Đề án Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay

MỤC LỤC

Lời nói đầu 2

Phần 1: Nội dung

I. Những vấn đề lý luận về kinh tế Nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay 3

1- Những quan niệm về kinh tế nhà nước 3

1.1- Một số vấn đề lý luận về kinh tế nhà nước 3

1.2- Khái niệm về kinh tế nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay 3

1.2.1- Kinh tế nhà nước 3

1.2.2- Các bộ phận cấu thành kinh tế nhà nước 5

2- Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay 6

2.1- Cơ sở lý luận về vai trò chủ đạo và sự cần thiết khách quan kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta hiện nay 6

2.2- Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 6

2.3- Các điều kiện để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân 10

II. Thực trạng và giải pháp để tăng cường vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay 11

1- Thực trạng về tăng cường vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước 11

1.1- Những thành tựu đã đạt được 11

1.2- Những tồn tại và yếu kém 12

2- Các giải pháp để tăng cường vai trò chủ đạo của khhu vực kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay 15

2.1- Yêu cầu chung 15

2.2- Phương hướng và các giải pháp cơ bản cần thực hiện 15

Phần II: Kết luận 19

Tài liệu tham khảo 20

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1615 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảng ta luôn khẳng định thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, cần tiếp cận một cách đầy đủ và rõ ràng khái niệm về kinh tế nhà nước (hay khu vực kinh tế nhà nước) và thành phần kinh tế nhà nước: Thành phần kinh tế nhà nước là nói tới quan hệ sản xuất đặt trên nền tảng sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện. Thành phần kinh tế là một phạm trù kinh tế chính trị dùng để nhận thức tổng thể kết cấu kinh tế – xã hội. Thành phần kinh tế nhà nước là một trong 6 thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay, đại diện cho quan hệ sản xuất XHCN. Kinh tế nhà nước là khu vực kinh tế do nhà nước nắm giữ, dựa trên cơ sở quan trọng là sở hữu nhà nước. Hay nói cách khác KTNN là toàn bộ hoạt động kinh tế thuộc sở hữu nhà nước, trên cơ sở đó Nhà nước có quyền quản lý, sử dụng hiệu quả kinh tế do lực lượng kinh tế của nhà nước mang lại. Kinh tế nhà nước phải là và bao gồm những hoạt động kinh tế mà nhà nước là chủ thể, có quyền tổ chức, chi phối hoạt động theo hướng đã định. Về bản chất thì “ Kinh tế nhà nước” và “Thành phần kinh tế nhà nước” là một. Hai thuật ngữ này cùng là để chỉ một bộ phận của nền kinh tế, nhưng chỉ các góc độ khác nhau. Khi nói đến thành phần kinh tế là nhằm để căn cứ vào vai trò của nó trong nền kinh tế để xác định các chính sách và có cơ chế quản lý thích hợp. 1.2.2- Các bộ phận cấu thành kinh tế nhà nước - Nếu xét theo lĩnh vực hoạt động thì khu vực kinh tế nhà nước gồm: + Hoạt động trực tiếp trong sản xuất- kinh doanh hàng hoá dịch vụ + Hoạt động kinh tế nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội. - Xét về hình thức tổ chức Khu vực kinh tế nhà nước bao gồm nhiều bộ phận hoạt động trong các lĩnh vực then chốt, thiết yếu của nền kinh tế quốc dân. Mỗi bộ phận có chức năng, nhiệm vụ khác nhau, nhưng đều nhằm thực hiện vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước ở một mức độ nhất định. Cụ thể như sau: + Ngân sách nhà nước: Thực hiện chức năng thu - chi ngân sách và có nhiệm vụ điều chỉnh, quản lý, kiểm soát các hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước và các thành phần khác theo mục tiêu kinh tế - xã hội đã định. + Ngân hàng nhà nước: Có tác dụng điều chỉnh, quản lý, kiểm soát các hoạt động kinh doanh tiền tệ. + Kho bạc nhà nước: Quản lý quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, đồng thời kiểm soát quá trình chi tiêu ngân sách cho những mục đích khác nhau. + Các quỹ dự trữ quốc gia: Nhằm đảm bảo cho khu vực kinh tế nhà nước hoạt động bình thường trong mọi tình huống, là lực lượng vật chất để nhà nước điều tiết, quản lý, bình ổn giá cả thị trường, đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội. + Các tổ chức sự nghiệp có thu: Hoạt động gần giống như doanh nghiệp nhà nước trong cung ứng một số dịch vụ công. + Hệ thống doanh nghiệp nhà nước: Đây là lực lượng vật chất cơ bản, đảm bảo cho sự thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của Nhà nước. Xét theo mục tiêu hoạt động thì các doanh nghiệp nhà nước được chia thành 3 nhóm: Nhóm I: Nhóm các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Nhóm II: Nhóm các doanh nghiệp nhà nước bán công ích. Nhóm III: Nhóm doanh nghiệp nhà nước thuần tuý kinh tế. Sản xuất và kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận Như vậy, khu vực kinh tế nhà nước là một khu vực rộng lớn, hoạt động trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Các bộ phận của khu vực KTNN tuy có nhiêm vụ, chức năng cụ thể khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau trong hệ thống kinh tế nhà nước thống nhất và hoạt động theo một thể chế thống nhất do nhà nước quy định. 2- Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay 2.1- Cơ sỏ lý luận về vai trò chủ đạo và sự cần thiết khách quan kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta hiện nay Để thực hiện được mục tiêu cuối cùng của CNXH ở nước ta là: “Xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì phải xoá bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu. Thiết lập chế độ công hữu là quá trình lâu dài, không thể tiến hành bằng những biện pháp chủ quan duy ý chí như nước ta đã từng tiến hành trước đây. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN do đó rất cần thiết phải được tăng cường, bởi vì :“Chủ đạo” có nghĩa là chi phối toàn bộ hoạt động của một hệ thống nào đó, bộ phận kinh tế chủ đạo phải chi phối và dẫn dắt các bộ phận kinh tế khác. Và cũng chỉ có khu vực kinh tế nhà nước với đầy đủ tiềm lực vật chất to lớn mới có khả năng thực hiện vai trò chủ đạo: bộ phận kinh tế nhà nước, một mặt quyết định quỹ đạo phát triển của nền kinh tế cả nước, mặt khác, bảo đảm duy trì cân bằng quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. 2.2- Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, kinh tế nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định tới tính chất định hướng của nền kinh tế quốc dân. Đây cũng chính là điểm khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường TBCN. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước biểu hiện ở vai trò quyết định của nó đối với xu thế phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là trung tâm tác động, chi phối và định hướng cho sự vận động của các thành phần kinh tế khác. Biểu hiện cụ thể ở các nội dung sau: - Thứ nhất, kinh tế nhà nước trở thành lực lượng vật chất và công cụ sắc bén để nhà nước thực hiện chức năng định hướng, điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trong nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần định hướng XHCN, KTNN có vai trò vĩ mô điều hành trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động thông suốt, tạo lập những cân đối lớn theo định hướng XHCN mà thị trường không tự điều chỉnh được. Đây là một trong những vai trò cực kỳ quan trọng của kinh tế nhà nước. Bởi lẽ, trong nền kinh tế thị trường nhà nước cần một lực lượng kinh tế mạnh làm hậu thuẫn. Tiềm lực kinh tế ấy do khu vực kinh tế nhà nước cung cấp phần rất cơ bản. - Thứ hai, hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước là nhằm mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. Để mọi thành phần kinh tế hoạt động theo mục tiêu định sẵn của nhà nước thì phải thông qua hai cách thức được thực hiện đồng thời là: + Quy hoạch chiến lược ngành, vùng, sản phẩm của bản thân KTNN cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở đó, các thành phần kinh tế khác có thêm luận cứ để xây dựng chiến lược kinh doanh của mình. + Cung cấp cơ sở hạ tầng và những dịch vụ công cộng với chất lượng cao, giá cả rẻ cho các thành phần kinh tế khác ở những lĩnh vực mà nhà nước muốn khuyến khích họ đầu tư. Có thể hiểu sự hỗ trợ, kích thích của kinh tế nhà nước đối với các thành phần kinh tế khác bao gồm: + Ưu đãi về vay vốn, lãi suất, thuế, tiền thuê đất cho hoạt động của các thành phần kinh tế. + Tìm kiếm và mở rộng thị trường bao gồm cả thị trường đầu vào lẫn thị trường đầu ra cho các thành phần kinh tế. + Trợ giá hàng xuất khẩu cho các thành phần kinh tế khác khi cần thiết. + Hỗ trợ, khuyến khích các thành phần kinh tế đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực cạnh tranh. + Duy trì và kính thích cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. - Thứ ba, kinh tế nhà nước là lực lượng xung kích chủ yếu thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhất là trong bối cảnh tiềm lực của khu vực dân doanh còn chưa đủ mạnh để đảm đương nhiệm vụ nặng nề do quá trình công nghiệp hoá đặt ra thì kinh tế nhà nước, đặc biệt là đầu tư mới của nhà nước, vẫn phải là lực lượng chủ chốt. - Thứ tư, kinh tế nhà nước nắm giữ các vị trí then chốt trong nền kinh tế nhằm đẳm bảo các cân đối vĩ mô nền kinh tế cũng như tạo đà tăng trưởng lâu dài, bền vững và hiệu quả cho nền kinh tế. Vai trò của kinh tế nhà nước xét trên các lĩnh vực cụ thể có các nội dung như : + Trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội: KTNN phải là nòng cốt, có vai trò quyết định, tạo điều kiện mở đường cho toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời phát huy sức dân cùng tham gia, nhất là ở những khâu có khả năng thu hồi vốn tương đối nhanh và có lãi. + Trong công nghiệp, KTNN phải đi đầu và làm nòng cốt trong một số ngành mà nền kinh tế nước ta nhất thiết phải có để tạo cơ sở cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, như: luyện kim, cơ khí chế tạo máy, hoá chất…đồng thời phải quan tâm đáp ứng có chọn lọc một số nhu cầu thiết yếu của nhân dân và cả cho xuất khẩu với chất lượng cao. + KTNN trong nông, lâm, ngư nghiệp phải hỗ trợ kinh tế hợp tác và kinh tế hộ sản xuất, kinh doanh có hiệu quả; phải làm đòn bẩy trong xây dựng kết cấu hạ tầng hạ tầng nông thôn, đưa công nghệ mới vào sản xuất, phát triển công nghiệp chế biến; điều tiết và bình ổn giá cả có lợi cho nông dân. + Thương nghiệp nhà nước phải giữ vững vai trò nòng cốt, chi phối trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá đối với khâu xuất khẩu, những ngành hàng và địa bàn quan trọng; chi phối bán buôn và tổ chức tốt dự trữ lưu thông những mặt hàng thiết yếu cho cả sản xuất và đời sống. + Kinh tế nhà nước giữ vai trò chi phối để bảo đảm sự tăng trưởng của đất nước trong các lĩnh vực tài chính, dịch vụ kiểm toán, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường. - Thứ năm, kinh tế nhà nước trực tiếp tham gia khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường, điều chỉnh các “Lỗ hổng” trong quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ do cơ chế thị trường tạo ra. Trong các lĩnh vực hoạt động cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng khả năng sinh lời thấp, không hấp dẫn khu vực tư nhân đầu tư thì kinh tế nhà nước phải trực tiếp đảm nhiệm. - Thứ sáu, KTNN phải là hình mẫu về ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. - Thứ bảy, thực hiện dự trữ quốc gia nhằm đảm bảo hành lang an toàn cho nền kinh tế. - Thứ tám, giải quyết các vấn đề xã hội. KTNN là lực lượng vật chất và công cụ để Nhà nước đảm bảo sự ổn định xã hội, tạo tiền đề để mỗi người có thể phát triển toàn diện. - Thứ chín, kinh tế nhà nước tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới. Khu vực kinh tế nhà nước gồm nhiều bộ phận cấu thành, trong đó hệ thống doanh nghiệp nhà nước là bộ phận cơ bản nhất. Vai trò chủ đạo của hệ thống doanh nghiệp nhà nước gắn liền với việc tham gia vào hoạt động KTNN, được thể hiện: + Là công cụ chủ yếu tạo ta sức mạnh vật chất để nhà nước giữ vững ổn định chính trị – xã hội, điều tiết và hướng dẫn kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. + Mở đường, hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. + Đảm nhận các lĩnh vực hoạt động có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, như: kết cấu hạ tầng, an ninh, quốc phòng. + Góp phần quan trọng khắc phục những khiếm khuyết của cơ chế thị trường, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. + Là lực lượng xung kích tạo ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy nhanh tiến bộ khoa học công nghệ. + Là lực lượng đối trọng trong cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, chống sự lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế trong điều kiện mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới. + Thực hiện một số chính sách xã hội đặc biệt. + Là lực lượng tạo nền tảng cho xã hội mới. Tóm lại, nói đến vai trò chủ đạo của KTNN là nói đến vai trò trung tâm, quyết định xu hưóng vận động phát triển đối với toàn bộ nền kinh tế trong thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội đất nước trong từng giai đoạn của thời kì quá độ cũng như đảm bảo định hướng XHCN trên thực tế xây dựng xã hội mới. Từ đó giúp chúng ta định hướng đúng việc sắp xếp lại các tổ chức kinh tế nhà nước hiện nay; đề ra cơ chế, chính sách phù hợp, biện pháp quản lý hữu hiệu đối với khu vực KTNN nói chung và các doanh nghiệp nhà nước - bộ phận chính yếu của KTNN nói riêng, đồng thời thiết lập các định chế yểm trợ phát triển chung. 2.3- Các điều kiện để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân Điều kiện cần và đủ để khu vực kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế bao gồm các yếu tố kiến trúc thượng tầng xã hội và bản thân khu vực kinh tế nhà nước. Các yếu tố kiến trúc thượng tầng, như hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước,.. là nhằm tạo môi trường pháp lý và hỗ trợ cho khu vực kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo. Về bản thân khu vực kinh tế nhà nước: vai trò chủ đạo, định hướng XHCN trước hết đòi hỏi khu vực kinh tế nhà nước phải có lực lượng sản xuất với trình độ phát triển cao. Tiềm lực vật chất trong tay nhà nước có ý nghĩa quyết định, không chỉ trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế mà ngày càng trở nên quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Như vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, KTNN không những không mất đi vị trí, vai trò, chức năng của mình mà thậm chí, ở một giác độ nào đó, còn có tầm quan trọng ở mức độ cao hơn. Tất nhiên, nội dung của khái niệm KTNN cũng như các mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành, nguyên tắc tác động và mức độ ảnh hưởng của từng bộ phận cấu thành đó đến hệ thống kinh tế nói chung đã có sự thay đổi so với nhận thức trước đây. II. Thực trạng và giải pháp về tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay Thực trạng về tăng cường vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước - Những thành tựu đã đạt được Có thể nói cho đến nay kinh tế nhà nước vẫn là lực lượng kinh tế mạnh, giữ những khâu then chốt nhất trong nền kinh tế quốc dân. Điều này được thể hiện thông qua bảng số liệu sau: Năm 1986 1990 1995 2000 Kinh tế nhà nước 39,7 31,8 40,2 39,0 Ngoài nhà nước 60,3 68,2 53,5 43,7 Đầu tư nước ngoài 0,0 0,0 6,3 13,3 Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế (% theo giá hiện hành) NXB Thống Kê – Hà Nội 2001 Mặc dù hệ thống doanh nghiệp nhà nước có sự thu gọn đầu mối đáng kể nhưng tăng trưởng của nó vẫn gấp rưỡi tốc độ tăng chung của nền kinh tế quốc dân (giai đoạn 1991 – 1995) và cao hơn tốc độ của khu vực tư nhân (không kể đầu tư nước ngoài). Mặt khác, sự chiếm lĩnh của KTNN trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, đầu tư mới, xuất nhập khẩu, công nghiệp lớn và liên danh, hợp tác với nước ngoài đã đóng góp rất lớn vào thành công của Việt Nam trong kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái, đối phó với ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới cũng như ổn định và cải thiện điều kiện sống cho người dân. Nhờ có đầu tư, tín dụng Nhà nước nên nhiều vùng núi, vùng xa và đồng bào khó khăn nước ta đã tạo được điều kiện mở mang ngành nghề, tìm kiếm thu nhập, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân bố lại dân cư theo hướng công nghiệp hoá và thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, hình thành các trung tâm văn hoá mới. Những năm vừa qua, khu vực kinh tế nhà nước mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước đã có những bước tiến mới, phát triển ngày càng hoàn thiện. Những mặt làm được của doanh nghiệp nhà nước như hội nghị TW 3 khoá IX đã đánh giá: “Doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế; góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo ổn định và phát triển kinh tế – xã hội, tăng thế và lực của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm trong nước, trong tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và công trình hợp tác đầu tư với nước ngoài; là lực lượng quan trọng trong thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh”1. Nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn phát đạt, lợi nhuận cao, được suy tôn đơn vị anh hùng và là tấm gương cho các thành phần kinh tế khác. Nhìn chung, kinh tế nhà nước được đánh giá cao ở giác độ làm nền tảng cho công cuộc chuyển đổi thành công ở Việt Nam. 1.2- Những tồn tại và yếu kém Hiện tại khu vực kinh tế nhà nước còn nhiều hạn chế yếu kém, dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, đó là: - Thứ nhất, năng lực cạnh tranh, hiệu quả chung của kinh tế nhà nước chưa cao và gần đây có xu hướng giảm đi. Tình trạng không hiệu quả của số lượng lớn doanh nghiệp nhà nước đã làm một mặt thất thoát mất vốn nhà nước, mặt khác tạo ấn tượng không tốt đẹp về khu vực này. - Thứ hai, mặc dù được giao đảm đương vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế định hướng XHCN ở nước ta, nhưng trên thực tế, cho đến nay cơ cấu KTNN còn bất hợp lý; 1. Đảng cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. + Cơ chế vận hành nền kinh tế, vấn đề thể chế hoá sở hữu nhà nước như thế nào để nó đem lại hiệu quả hơn hẳn các thành phần kinh tế khác còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng. Phạm vi hoạt động của kinh tế nhà nước như thế nào vẫn còn gây tranh luận. + Vẫn còn sự đồng nhất giữa khái niệm kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Việc xây dựng các xí nghiệp trùng lặp, không hợp lý kéo dài gây ra cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp nhà nước, làm tổn hại cho KTNN. + Công nghệ trong khu vực KTNN đa phần lạc hậu, tốc độ đổi mới rất chậm. Tình trạng thiếu vốn; trình độ tổ chức, quản lý yếu kém. Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế còn thiếu, trình độ và phẩm chất còn nhiều bất cập, chế độ đãi ngộ còn chưa xứng đáng. - Thứ ba, tình trạng khá biệt lập của khu vực KTNN và khu vực kinh tế dân doanh. Đến nay, vẫn chủ yếu tôn vinh, ưu ái cho khu vực KTNN và doanh nghiệp nhà nước nói riêng. + Khu vực KTNN được hưởng nhiều ưu đãi đã làm yếu đi sức mạnh và vai trò của sở hữu nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, gây bất bình đẳng và làm giảm khả năng đóng góp của các thành phần kinh tế khác vào sự phát triển chung của đất nước… + Việc bảo hộ các doanh nghiệp nhà nước nhất là các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến sự phân bổ nguồn lực sai và lãng phí trong nước. Đồng thời chính sách bảo hộ còn gây ra những tín hiệu sai lệch đối với các nhà đầu tư nước ngoài, họ đã đổ xô tìm kiếm siêu lợi nhuận ở những ngành được bảo hộ (các ngành sản xuất thay thế nhập khẩu), đồng thời chỉ hướng vào liên doanh với các doanh nghiệp nhà nước đã gây ra tình trạng dư cung, ứ đọng sản phẩm, thiểu phát. Điều quan trọng nữa là các nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng chính sách này để thu những lợi nhuận siêu ngạch từ một nước nghèo như Việt nam. - Thứ tư, có sự trở lại của cơ chế “Cũ” trong quản lý khu vực KTNN. Có thể nhận thấy những năm gần đây, cùng với sự tập trung nguồn tài chính trong tay nhà nước đã khôi phục cơ chế “Xin - cho” với vốn ngân sách và tín dụng. Ngay cả cơ chế xử lý tổ chức và nhân sự, tiền lương hầu như cũng là cơ chế cũ. Nhìn chung trong khu vực KTNN chưa có thị trường lao động, càng chưa có thị trường giám đốc nhà nghề và hành nghề theo hợp đồng làm thuê. ảnh hưởng của cơ chế cũ còn thể hiện ở chế độ Bộ và Cấp hành chính chủ quan, doanh nghiệp nhà nước mà trước hết là cấp chủ quản chưa theo chế độ trách nhiệm hữu hạn. Ngoài ra còn thấy sự phân định không rõ ràng giữa quyền lợi và nghĩa vụ của đội ngũ cán bộ quản lý khu vực KTNN đối với việc bảo toàn và phát triển vốn nhà nước được giao. Từ đó tạo điều kiện cho nạn quan liêu tham nhũng ngày một “phát triển”, đặc biệt là trong khu vực kinh tế và bộ máy quản lý nhà nước. - Thứ năm, hệ thống ngân hàng, tài chính- lĩnh vực hệ trọng nhất của kinh tế KTNN còn lạc hậu xa so với yêu cầu đổi mới cũng như so với các nước trong khu vực và đang tiềm ẩn nhiều thách thức. Hệ thống ngân hàng, tài chính của Việt Nam, tuy đã có sự đổi mới nhanh về hình thức theo hướng thị trường, nhưng thành tích chống lạm phát do tổng thể cuộc đổi mới đem lại đã che dấu những yếu kém. Cùng với tình hình đó, bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế chưa có sự đổi mới, cải cách nào đáng kể; phương pháp quản lý của cơ quan quản lý kinh tế vẫn còn thiên về kiểm soát và chi phối chặt hơn là nuôi dưỡng và tạo điều kiện cho doanh nghiệp; thậm chí còn chưa tìm được cách khởi động cuộc cải cách hành chính. Các chính sách nhiều khi không nhất quán, đặc biệt còn thiếu chính sách tài chính dài hạn. Tóm lại, khu vực KTNN cùng với bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế đang là nơi lưu trú lại cái còn lại của cơ chế cũ. Trong điều kiện thị trường sơ khai, sự tồn tại cơ chế cũ như vậy sẽ làm tăng tham nhũng đến mức độ nguy hiểm. Do đó, nếu không giải quyết thoả đáng các vấn đề nêu trên đối với khu vực kinh tế nhà nước thì chẳng những nó không thể đảm đương được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà còn là trở ngại lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chủ động hội nhập quốc tế và khu vực. 2- Các giải pháp để tăng cường vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay 2.1- Yêu cầu chung Trên thực tế kinh tế nhà nước có tiềm tàng các yếu tố cho phép nó ưu việt hơn kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên để tất cả các yếu tố tiềm tàng đó trở thành hiện thực cần có mô hình và cơ chế quản lý phù hợp mới phát huy được thế mạnh. ở nước ta trong những năm sắp tới, vấn đề tăng cường vai trò chủ đạo của KTNN là hết sức cần thiết. Đây cũng là vấn đề vấn đề rất lớn, rất cơ bản và đúng đắn trong đường lối kinh tế của Đảng và Nhà nước; phù hợp yêu cầu, lợi ích và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân; là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho thắng lợi của công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện hay. 2.2- Phương hướng và các giải pháp cơ bản cần thực hiện Để tăng cường vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước cần thực hiện khẩn trương và đồng bộ các giải pháp cơ bản sau: - Giải pháp thứ nhất: Nhận thức đúng đắn về kinh tế nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa. + Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần. Nếu để tự phát, nền kinh tế nhiều thầnh phần sẽ đi lên chủ nghĩa tư bản, vì vậy đấu tranh để giữ vững định hướng XHCN đó là một quá trình khó khăn phức tạp. Trong đó các hình thức sở hữư cơ bản đan xen, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể; đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tạo điều kiện để các nhà tư nhân yên tâm đầu tư kinh doanh lâu dài, áp dụng linh hoạt và sáng tạo các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. + Cần có sự phân định về khái niệm giữa chế độ sở hữu và hình thức thực hiện chế độ sở hữu. Đối với kinh tế nhà nước- kinh tế có sự tham gia vốn thuộc sở hữu nhà nước thì các hình thức thức thực hiện chế độ sở hữu đa dạng, phù hợp (các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, doanh nghiệp nhà nước có cổ phần chi phối hoặc cổ phân không chi phối). Mục đích là để phát huy được vai trò chủ đạo (theo nghĩa chi phối, dẫn dắt), thu hút, tập hợp và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong xã hội, tạo động lực cho sự phát triển. - Giải pháp thứ hai: Đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường Tạo môi trường kinh tế vĩ mô thông thoáng, thuận lợi để khu vực ngoài quốc doanh có điều kiện phát triển nhằm xây dựng một nền kinh tế đa thành phần, mang tính cạnh tranh cao, bình đẳng giữa khu vực quốc doanh và khu vực kinh tế dân doanh. - Giải pháp thứ ba: Cải cách hệ thống ngân hàng, tài chính. Từng bước hình thành thị trường tài chính với các thể chế tài chính hợp lý, nhằm đặt môi trường kinh doanh của mọi loại hình daonh nghiệp dưới sự điều tiết và kiểm soát có hiệu lực của nhà nước về mặt tài chính. Nhanh chóng cải cách hệ thống ngân hàng, nhất là việc phân biệt ngân hàng thương mại của nhà nước với các ngân hàng nhà nước; sớm tạo ra hệ thống ngân hàng thương mại cạnh tranh từ đó tạo ra lãi suất thị trường mà nhà nước có thể điều tiết chứ không làm thay. Về tài chính, phải sớm cải cách hệ thống thuế đối với doanh nghiệp, cải cách chế độ kế toán, kiểm toán... tạo khả năng cho nhà nước và xã hội kiểm soát được tài chính của tất cả các loại doanh nghiệp. - Giải pháp thứ tư : Sắp xếp lại và đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước. Trong đó điều quan trọng nhất là phải xác định rõ nhiệm vụ, những lĩnh vực, quy mô và địa bàn hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, qua đó thực hiện sự phân công lĩnh vực hoạt động giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Giải pháp thứ năm: Nâng cao phẩm chất và năng lực quản lý kinh tế của các cấn bộ lãnh đạo chủ chốt hoạt động trong khu vực kinh tế nhà nước. Phải xây dựng đội ngũ giám đốc kinh doanh và quản trị nhà nghề, hoạt động theo chế độ hợp đồng làm thuê theo luật, tức là phải tạo lập thị trường giám đốc trong thị trường lao động. Cán bộ quản lý kinh tế là phải được sử dụng chuyên sâu, có thời gian tích luỹ kinh nghiệm cần thiết, đồng thời phải tạo lập các cơ sở vật chất và kỹ thuật cần thiết cho hoạt động của họ, đặc biệt là hệ thống đảm bảo thông tin và chế độ kế toán - thống kê chuẩn mực, có tính khoa học. - Giải pháp thứ sáu: Xây dựng cơ chế hợp tác có hiệu quả giữa các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp khu vực dân doanh. Tổ chức các hiệp hôi kinh doanh, hợp đồng gia công, thầu phụ và các hình thức hỗ trợ công nghệ, đào tạo... trong những lĩnh vực hoạt động có liên quan giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Mở rộng việc hợp doanh, liên doanh giữa các doanh nghiệp nhà nước với các thành p

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35892.doc