọi nơi trên thế giới. Hàng Việt Nam đã chiếm được thị phần nhất định ở những thị trường lớn thế giới như EU, Mỹ, Nhật Bản...
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra chiến lược phát triển xuất khẩu lâu dài thời kỳ 2001 – 2010 cho các đơn vị kinh tế và định hướng xuất khẩu năm 2004. Năm 2004, dự kiến xuất khẩu hàng hoá đạt 22,45 tỷ USD, tăng 13% so với năm 2003, trong đó các doanh nghiệp 100% vốn trong nước dự kiến 10,85 tỷ USD, tăng 9,5% các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dự kiến 11,6 tỷ USD, tăng 16,4%. Tăng cường xuất khẩu vào các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhât Bản, Ôxtrâylia, các nước ASEAN, các tiểu vương quốc ả rập thống nhất, Nam Phi, Mêxico, Canada, Hàn Quốc, Nga
Định hướng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010
Nhóm hàng hoá
Kim ngạch 2010 (triệu USD)
Tỷ trọng
2000
2010
1. Nguyên, nhiên liệu
1.750
20,1
3 – 3,5
2. Nông sản, thuỷ sản
8.000 – 8.600
23,3
16 – 17
3. Chế biến chế tạo
20.000 – 21.000
31,4
40 – 45
4. Công nghệ cao
7.000
5,4
12 – 14
5. Hàng hoá khác
12.500
19,4
23 – 25
Tổng xuất khẩu hàng hoá
48.000 – 50.000
100
100
Định hướng thị trường xuất khẩu của Việt Nam tới 2010
(Đơn vị: %)
Thị trường
Tỷ trọng 2005
Tỷ trọng 2010
Châu á
57-60
46-50
Nhật Bản
15-16
17-18
ASEAN
23-25
15-16
Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông
16-18
14-16
Châu Âu
26-27
27-30
EU
21-22
25-27
SNG và Đông Âu
1,5-2
3-5
Bắc Mỹ (chủ yếu là Mỹ)
5-6
15-20
Ôxtrâylia và New Zealand
3-5
5-7
Các khu vực khác
2
2-3
1.2. Nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế
Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, sẽ phải vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, từ đó có thêm cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh không những ở trong nước mà còn trên thị trường quốc tế.
1.3. Sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Môi trường thương mại quốc tế, sau này nhiều nỗ lực của WTO, đã trở nên thông thoáng hơn. Tuy nhiên, khi tiến ra thị trường quốc tế, các doanh nghiệp của nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại, trong đó có cả những rào cản trá hình núp bóng các công cụ được WTO cho phép như chống trợ cấp, chống bán phá giá… Tranh thủ thương mại là điều khó khăn mà phần thua thiệt thường rơi về phía nước ta, bởi nước ta là nước nhỏ. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để đấu tranh với các nước lớn, đảm bảo sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Thực tiễn cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả và nhiều nước đang phát triển đã thu được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế này.
2. Thách thức của việc gia nhập WTO
Bên cạnh cơ hội, việc gia nhập WTO cùng tạo ra một số thách thức lớn đối với nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Đó là:
2.1. Sức ép cạnh tranh
Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, loại bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường dịch vụ… sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Đây sẽ là thách thức không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đã quen với sù b¶o trî của Nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẽ không có cách nào khác là chủ động và sẵn sàng đối diện với thách thức này bởi đó là hệ quả tất yếu của sự phát triển, là chặng đường mà mọi quốc gia đều phải đi qua trên con đường hướng tới hiệu quả và phồn vinh. Dù không gia nhập WTO thì thách thức này sớm hay muộn cũng sẽ đến.
2.2 Thách thức về nguồn nhân lực
Để quản lý một cách nhất quán toàn bộ tiến trình hội nhập, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo dựng môi trường cạnh tranh năng động và cải cách có hiệu quả nền hành chính quốc gia, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ đủ mạnh xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với nước ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị từ bây giờ, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ngoài ra, để tận dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và tham gia có hiệu quả vào các cuộc đàm phán trong tương lai của tổ chức này, chúng ta cũng cần phải có một đội ngũ cán bộ thông thạo qui định và luật lệ của WTO, có kinh nghiệm và kỹ năng đàm phán quốc tế. Thông qua đàm phán gia nhập, ta đã từng bước xây dựng được đội ngũ này, nhưng vẫn còn thiếu. Nhằm nâng cao năng lực đối phó với thách thức, nước ta đang tập trung xây dựng cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, củng cố vị thế trên thị trường nội địa. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế để đối phó với tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Kiện toàn, củng cố hệ thống tiêu chuẩn về kỹ thuật, vệ sinh kiểm dịch cũng như hỗ trợ doanh nghiệp các thông tin và kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế…
Thực tế hầu hết các nước gia nhập WTO đều có nền kinh tế phát triển nhanh. Sớm gia nhập WTO, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang quyết tâm phấn đấu, chủ động tạo bước chuyển biến mới về phát triển kinh tế. Nắm bắt thời cơ, vượt qua những thách thức rất lớn, phát huy cao độ nội lực, khai thác tối đa các nguồn lực bên ngoài để tạo thế lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, nhất định đất Việt Nam sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển vào năm 2010 và trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020
3.Sù t¸c ®éng ®Õn th¬ng m¹i ®Çu vµo
a.ThuËn lîi
Nghiên cứu về tác động của gia nhập WTO đã chỉ ra rằng, việc là thành viên của GATT/WTO có quan hệ chặt chẽ với sự tăng lên đáng kể của nhập khẩu từ các nước công nghiệp, tuy nhiên nghiên cứu cũng không chắc chắn trong trường hợp thành viên là các nước đang phát triển. Trên cơ sở phân tích thực tiễn hoạt động XNK Việt Nam thời gian qua, có thể khẳng định với tư cách là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội nhập hàng hoá có chất lượng và giá cả cạnh tranh, đáng chú ý là khối lượng hàng hoá NK có thể tăng nhưng giá trị kim ngạch NK có thể tăng hoặc tăng không đáng kể.Và người Việt Nam sẽ có lợi trong việc tiêu dùng của mình.
Việc nhập khẩu hàng hoá diễn ra dễ dàng sẽ làm cho hoạt động sản xuất-kinh doanh thuận lợi hơn đối với các doanh nghiệp phải NK công nghệ và nguyên liệu ®Çu vµo.
Giá thành các yếu tố đầu vào trở nên rẻ hơn,gia nhập WTO các doanh nghiệp sẽ không còn phải lo lắng nhiều về giá cả cũng như chất lượng các yếu tố đầu vào cho sản xuất như nguyên, nhiên vật liệu cho các quá trình sản xuất ra sản phẩm. Càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội tiếp cận được với các nguồn nguyên nhiên vật liệu, các dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị phục vụ cho đầu vào sản xuất.
Sự xuất hiện thêm nhiều nhà cung ứng các yếu tố đầu vào từ các quốc gia trong khối wto và hơn nữa nước ta là một địa chỉ đầu tư vốn có lực lượng lao động trẻ, dồi dào, giá nhân công rẻ sẽ làm cho các yếu tố này trở nên rẻ và nhiều hơn và hơn nữa sức ép cạnh tranh cũng là một trong những nhân tố quan trọng giúp giá cả hạ.
Các mối quan hệ kinh tế hợp tác không chỉ đơn thuần mang tính chất ngắn hạn (mua đứt-bán đoạn) mà dần sẽ trở thành quan hệ hợp tác truyền thống đôi bên cùng có lợi của nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp được tự do trong lựa chọn bạn hàng và nhà cung cấp các yếu tố đầu vào cho mình do vậy họ sẽ quan tâm rất nhiều đến giá cả và chất lượng từ phía các nhà cung cấp.
Điều này cũng dẫn tới các nhà cung cấp sẽ chủ động tìm đến các doanh nghiệp sản xuất và trở nên linh hoạt hơn trong chiến lược bán và cung cấp các sản phẩm của mình. Các nhà cung cấp sẽ chủ động tiếp cận và nắm bắt nhu cầu của các doanh nghiệp ma mình nhắm tới. Điều này giúp doanh nghiệp sản xuất tiết kiệm thời gian mua sắm các yếu tố đầu vào cũng như những khoản chi phí không đáng có.
b.Khó khăn:
Công nghiệp phụ trợ phát triển chậm làm gia tăng sự phụ thuộc vào thị trường thế giới dẫn tới đẩy chi phí trung gian lên cao nhất là khi giá nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới tăng mạnh.
Việc loại bỏ, cắt giảm hàng rào thuế quan theo các cam kết đối với hàng hoá NK theo hạn định của WTO cũng đồng thời làm gia tăng sức cạnh tranh đối với hàng hoá sản xuất trong nước. Đây là một thách thức đối với các doanh nghiệp trong nước khi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung còn hạn chế
4.Sự tác động đến thương mại đầu ra
a.Thuận lợi:
Các doanh nghiệp có cơ hội được tiếp cận và xâm nhập vào các thị trường tiêu thụ rộng lớn của khối wto mà mức độ khai thác tùy thuộc vào tiềm lực và chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như khả năng bắt kịp với những thay đổi của môi trường kinh doanh quốc tế.
Sự thành công chỉ thuộc về những doanh nghiệp có tầm nhìn, hướng đi và mức độ chuyên môn hóa đạt đẳng cấp quốc tế.
Việc giảm giá thành các yếu tố đầu vào dẫn đến giảm giá thành sản phẩm làm cho sản phẩm của doanh nghiệp sẽ chiếm ưu thế trong cạnh tranh về giá so với các sản phẩm cùng loại. Đây cũng là thuận lợi cho các doanh nghiệp vốn có chất lượng và giá cả ổn định.
b. Khó khăn:
b.1.Sức ép cạnh tranh lớn:
Diễn ra sự phá sản và giải thể của hàng loạt doanh nghiệp quen làm ăn và hoạt động theo tư duy cũ, không nhạy bén cũng như không bắt kịp với những thay đổi của thời cuộc.
Hoạt động tiêu thụ về một mặt nào đó sẽ thuận lợi hơn bởi có được một thị trường rộng lớn hơn trước song sự xuất hiện của rất nhiều các đối thủ cạnh tranh đến từ các quốc gia và miền lãnh thổ với tiềm lực tài chính và kinh nghiệm thương trường cùng với đội ngũ nhân lực đạt trình độ quốc tế chắc chắn sẽ gây khó khăn cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước.
Viêc bị mất thị phần sản phẩm vào tay các đối thủ cạnh tranh cũng như việc phân chia lại thị phần của một sản phẩm hoặc một ngành hàng nào đó sẽ diễn ra. Kinh tế thị trường với những qui luật vốn có của nó sẽ đưa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau gay gắt, để đứng vững và tồn tại được trên thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải nỗ lực với các kế hoạch, chiến lược, tầm nhìn mang tính lâu dài, bền vững và phù hợp quốc tế và hội nhập toàn cầu. Hoạt động thương mại đầu ra xét về một phương diện nào đó chỉ là hoạt động tiêu thụ sản phẩm (hay là khâu bán hàng) nhưng nó có tính chất quyết định đến sự tồn tại đến sự phát triển của doanh nghiệp sản xuất.
Trong điều kiện cạnh tranh sẽ diễn ra xu hướng sáp nhập, hợp nhất các công ty và các doanh nghiệp nhỏ thành các công ty và tập đoàn kinh tế lớn mạnh hơn. Việc để rơi thị phần vào tay các tập đoàn kinh tế và các đối thủ cạnh tranh đến từ các quốc gia khác trong thời gian đầu của thời kỳ hội nhập là điều không thể tránh khỏi. Các doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị những điều kiện cần thiết, khắc phục những yếu kém thiếu sót, tổ chức và tổ chức lại các chiến lược tiêu thụ, quảng cáo, bán hàng, makerting…
Ngoài ra sẽ xảy ra sự cạnh tranh về nguồn nhân lực trong hoạt động thương mại của các doanh nghiệp sản xuất. Đây cũng sẽ là một khó khăn không nhỏ đối với các doanh nghiệp trong nước bởi vấn đề nhân sự của các doanh nghiệp trong nước vẫn làm chưa tốt.
Tóm lại sự cạnh tranh sẽ diễn ra trên toàn diện các mặt của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cạnh tranh là điều tất yếu.
b.2.Sẽ hoàn toàn không có sự bảo hộ của nhà nước
Trong điều kiện hội nhập wto, các doanh nghiệp nhận được rất ít và có khi gần như hoàn toàn không có sự bảo hộ hay các chính sách trợ giá cho các sản phẩm hoặc ngành hàng từ phía chính phủ.
Các doanh nghiệp phải chủ động tìm thị trường cho sản phẩm, hoàn toàn độc lập và tự chịu trách nhiệm trong mọi quyết định sản xuất kinh doanh của mình
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỦA DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT SAU KHI GIA NHẬP WTO
1.Những thành tựu đạt được
Do phải thực hiện cam kết, chúng ta tạo ra được môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, không phân biệt đối xử. Đây là những yếu tố khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hơn nữa, với việc gia nhập WTO, các nhà đầu tư có được thị trường tiêu thụ rộng lớn cho sản phẩm của mình mà không bị phân biệt đối xử. Đây cũng là yếu tố làm tăng khả năng thu hút các nhà đầu tư.
Thực tế đã xuất hiện làn sóng đầu tư đổ vào nước ta từ cuối năm 2006, trong đó có các tập đoàn và công ty lớn khi các nhà đầu tư đã thấy rõ khả năng Việt Nam có thể gia nhập WTO trong năm đó. Làn sóng này tiếp tục mạnh hơn trong năm 2007. Chỉ tính 11 tháng đầu năm 2007 cả nước đã tiếp nhận trên 15 tỉ USD vốn FDI, tăng gần 40% so với cùng kỳ năm trước vượt mục tiêu đề ra cho cả năm 2007 (13 tỉ). Đầu tư từ khu vực dân doanh trong nước cũng tăng nhanh và tăng khoảng 20% so với năm 2006, đưa tổng vốn đầu tư toàn xã hội lên trên 40% GDP. Đây là cơ sở quyết định để thúc đẩy dịch chuyển cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và bảo đảm tăng trưởng.
Gia nhập WTO chúng ta có thị trường xuất khẩu rộng lớn bao gồm 150 thành viên với mức cam kết về thuế nhập khẩu đã và sẽ được cắt giảm cùng các biện pháp phi quan thuế cũng sẽ được loại bỏ theo nghị định thư gia nhập của các thành viên này mà không bị phân biệt đối xử. Điều đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu.
Thực tế, xuất khẩu 11 tháng ước đạt 43 tỉ 640 triệu USD, tăng 20% so với cùng kỳ 2006. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu cả năm 2007 đạt khoảng 48 tỉ USD. Nếu không có sự sụt giảm về sản lượng khai thác và xuất khẩu dầu thô thì tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu còn cao hơn so với mức tăng của năm 2006. Điều đáng chú ý là: lần đầu tiên trong nhiều năm, tốc độ tăng xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước cao hơn khu vực có vốn nước ngoài (22,1% so với 18,6%) chứng tỏ các doanh nghiệp trong nước đã năng động khai thác thị trường - cơ hội do việc gia nhập WTO mang lại; do không bị khống chế về hạn ngạch khi trở thành thành viên của WTO, 11 tháng kim ngạch xuất khẩu dệt may n¨m 2007 đã đạt trên 7 tỉ USD, tăng 32% so với cùng kỳ chiếm trên 16% tổng kim ngạch xuất khẩu; xuất khẩu các mặt hàng thuộc nhóm các hàng hóa khác mà chúng ta không thống kê được các sản phẩm cụ thể tăng mạnh, tỉ lệ tăng 38,9% với kim ngạch 8 tỉ 700 triệu USD chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu (nếu thống kê rõ được chi tiết các sản phẩm, chúng ta sẽ có những giải pháp thúc đẩy tăng trưởng cao hơn).
Tổng kim ngạch xuất khẩu 11 tháng 2007 ước đạt 43,68 tỷ USD và bình quân 1 tháng đạt xấp xỉ 4 tỷ USD, thì tháng 12 ước đạt 4,7 tỷ USD, cao hơn mức bình quân tháng trong 11 tháng trước đó, cao nhất từ đầu năm đến nay. Kết quả trong tháng 12 đưa kim ngạch xuất khẩu cả năm 2007 lên 48,38 tỷ USD. Theo ước tính, nếu tính bằng USD tổng kim ngạch xuất khẩu so với GDP đạt 67,9%, thuộc loại cao ở châu Á và thế giới. Tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt khoảng 568 USD, cao nhất từ trước tới nay. So với năm trước, xuất khẩu tăng 21,5%
Năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước cao hơn tốc độ tăng chung, chứng tỏ khu vực này đã tận dụng được cơ hội do vị thế mới của thành viên WTO. Nếu không kể dầu thô bị sút giảm thì kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng khác của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) còn tăng cao hơn khu vực kinh tế trong nước
Điều đó cho thấy, khu vực FDI đã tận dụng tốt hơn cơ hội WTO. Xuất khẩu tăng ở hầu hết các mặt hàng, trong đó có những mặt hàng có kim ngạch tăng khá cao: dệt may, điện tử máy tính, hàng thủ công mỹ nghệ, dây điện và cáp điện, sản phẩm nhựa, gỗ, cà phê, hạt tiêu, hạt điều. Đã có 9 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD là dầu thô, dệt may, giày dép, thuỷ sản, sản phẩm gỗ, điện tử máy tính, cà phê, gạo và cao su với kim ngạch đạt 33 tỷ USD, chiếm 68,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 60,83 tỷ USD, cũng là mức kỷ lục từ trước tới nay, tăng tới 35,5% so với năm trước. Đã có 13 mặt hàng đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên. Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt trên 10 tỷ USD, xăng dầu đạt trên 7 tỷ USD, sắt thép đạt gần 5 tỷ USD, vải 4 tỷ USD, điện tử máy tính và linh kiện đạt gần 3 tỷ USD. Do tốc độ tăng nhập khẩu cao gấp rưỡi tốc độ tăng xuất khẩu, nên nhập siêu đã gia tăng so với cùng kỳ năm trước cả về kim ngạch tuyệt đối (12,45 tỷ USD so với gần 5,1 tỷ USD) và cả về tỷ lệ so với xuất khẩu (25,6% so với 12,7%). Mặc dù nhập siêu tăng chủ yếu so nhập thiết bị máy móc, nguyên nhiên vật liệu tăng cao, một phần do giá nhập tăng: xăng dầu, sắt thép, phân bón, chất dẻo, giấy sợi, dệt, bông, nhưng có ba vấn đề đáng lưu ý
Một, mức nhập siêu như thế là rất cao, vượt xa so với năm trước và cao gấp hơn hai lần so với kế hoạch, có những lĩnh vực không thể coi là hợp lý hay cần thiết, bởi có nhiều loại mà trong nước có thể sản xuất được. Hai, do hiệu quả và sức cạnh tranh của sản xuất trong nước, nên nhiều mặt hàng đã thua ngay trên sân nhà
Ba, trong khi xuất siêu với Mỹ, EU... nhưng lại nhập siêu lớn đối với các nước trong khu vực, nhất là Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan...
Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB) kinh tế thế giới sẽ đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 4,4%/năm giai đoạn 2003-2006 và đạt 4,3%/năm giai đoạn 2007-2010. Các nước phát triển được dự báo sẽ đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế tương ứng 2,6%/năm và 2,9%/năm. Các nước đang phát triển đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế 6,6%/năm và 5,8%/năm trong giai đoạn tương ứng. Cũng theo dự báo của WB, nhập khẩu hàng hoá của toàn thế giới giai đoạn 2007-2010 là 6,7%/năm. Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là EU, Nhật Bản, Trung Quốc, các nước đang phát triển châu Á.
Đây là yếu tố thuận lợi để Việt Nam đẩy mạnh công tác xuất khẩu của mình, phấn đấu không chỉ dừng lại ở mức đạt các mục tiêu trong chiến lược 10 năm mà còn tạo ra bước phát triển mạnh mẽ để góp phần vào sự tăng trưởng chung của kinh tế đất nước. Dự báo, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân của Việt Nam giai đoạn 2006-2010 là 17,5%/năm.Mục tiêu quan trọng trong chiến lược xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2007-2010 là, “chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị tăng cao; tăng sản phẩm chế biến chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Theo đó, tỷ trọng của các nhóm hàng nông-lâm-thuỷ sản và nhiên liệu và thủ công mỹ nghệ. Theo đó, nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản với hai mặt hàng chủ yếu là dầu thô và than đá giảm mạnh từ 21,0% năm 2006 xuống còn 9,6% năm 2010. Dự kiến lượng dầu thô xuất khẩu năm 2007 là 19 triệu tấn và bắt đầu giảm xuống còn 15,6 triệu tấn vào năm 2010.
2. Những vấn đề đặt ra
Điểm mạnh của Việt Nam vẫn chỉ là giá cả và số lượng lớn chứ chưa thực sự chú trọng vào vấn đề chất lượng, nguyên vật liệu xuất khẩu ở dạng thô chưa qua tinh chế là chủ yếu.
Vẫn thiếu đi một sự đầu tư qui mô, đồng bộ nên dẫn đến hoạt động thương mại đầu vào cũng như đầu ra chưa thực sự đivào chuyên môn hóa trong khi đó người tiêu dùng trong nước yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ với chất lượng ngày càng cao. Các hình thức giao dịch và mua bán hàng hóa trực tiếp qua mạng và truyền hình ngày càng phổ biến.
Bản thân các doanh nghiệp phải tìm các phương thức mới két hợp với các phương thức tiêu thụ truyền thống để nâng cao sức cạnh tranh cũng như tăng lượng bán cho sản phẩm của doanh nghiệp.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CỦA DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH GIA NHẬP WTO
I. Đối với doanh nghiệp
1.Giải pháp để vượt qua thách thức
Doanh nghiệp là nhân vật trung tâm của kinh tế thị trường khi chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang, lại càng là nhân vật trung tâm trong mở cửa hội nhập. Khi Việt Nam gia nhập WTO, trong rất nhiều công việc phải làm, các doanh nghiệp cần tập trung làm bốn việc chủ yếu sau đây.
Thứ nhất, doanh nghiệp chủ động tìm hiểu luật chơi của WTO, nghiên cứu kỹ những thỏa thuận về việc gia nhập WTO khi được phổ biến.
Luật chơi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tác động của việc VN hội nhập WTO đến hoạt động thương mại của các Doanh nghiệp sản xuất.DOC