Đề án Thị trường Chứng khoán Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

Mục lục . . . 01

Lời Mở đầu . . 02

Chương I :

 Tổng quan về Chứng khoán và thị trường Chứng khoán . 03

 1.1.Chứng khoán . . 03 1.2.Thị trường Chứng khoán . . 04

 1.3. Thị trường Tài chính và mối quan hệ giữa Thị trường Tài chính với Thị trường Chứng khoán . 04

 1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của Thị trường Chứng khoán. 05

 1.5. Vai trò và chức năng của Thị trường Chứng khoán trong Nền KTQD . . 06

 1.6. Các nguyên tắc và tổ chức hoạt động của thị trường chứng khoán . . 11

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1472 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thị trường Chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuật vào sản xuất, nếu không tập hợp được những nguồn vốn nhàn rỗi, phân tán trong dân chúng thành một nguồn vốn khổng lồ, mà người tập hợp có toàn quyền sử dụng vào những mục tiêu trung hạn và dài hạn. Có thể nói, cùng với hệ thống huyết mạch của ngành ngân hàng, Thị trường Chứng khoán đóng vai trò là "bà đỡ" thứ hai cho các dự án kinh doanh tiến bộ đi vào cuộc sống, là biện pháp chủ yếu của việc giải phóng mọi năng lực sản xuất. ĐIều này đã được thử nghiệm và được khẳng địnhở hầu hết các doanh nghiệp thành đạt trên thế giới trong nhiều thập kỷ qua. 1.5.1. Các Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán : 1.5.1. Ưu điểm của Thị trường Chứng khoán : 1.5.1.1.Thị trường Chứng khoán là một thể chế tài chính hữu hiệu, nhằm tạo ra các công cụ để khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi đầu tư cho phát triển kinh tế : Bất cứ một loại hình doanh nghiệp nào cho dù là sở hữu Nhà nước hay sở hữu Tư nhân, khi cần vốn đầu tư cũng cần phải thực hiện thông qua hai giải pháp: 1) Giải pháp Nội lực : tức là bản thân doanh nghiệp tự tích luỹ từ nội bộ thông qua lợi nhuận đạt được do làm ăn có hiệu quả; 2) Giải pháp Ngoại lực : tức là huy động các nguồn vốn từ bên ngoài, thông qua các hình thức tài trợ tín dụng từ phía các ngân hàng (nguồn vốn ngắn hạn) và thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu để huy động vốn (vốn dài hạn). Các hình thức huy động Ngoại lực muốn có hiệu quả phải dựa trên cơ sở phát huy nguồn vốn tiết kiệm dồi dào trong dân chúng (đầu tư gián tiếp qua ngân hàng) và việc mua cổ phiếu, trái phiếu của dân chúng (đầu tư trực tiếp). Thị trường Chứng khoán ra đời, đã tạo ra những công cụ mới, tinh tế và đa dạng trong các phương cách đầu tư của đông đảo công chúng có tâm lý và suy nghĩ khác nhau. Với một hệ thống đa dạng các loại chứng khoán, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, các hợp đồng lựa chọn, hợp đồng tương lai, chứng quyền, .... có thể đáp ứng yêu cầu lựa chọn của những người đầu tư trực tiếp (cổ phiếu, trái phiếu), hoặc thông qua các tổ chức tài chính trung gian (quỹ đầu tư) để lựa chọn những nơi đầu tư có hiệu quả. 1.5.1.2. Thị trường Chứng khoán là công cụ để Nhà nước phát hành Trái phiếu, Chính phủ huy động vốn phục vụ cho các Chương trình phát triển Kinh tế : Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triển Kinh tế . Nền Kinh tế tăng trưởng hay suy thoái trước hết phụ thuộc vào chính sách và các biện pháp can thiệp của Nhà nước. Ngân sách Nhà nước càng lớn mạnhthì khả năng thực hiện thành công các chiến lược kinh tế - xã hội càng dễ dàng. Tuy nhiên, nguồn vốn cho chi tiêu ngân sách phụ thuộc phần lớn vào chính sách thuế của mỗi quốc gia và các khoản thu nhập từ khai thác tài nguyên. Trong thực tế, các khoản thu ngân sách thường không đáp ứng đủ và kịp thời các khoản chi, lúc đó ngân sách Nhà nước thường sử dụng các giải pháp vay tạm thời từ dân chúng thông qua việc phát hành các loại trái phiếu ngắn và dài hạn. Ngày nay, ở hầu hết các quốc gia, việc Nhà nước vay của dân thông qua phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường chứng khoán là biện pháp thường xuyên và mang tính kỹ thuật tiên tiến. Việc Thị trường Chứng khoán ra đời, bản thân nó không những tạo ra tính thanh khoản và tính khả mại (tính dễ dàng mua bán) của các chứng khoán, mà còn tạo ra tính linh hoạt trong việc chuyển hướng đầu tư cho các nhà đầu tư từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Như vậy, chính trái phiếu đã tạo ra thị trường và đến lượt nó thị trường chứng khoán lại tạo ra tính thanh khoản cho các chứng khoán, làm cho việc phát hành các trái phiếu của chính phủ được tiến hành một cách thường xuyên. Vì thế, nó được xem như một công cụ đắc lực trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn . 1.5.1.3. Thị trường Chứng khoán là công cụ để Nhà nước huy động và kiểm soát các nguồn vốn đầu tư nước ngoài: Vốn đầu tư nước ngoài có vị trí và vai trò quan trọng, đặc biệt là đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển. Các khoản vốn đầu tư nước ngoài thường được thu hút dưới hai hình thức, đó là đầu tư trực tiếp thông qua các dự án Sản xuất - Kinh doanh, và đầu tư gián tiếp thông qua các định chế tài chính trung gian. Cả hai loại hình đầu tư này nếu như không có TTCK thì không phá huy được tính hiệu quả của nó. Khi tham gia vào thị trường vốn trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn thông qua tỷ lệ nắm giữ các Chứng khoán đối với các tổ chức phát hành. Vì vậy, việc kiểm soát tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài vào các lĩnh vực đầu tư trong nước qua các giai đoạn phát triển khác nhau là việc hoàn toàn có thể thực hiện được trên thị trường chứng khoán. Khi mua bán, chuyền nhượng chứng khoán, các nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện việc đăng ký, lưu ký chứng khoán thông qua các tổ chức lưu ký. Điều này cho phép Nhà nước có thể kiểm soát được các tổ chức, cá nhân nước ngoài góp vốn và các tỷ lệ nắm giữ trong từng doanh nghiệp, cũng như trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. 1.5.1.4. Thị trường Chứng khoán tạo điều kiện thuận lợi để di chuyển các nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế: Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn đầu tư được mua đi bán lại trên Thị trường Chứng khoán như một thứ hàng hoá. Người nắm giữ Chứng khoán không sợ vốn của mình bị bất động bởi một lĩnh vực đầu tư mà mình không vừa ý, hoặc khi có nhu cầu chuyển hướng kinh doanh họ có thể bán các chứng khoán đó trên thị trường chứng khoán để mua lại một chứng khoán khác mà họ thích đầu tư (đây là tính linh hoạt của chứng khoán). Với một thị trường chứng khoán hoạt động tốt, các nhà doanh nghiệp sẵn sàng bỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực công nghệ mới. Điều này làm cho vốn của các nhà đầu tư luôn được luân chuyển để tài trợ cho các dự án khác nhau (lưu động hoá tư bản). Với sự xuất hiện của thị trường chứng khoán, khoảng cách giữa người tiết kiệm và nhà đầu tư được xoá bỏ.. Khi mua cổ phiếu thì thực chất người tiết kiệm đã trở thành một nhà đầu tư bởi vì khi mua cổ phiếu thì họ đã có những lựa chọn để đầu tư vào lĩnh vực có lợi nhất. Đứng trước hàng loạt các biến đổi thường xuyên của nền kinh tế trong đó một số ngành phát đạt và làm ăn có lãi, trong khi các ngành khác làm ăn thua lỗ. Những nhà đầu tư này phải đưa ra các quyết định về việc họ có nên duy trì đầu tư trong lĩnh vực cũ hay di chuyển sang lĩnh vực mới . Chính vì thế, thị trường chứng khoán giúp các nhà đầu tư di chuyển vốn từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác một cách dễ dàng. 1.5.1.5. Thị trường Chứng khoán tạo điều kiện thúc đẩy quá trình Cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước : Xu hướng quốc tê hiện nay là giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động Kinh tế bằng cách giảm tỷ lệ sở hữu của Nhà nước trong các Doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh mà Nhà nước xét thấy không cần thiết và không ảnh hưởng đến tình hình chính trị cũng như an ninh quốc gia. Việc thực hiện cổ phần hoá các DNNN đã tạo ra hàng hoá cho thị trường chứng khoán thông qua việc bán cổ phần cho các thành phần kinh tế trên cơ sở chuyển đổi từ một chủ sở hữu sang nhiều chủ sở hữu khác nhau. Chính quá trình này đã tạo ra hàng hoá cho thị trường chứng khoán, ngược lại thị trường chứng khoán cũng tạo cơ sở luân chuyển chứng khoán giữa các nhà đầu tư, tạo động lực kích thích quá trình cổ phần hoá phát triển. Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán là hai tác nhân có mối quan hệ biện chứng với nhau làm tiền đề cho nhau và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Giá cả cổ phiếu của doanh nghiệp được hình thành một cách khách quan trên cơ sở định giá trị tài sản khi thực hiện cổ phần hoá, phản ánh giá trị hiện tại đích thực của doanh nghiệp. Quá trình phát triển của doanh nghiệp sẽ làm cho thị giá của chứng khoán tăng lên hay giảm xuống theo sự biến động của doanh nghiệp trong quá trình SX-KD và được định giá chính thức theo giá chứng khoán trên thị trường. 1.5.1.6. Thị trường Chứng khoán kích thích các Doanh nghiệp tuân thủ pháp luật và quan tâm tới vấn đề hiệu quả: Các tổ chức phát hành chứng khoán muốn niêm yết, giao dịch chứng khoán của mình tại sở giao dịch phải tuân thủ các điều kiện nghiêm ngặt của tiêu chuẩn niêm yết. Các tiêu chuẩn niêm yết này được xem xét trên hai khía cạnh khác nhau, đó là các tiêu chuẩn về mặt định tính và các tiêu chuẩn về mặt định lượng. Mỗi một Thị trường đều có những tiêu chuẩn định tính và định lượng khác nhau, nhưng nhìn chung lại đều xem xét đến các vấn đề : tổng tài sản hiện có của tổ chức niêm yết; tỷ lệ nợ trên tổng số vốn khả dụng; số năm làm ăn có lãi và tỷ lệ cổ tức trên mệnh giá. Ngoài ra, các tiêu chuẩn về sử dụng vốn, cơ cấu phân bổ vốn, cơ cấu HĐQT, ban giám đốc điều hành, nghĩa vụ công bố thông tin công khai, minh bạch cũng được xem xét trong quá trình chấp thuận cho việc niêm yết giao dịch chứng khoán tại sở giao dịch. Chính điều này đã tạo cho các doanh nghiệp phải quan tâm đến hiệu quả và tuân thủ pháp luật, bởi lẽ chỉ có như vậy các chứng khoán của họ mới được thị trường chấp nhận và được các nhà đầu tư sẵn sàng bỏ tiền ra để mua chứng khoán của họ. Các doanh nghiệp khi tham gia thị trường chứng khoán phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Sở giao dịch, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, ngoài ra còn chịu sự chi phối của các công ty kiểm toán độc lập và các công ty đánh giá xếp hạng. Cơ chế hoạt động của công ty cổ phần cho phép chủ sỡ hữu chứng khoán có quyền tham gia điều hành và quản lý công ty. Thông qua việc nắm giữ chứng khoán, nhà đầu tư có quyền biểu quyết, và có thể sẽ tham gia vào HĐQT hoặc ban giám đốc điều hành công ty, khi đó sẽ chịu trách nhiệm về kết qủa kinh doanh, cũng như các xu hướng phát triển của công ty. Chính điều này đã cho phép cơ cấu điều hành của công ty luôn luôn thay đổi, nhằm tìm ra giải pháp làm ăn có hiệu quả và phát huy tính năng động sáng tạo của công ty đó. 1.5.1.7. Thị trường Chứng khoán là một trong những công cụ để các quốc gia hội nhập với nền Kinh tế Thế giới: Thị trường chứng khoán là con đường quan trọng để thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Một doanh nghiệp cần vốn có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vừa có thể phát hành trên thị trường chứng khoán trong nước hoặc ngoài nước. Một doanh nghiệp tư nhân có vốn dư thừa không chỉ có thể mua cổ phiếu của các doanh nghiệp trong nước mà còn có thể thông qua thị trường chứng khoán quốc tế để mua cổ phiếu, trái phiếu nước ngoài, tham gia đầu tư vào các doanh nghiệp nước ngoài. Như vậy, thị trường chứng khoán cũng hình thành mối quan hệ tiền tệ quốc tế, đẩy nhanh sự vận dụng và chu chuyển tiền vốn giữa các nước, thực hiện việc vạy mượn lâu dài trên thị trường quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế các nước hội nhập vào Nền Kinh tế Thế giới. 1.5.1.8. Thị trường chứng khoán hoạt động công bằng và hiệu quả cũng thúc đầy cạnh tranh giữa các doanh nghiệp : Thị trường chứng khoán là nơi hội tụ các loại cổ phiếu, trái phiếu của các công ty, trong đó giá cổ phiếu của một công ty có thể lên hoặc xuống tại một thời điểm nào đó. Đồng thời nếu so sánh với giá cổ phiếu, trái phiếu của công ty khác cùng lĩnh vực đầu tư thì có thể giá cổ phiếu và trái phiếu của công ty này cao hơn hoặc thấp hơn so với các công ty khác. Điều này thúc đẩy các công ty có giá cổ phiếu, trái phiếu thấp hơn phải xem xét lại các hoạt động của mình để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nhằm cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường . 1.5.1.9. Thị trường chứng khoán cũng là một Phong Vũ Biểu của nền KTQD: Các chỉ số chứng khoán được tạo ra bằng nhiều cách khác nhau nhằm cung cấp các thông tin về tình trạng tốt hay xấu của nền KTQD. Chỉ số chứng khoán nếu tăng đồng nghĩa với tình trạng của nền kinh tế đang có dấu hiệu khả quan, bởi vì tình trạng sản xuất của các công ty, các hãng, các doanh nghiệp (có cổ phiếu được tính trong chỉ số chứng khoán) đang làm ăn phát đạt thì dẫn tới có nhiều người muốn mua cổ phiếu của tổ chức đó, làm cho giá cả của các loại cổ phiếu trái phiếu được đẩy lên dẫn tới chỉ số chứng khoán tăng lên. Như vậy, có thể xem Chỉ số của thị trường chứng khoán như là một phong vữ biểu phản ánh tương đối tình trạng của nền kinh tế quốc dân . 1.5.2. Nhược điểm của thị trường chứng khoán : Mặc dù thị trường chứng khoán có tác dụng tích cực là công cụ hữu hiệu để huy động vốn dài hạn, mà hầu hếtcác quốc gia có nền kinh tê thị trường đều sử dụng, song bên cạnh đó nó còn có những mặt tiêu cực làm ảnh hưởng đến các hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy, người ta thường ví thị trường chứng khoán như con dao hai lưỡi, nếu không biết cách sử dụng, phát huy hiệu quả, thì ngược lại nó sẽ là công cụ làm rối loạn nền kinh tế và gây ra những tác hại khó có thể lường hết được. 1.5.2.1. Thị trường chứng khoán luôn chức đựng các yếu tố đầu cơ: Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người đầu tư. Họ có thể mua cổ phiếu với hy vọng là giá cổ phiếu sẽ tăng lên trong tương lai, và qua đó sẽ thu được lợi nhuận. Yếu tố đầu cơ dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giá giả tạo. Sự kiện này càng dễ xảy ra khi có nhiều người cùng cấu kết với nhau để đồng thời cùng mua vào hay bán ra một loại chứng khoán nào đó, dẫn đến sự khan hiếm hay dư thừa chứng khoán một cách giả tạo trên thị trường, làm cho giá chứng khoán có thể tăng lên hay giảm xuống một cách đột biến, gây tác động xấu đến thị trường. Ngày nay, tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thường xảy ra hiện tượng có nhiều cá nhân hay nhóm người chuyên buôn bán chứng khoán, họ coi việc đầu cơ chứng khoán như là một nghề. 1.5.2.2. Các hiện tượng giao dịch nội gián thường xảy ra trên thị trường chứng khoán: Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm bắt được những thông tin nội bộ của doanh nghiệp, cũng như các thông tin mật mà không hoặc chưa được phép công bố và sử dụng cac thông tin đó cho giao dịch chứng khoán nhằm thu lợi bất chính thì được gọi là giao dịch nội gián. Các giao dịch nội gián được xem là phi đạo đức về mặt thương mại, vì những phần tử có được các thông tin nội gián sẽ có nhiều lợi thế trong việc đầu tư so với các nhà đầu tư khác để thu lợi bất chính cho riêng mình (vi phạm nguyên tắc) . Luật pháp về thị trường chứng khoán mặc dù đã có các điều khoản nghiêm cấm hành vi giao dịch nội gián, nhưng trên thực tế rất khó kiểm soát hành động này, bởi vì trong điều kiện hiện nay, công nghệ thông tin đã phát triển khá mạnh, các hành vị giao dịch cũng như cung cấp các thông tin nội bộ rất tinh vi. Vì vậy, các cơ quan quản lý và giám sát thị trường chỉ căn cứ vào các tình trạng có những thay đổi bất thường (giá lên xuống quá nhanh, hoặc tình trạng đổ xô vào mua-bán một loại chứng khoán nào đó), qua đó phát hiện và kiểm tra các hành vi nói trên, để điều tra ra hành vi giao dịch nội gián. 1.5.2.3. Đưa tin sai sự thật về một loại chứng khoán hoặc sai sự thật về hoạt động của Doanh nghiệp: Việc tung tin sai sự thật về các hoạt động của công ty niêm yết cũng như các chứng khoán được giao dịch trên thị trường, sẽ tạo ra sự hỗn độn của thị trường, gây nên tình trạng bán ồ ạt hàng loạt một loại chứng khoán nào đó với giá quá thấp hoặc mua vào các chứng khoán với giá thấp để nắm giữ và thao túng hoặc thâu tóm công ty. Việc tung tin sai sự thật để gây thất thiệt cho các nhà đầu tư chân chínhthường được gắn liền với các hành vi khác như đầu cơ trục lợi, lũng đoạn thị trường. 1.5.2.4. Dế huy động vốn, đồng thời cũng dễ bị rút vốn ồ ạt gây nên khủng hoảng thị trường: Cơ chế vận hành của thị trường chứng khoán cho phép nhà đầu tư có thể tiến hành đầu tư (invest) một cách nhanh chóng, đồng thời cũng chứa đựng khả năng cho phép giải tư (divest) nhanh gọn để rút vốn. Điều này nhiều lúc gây nên những tác hại không lường đối với thị trường. Khi một lĩnh vực đầu tư có xu thế phát triển, mọi người đổ xô vào mua để nắm giữ loại chứng khoán đó, dẫn đến đẩy giá lên cao làm cho giá cả loại chứng khoán đó sai lệch so với giá trị thực chất của nó. Khi tình hình thị trường có những biến động bất lợi, có ảnh hưởng đến giá chứng khoán, thì mọi người đổ xô bán tống, bán tháo loại chứng khoán đó để rút vốn đầu tư, làm cho thị trường hỗn loạn và nhiều khi gây nên sụp đổ thị trường. Bài học kinh nghiệm quốc tế qua ba lần khủng hoảng kinh tế gắn liền với khủng hoảng thị trường chứng khoán vào các năm 1929, 1987, và 1997 cho thấy, đó là những ngày đen tối của thị trường chứng khoán, giá cả chứng khoán giảm mạnh trong nhiều tháng liên tục và diễn ra trên nhiều thị trường, làm cho không ít thị trường buộc phải đóng cửa trong nhiều ngày. Đặc biệt là trong thời gian vừa qua, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Châu á, dẫn đến sự sụp đổ của nhiều thị trường chứng khoán trong khu vực như Thái Lan, Hồng Kông, Malaysia, Inđônêsia,.... gây tác động dây chuyền tới các thị trường chứng khoán lớn trên thế giới như New york, Tokyo,.... đều có một nguyên nhân là các nước đó dựa vào nguồn vốn nước ngoài quá lớn và duy trì quá lâu một tỷ giá cố định, nên khi có biến động về kinh tế dẫn đến tình trạng rút vốn đầu tư nước ngoài ào ạt, làm cho thị trường bị sụp đổ. 1.5.2.5. Thị trường chứng khoán làm cho mâu thuẫn Xã hội ngày càng gay gắt: Thị trường chứng khoán thúc đẩy tư bản tập trung làm cho một số người khống chế ngày càng nhiều số lượng các loại chứng khoán trở thành cổ đông lớn (nhà tư bản lớn) nhấn chìm các nhà tư bản nhỏ, hình thành các doanh nghiệp lớn, khống chế thị trường, lũng đoạn giá cả, chiếm đoạt nhiều lãi. Trong khi đó, một số người khác mất quyền sở hữu cổ phiếu, bù mất hết cả vốn và trở nên nghèo túng. Một số ngân hàng dựa vào vốn lớn của mình, mua rất nhiều cổ phiếu, nắm quyền chính của doanh nghiệp về kinh tế tài chính, khống chế và chi phối vốn của người khác có vốn lớn hơn vốn của mình nhiều lần. Như vậy, thị trường chứng khoán sẽ tạo điều kiện cho các xung đột, mâu thuẫn trong Xã hội trở nên gay gắt . 1.6. Các nguyên tắc và tổ chức hoạt động của thị trường chứng khoán : 1.6.1. Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán : Sự vận hành của bất kỳ một thị trường nào cho dù là đơn giản hay phức tạp đều có các nguyên tắc hoạt động riêng của nó. Các nguyên tắc này đảm bảo sự tồn tại và phát triển của thị trường theo những định hướng nhất định. Đẩi với thị trường chứng khoán, cơ chế vận hành của nó được dựa trên bốn nguyên tắc hoạt động căn bản sau đây: 1.6.1.1. Nguyên tắc Công khai: Nguyên tắc này đòi hỏi tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều phải công bằng, công khai và minh bạch. Các thông tin về chứng khoán được giao dịch, tình hình tài chính và các kết quả kinh doanh của công ty có chứng khoán niêm yết, cũng như số lượng, giá chứng khoán đều phải được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bản thân các công ty có chứng khoán niêm yết phải có nghĩa vụ công bố thông tin theo định kỳ, tức thời và các thông tin theo yêu cầu một cách trung thực và đầy đủ cho các nhà đầu tư. Ngoài ra, các tổ chức phát hành chứng khoán có nghĩa vụ nộp cho Sở giao dịch và Uỷ ban chứng khoán các báo cáo tài chính, báo cáo hoạt động kinh doanh và các báo cáo khác có xác nhận của cơ quan kiểm toán độc lập. Trong trường hợp có các biến động làm ảnh hưởng đến giá và khối lượng chứng khoán giao dịch, các tổ chức phát hành phải báo cáo tức thời lên Sở giao dịch và Uỷ ban chứng khoán để có biện pháp xử lý kịp thời (tạm ngừng giao dịch, đình chỉ giao dịch đối với loại chứng khoán đó). Đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ thông tin, cũng phải chịu trách nhiệm về các thông tin đã công bố, nếu thông tin sai sự thật, làm thiệt hại đến các nhà đầu tư, thì công ty đó phải chịu trách nhiệm bồi hoàn những thiệt hại do mình gây ra, và phải chịu sự kỷ luật trước Uỷ ban Giám sát thị trường . Các giao dịch trên thị trường đều sử dụng các thông tin được công bố chính thức tại Sở giao dịch hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Việc sử dụng các thông tin nội bộ hoặc các thông tin chưa được phép công bố chính thức vào giao dịch chứng khoán là hành vi giao dịch nội gián và sẽ bị xử lý theo các quy định của pháp luật hiện hành. 1.6.1.2. Nguyên tắc Trung gian: Thị trường chứng khoán hoạt động không phải là do những người muốn mua và muốn bán chứng khoán trực tiếp gặp nhau thực hiện, mà phải thông qua các môi giới, làm nhiệm vụ trung gian trong việc tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thật, và thị trường chứng khoán hoạt động được lành mạnh, hợp pháp, bảo vệ các lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư. Nguyên tắc trung gian trong giao dịch chứng khoán được thể hiện thông qua các nhà môi giới (Broker) và các thương gia chứng khoán (Dealer) hay còn gọi là các nhà kinh doanh chứng khoán. Các trung gian môi giới phải là những người thực sự có đủ các kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán, có khả năng phân tích, đánh giá và nhận định xu hướng phát triển của nền Kinh tế. Muốn vậy, họ phải qua các khoá đào tạo về nghiệp vụ, và được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán. Dù là người môi giới trung gian nhằm hưởng hoa hồng, nhưng các nhân viên môi giới vẫn đóng vai trò chủ động trong thương lượng mua bán chứng khoán. Người môi giới phải thay mặt khách hàng của mình cam kết mua bán với giá cho sắn hay giá do chính họ lựa chọn mà có lợi nhất cho khách hàng. Người môi giới phải biết cố vấn và giải thích đúng đắn mọi đặc điểm, khuynh hướng của mỗi loại chứng khoán cho khách hàng. Trong hoạt động môi giới hưởng hoa hồng, người môi giới hoàn toàn thực hiện theo mệnh lệnh của khách hàng và không chịu trách nhiệm cho các hậu quả về sau. Nhưng khi thay mặt cho khách hàng thì họ vẫn phải hành động như cho chính bản thân họ. Chính vì vậy, đối với mỗi nhân viên môi giới thì vấn đề đạo đức nghề nghiệp là hết sức quan trọng và phải được đặt lên hàng đầu. 1.6.1.3. Nguyên tắc Định giá: Trên cơ sở quan hệ cung cầu về mua bán chứng khoán, các thông tin về chứng khoán cũng như các kết quả phân tích mỗi loại chứng khoán, nhà môi giới có trách nhiệm xác định giá chứng khoán theo nguyên tắc định giá chứng khoán. Giá chứng khoán được hình thành thông qua hệ thống đấu giá hoặc đấu lệnh giữa cácnhà môi giới. Khi giá chứng khoán được xác định thì các nhà đầu tư có nghĩa vụ thực hiện theo mức giá đó. Vì vậy người còn nói thị trường chứng khoán là một thị trường tự do và cởi mở nhất trong các loại thị trường. Giá chứng khoán trên thị trường được thực hiện theo nguyên tắc hoạt động và kỹ thuật vận hành của mỗi loại thị trường, thông thường được tiến hành theo phương thức đấu giá cạnh tranh giữa các nhà tạo lập thị trường hoặc phương thức so khớp lệnh theo thứ tự các tập lệnh được đưa vào Hệ thống. Theo phương thức Đấu giá, một số nhà môi giới sẽ đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường (market maker) đưa ra các mức giá chào mua và mức giá chào bán cho các loại chứng khoán mà họ tiến hành giao dịch. Các nhà đầu tư mua, bán chứng khoán của họ bằng cách lựa chọn ra mức giá tốt nhất với họ và tiến hành giao dịch với các nhà tạo lập thị trường hơn là đặt các lệnh riêng cho mình. Giá chứng khoán được xác định thông qua việc canh tranh giữa các nhà tạo lập thị trường, còn thu nhập của các nhà tạo lập thị trường là khoản chênh lệchgiữa giá chào bán và giá chào mua. Theo phương thức đấu lệnh, các lệnh sẽ được tập trung và được so khớp tại một thời điểm nhất định (hoặc liên tục) để xác định mức giá thoả mãn cho cả bên mua lẫn bên bán. Lệnh của các nhà đầu tư được so khớp mà không cần có các nhà tạo lập thị trường. Giá chứng khoán được xác định thông qua sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư. Các Công ty chứng khoán nhận phí hoa hồng từ khách hàng trả về việc thực hiện trung gian môi giới. Các phương thức định giá nêu trên có thể thực hiện theo phương pháp thủ công hoặc thông qua hệ thống máy tính điện toán. Hiện nay trên thế giới, các thị trường chứng khoán đã chuyển sang hệ thống giao dịch bán tự động (giao dịch thủ công và có sự trợ giúp của máy vi tính) hoặc giao dịch tự động hoàn toàn thông qua hệ thống máy vi tính. 1.6.1.4. Nguyên tắc Tập trung Thị trường: Nguyên tắc này đòi hỏi các hoạt động giao dịch, mua bán và trao đổi chứng khoán phải được tiến hành tại những địa điểm cụ thể đã được đăng ký với các cơ quan có thẩm quyền (kể cả đối với thị trường chính thức hay thị trường OTC). 1.6.2. Tổ chức hoạt động Thị trường chứng khoán : 1.6.2.1. Cơ cấu các chủ thể hoạt động trên TTCK: Để thị trường Chứng khoán đi vào hoạt động đúng mục đích và có hiệu quả, cần thiết phải xác định đúng cơ cấu cụ thể các thành viên tham gia trên thị trường bao gồm các Chủ thể sau: a). Uỷ ban Chứng khoán Quốc gia - Tổ chức điều hành, điều tiết và Quản lý thị trường : là cơ quan Nhà nước cao nhất chịu trách nhiệm điều hành các hoạt động của thị trường chứng khoán trên phạm vi toàn quốc. Uỷ ban chứng khoán quốc gia ở các nước khác nhau thì có cách thức tổ chức và hoạt động khác nhau nhưng về bản chất đều là cơ quan có chức năng đặt ra các quy định của thị trường, là cơ quan điều hành cao nhất có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát các hoạt động của thị trường. ở Việt Nam, chức năng này do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đảm nhiệm. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan Quản lý Nhà nước quản lý việc cấp phép. đăNg ký phát hành và kinh doanh chứng khoán, tổ chức công tác thanh tra, giám sát các hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35275.doc
Tài liệu liên quan