MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
I. Lý luận chung. 2
1. Hệ thống quản lý chất lượng là gì 2
2. Quản lý chất lượng theo ISO 9000 3
3. Vai trò và lợi ích của ISO 9000 đối với doanh nghiệp 7
4. Sự cần thiết của ISO 9000 đối với các doanh nghiệp 9
5. Điều kiện cần thiết khi áp dụng ISO 9000 10
II- Tình hình áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theoISO 9000 tại Việt Nam 12
1. Tình hình áp dụng ISO trên thế giới 12
2. Tình hình áp dụng ISO 9000 tại các doanh nghiệp Việt Nam 13
3. Những mặt trái của ISO 18
3.1. Những nhận thức sai lầm về ISO 19
3.2. Nguyên nhân dẫn đến nhận thức sai lầm. 20
4. Những điều cần lưu ý khi áp dụng ISO 9000 21
III. Các giải pháp nhằm giúp doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 đạt hiệu quả và có chất lượng 24
1. Thiết kế hệ thống ISO 9000 phù hợp với tổ chức để thấy rõ nó là một công cụ quản lý, diều hanh của người quản lý. 24
2. Tạo môi trường thuận lợi cho việc triển khai và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng. 25
3. Xây dựng một hệ thống tài liệu đơn giản dễ hiểu, dễ áp dụng. 26
4. Đánh giá nội bộ nhằm tìm ra cơ hội cải tiến. 26
Kết luận 27
Tài liệu tham khảo 28
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4107 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tình hình áp dụng ISO 9000 trong các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ử dụng một cách rộng rãi. Với một hệ thống quả lý chất lượng tiên tiến, hiệu quả, tổ chức sẽ đạt được những ưu việt thông qua các yếu tố:
Cung ứng cho xã hội các sản phẩm tốt: Một hệ thống quả lý chất lượng phù hợp với ISO 9000 sẽ giúp cho công ty quản lý hoạt động sản xuất – kinh doanh một cách có hệ thống và kế hoạch, giảm thiểu và loại trừ các chi phí phát sinh sau kiểm tra, chi phí bảo hành và làm lại. Cải tiến liên tục hệ thống chất lượng, theo yêu cầu của tiêu chuẩn sẽ dẫn đến cải tiến liên tục chất lượng sản phẩm. Như vậy hệ thống quản lý chất lượng rất cần thiết để cung cấp sản phẩm có chất lượng.
Tăng năng suất và giảm giá thành: Thực hiên hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 giúp công ty tăng năng suất và giảm giá thành. Hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9000 sẽ cung cấp các phương tiện giúp cho mọi người thực hiện đúng ngay từ đầu và có sự kiểm soát chặt chẽ, qua đó, sẽ giảm khối lượng công việc làm lại và chi phí sử lý sản phẩm sai hỏng và giảm được lãng phí về thời gian, nguyên vật liệu, nhân lực và tiền bạc. Đồng thời nếu công ty có hệ thống quản lý chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn ISO 9000 sẽ giảm được chi phí kiểm tra, tiết kiệm cho cả công ty và khách hàng.
Tăng tính cạnh tranh của công ty: Có được một hệ thống quản lý chất lượng phù hợp tiêu chuẩn ISO 9000 sẽ đem đến cho doanh nghiệp lợi thế cạnh tranh, vì thông qua việc chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng phù hợp với ISO 9000 doanh nghiệp sẽ có bằng chứng đảm bảo với khách hàng là các sản phẩm họ sản xuất phù hợp với chất lượng mà họ cam kết. Trong thực tế phong trào áp dụng ISO 9000 được định hướng bởi chính người tiêu dùng, những người luôn mong muốn được đảm bảo rằng sản phẩm mà họ mua về có chất lượng đúng như chất lượng mà nhà sản xuất đã khẳng định. Một số hợp đồng ghi rõ, sản phẩm mua phải kèm theo chứng nhận hệ thống chất lượng phù hợp tiêu với tiêu chuẩn ISO 9000. Một số doanh nghiệp đã bỏ lỡ cơ hội kinh doanh chỉ vì họ thiếu giấy ISO 9000.
Tăng uy tín của công ty về đảm bảo chất lượng: áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9000 sẽ cung cấp bằng chứng khách quan để chứng minh chất lượng sản phẩm, dịch vụ của công ty và chứng minh cho khách hàng thấy rằng các hoạt động của công ty đều được kiểm soát. Hệ thống quản lý chất lượng còn cung cấp những giữ liệu để sử dụng cho việc xác định hiệu quả quá trình, các thông số về sản phẩm, dịch vụ nhằm không ngừng cải tiến hiệu quả hoạt động và nâng cao sự thoả mãn khách hàng, do vậy nâng cao uy tín của công ty về chất lượng sản phẩm.
Ngoài ra còn một số lợi ích sau
Giảm thiểu các hành động” chữa cháy” và giải phóng các cản bộ lãnh đạo khỏi phải thường xuyên can thiệp vào những công việc sự vụ do các nhân viên của tổ chức đã có những công cụ để tự kiểm soát công việc của mỗi người.
Cung cấp những công cụ để xác định và cụ thể hoá các nhiệm vụ bảo đảm dẫn đến những kết quả cụ thể. Bộ tiêu chuẩn yêu cầu phải lập kế hoạch công việc, xây dựng các qui trình làm việc, các mô tả và hướng dẫn để mọi người theo đó mà thực hiện công việc một cách đúng đắn.
Cung cấp các công cụ lập các văn bản để đánh giá tổ chức của mình một cách có hệ thống và trên cơ sở đó mà đào tạo và huấn luyện nhân viên để nâng cao chất lượng làm việc.
Cung cấp những công cụ để nhận biết và giải quyết các vấn đề tồn tại và cách phòng ngừa mọi sự tái diễn. Bộ tiêu chuẩn đòi hỏi thiết lập các biện pháp phát hiện sự sai sót, lập kế hoạch và thực hiện hành động khắc phục.
Cung cấp những công cụ để giúp mọi người thực hiện đúng nhiệm vụ ngay từ đầu. Điều này đạt được nhờ có các chỉ dẫn công việc, kiểm soát nội bộ, lãnh đạo tạo các điều kiện và nguồn lực cần thiết, huấn luyện nhân viên, kích thích vật chất và tạo môi trường làm việc thích hợp.
Cung cấp các bằng chứng khách quan về chất lượng sản phẩm và dịch vụ của mình cho bất cứ mọi khách hàng thông qua các ghi chép và thống kê theo qui định của tiêu chuẩn.
Cung cấp các dữ liệu để làm cơ sở cải tiến chất lượng và thoả mãn khách hàng thông qua việc phân tích và điều chỉnh để cải tiến hệ thống chất lượng.
4. Sự cần thiết của ISO 9000 đối với các doanh nghiệp
Các thay đổi gần đây trên toàn thế giới đã tạo ra những thách thức mới trong kinh doanh khiến các doanh nghiệp ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng của chất lượng. Để thu hút khách hàng các doanh nghiệp cần phải đưa chất lượng vào nội dung quản lý. Đối với bất kỳ đối tượng khách hàng nào chất lượng đều là mối quan tâm hàng đầu ảnh hưởng đến quyết định tiêu dùng của họ. Trước đòi hỏi của khách hàng các doanh nghiệp đang gặp phải một bài toán khó đó là vừa làm sao sản xuất ra những mặt hàng có chất lượng cao, đảm bảo lợi nhuận, đồng thời luôn sẵn có với giá cả cạnh tranh, bên cạnh đó phải thoả mãn các yêu cầu của pháp luật. Trong bối cảnh như vậy một tiền đề cơ bản có thể giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển, đảm bảo niềm tin cho khách hàng về chất lượng sản phẩm và dịch vụ của mình là áp dụng hệ thống quản lý ISO 9000 nhằm tạo nên một môi trường sản xuất kinh doanh mà trong đó từng cá nhân ở mọi cấp độ đều có ý thức về chất lượng.
Mặt khác xuất phát từ những lợi ích thiết thực mà ISO 9000 mang lại cho các doanh nghiệp mà ngày càng nhiều các doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 nhằm có được một hệ thống quản lý tốt, tạo ra được sản phẩm có chất lượng cao nhờ vào việc tuân thủ các yêu cầu và nguyên tắc của ISO 9000, từ đó có được lợi thế cạnh tranh trên thị trường thu hút và giữ được khách hàng.
Một yếu tố nữa thúc đẩy các doanh nghiệp áp dụng ISO 9000 đó là sự vượt qua các rào cản thương mại vì ISO 9000 có thể được coi là giấy phép thông hành để các doanh nghiệp đi vào thị trường thế giới đảm bảo cho sản phẩm của mình không bị phân biệt đối sử. Chứng minh cho khách hàng thấy rằng, sản phẩm, dịch vụ cung cấp và sản xuất ra dưới một hệ thống quản lý chất lượng tốt.
5. Điều kiện cần thiết khi áp dụng ISO 9000
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 có thể được áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau như :
Các tổ chức có mong muốn giành được lợi thế nhờ việc thực thi hệ thống quản lý chất lượng này
Các tổ chức có mong giành được sự tin tưởng từ các nhà cung cấp của họ
Những người sử dụng sản phẩm
Các tổ chức đánh giá hoặc kiểm tra hệ thống quản lý chất lượng để xây dựng mức độ phù hợp của nó đối với bộ tiêu chuẩn ISO 9000
Các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn hoặc đào tạo về hệ thống quản lý chất lượng phù hợp cho tổ chức đó
Tuy nhiên để xây dựng và áp dụng có hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 tổ chức cần phải xác định đúng mục đích và hiểu đúng về hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000. Theo khuyến nghị của các chuyên gia tư vấn, việc cam kết của lãnh đạo đối với dự án xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng là rất quan trọng. Lãnh đạo tổ chức cần phải xác định đúng mục đích và cam kết hỗ trợ đầy đủ về nguồn lực. Bên cạnh đó, quá trình xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9000 cần được thực hiện một ban chỉ đạo về chất lượng và thủ trưởng các đơn vị. Ngay từ ngày đầu lãnh đạo cao nhất phải được giao nhiệm vụ và trách nhiệm thực hiện, cần phải xác định rằng đây là một công việc quan trọng không được để ảnh hưởng tiến độ do bất cứ công việc gì. Sau khi xây dựng xong thì việc đưa vào áp dụng là trách nhiệm của toàn thể thành viên trong tổ chức đó chứ không là của riêng ai. Nếu mỗi người đều hiểu và làm đúng nhiệm vụ và quyền hạn của mình, đúng yêu cầu và 8 nguyên tắc của quản lý chất lượng, đặc biệt là các cán bộ trong ban lãnh đạo thì ngay từ khi hệ thống bắt đầu được áp dụng, nó đã mang lại cho tổ chức những quả ngọt, trái thơm. Đó là mọi công việc, chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ sẽ được kiểm soát chặt chẽ nhờ có hệ thống tài liệu sát với thực tế, các nhân viên sẽ có trách nhiệm hơn, tự chủ hơn và tự do thoải mái hơn vì trách nhiệm quyền hạn được xác định rõ ràng, không còn bị chồng chéo. Mọi người trong tổ chức sẽ phấn đấu làm việc nhiệt tình hơn vì họ sẽ coi tổ chức như ngôi nhà của chính mình và sẽ cống hiến hết nhiệt huyết cho nó ngày một tốt đẹp hơn.
II- Tình hình áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo iso 9000 tại việt nam
1. Tình hình áp dụng ISO trên thế giới
Đối với các nước, nhất là các nước đang phát triển, chất lượng vừa là một bài toán vừa là một cơ hội. Là một cơ hội vì người tiêu dùng ngày nay trên mọi quốc gia ngày càng quan tâm đến chất lượng hàng hoá và dịch vụ mà họ mua, hệ thống thông tin lại mang tính chất toàn cầu, nên các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi trong việc học hỏi kinh nghiệm, rút ngắn quãng đường mà những người đi trước đã đi qua. Là một bài toán, vì các doanh nghiệp trong các quốc gia phát triển đã rất tiến xa trong việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ có chất lượng tốt.Lấp được khoảng cách là một công việc khó khăn vì nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải thay đổi cách suy nghĩ và cung cách quản lý đã hình thành từ lâu đời. Các doanh nghiệp mong muốn làm việc theo quy trình của một hệ thống quản lý chất lượng phù hợp nhằm cung cấp ra thị ttường những sản phẩm đạt chất lượng theo yêu cầu của khách hàng với chi phí nhỏ nhất để từ đó tạo được lợi thế cạnh tranh và nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 ra dời đã một phần nào đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của các doanh nghiệp, và đã dược các quốc gía hưởng ứng mạnh mẽ. Hiếm có bộ tiêu chuẩn nào của ISO lại được áp dụng rộng rãi và thống nhất về nhiều phương diện như bộ tiêu chuẩn ISO 9000. Theo thống kê thì số các doanh nghiệp và các quốc gia áp dụng ISO9000 ngày càng tăng nhanh thể hiện qua bảng sau:
Năm
Số chứng chỉ
Số quốc gia
12/98
217487
141
12/99
343643
150
12/00
408631
158
12/01
510616
161
12/02
561747
159
Qua đó chúng ta thấy các doanh nghiệp ngày càng nhận thức rõ vai trò và sự cần thiết của ISO 9000 đối với tổ chức mình vì các tiêu chuẩn ISO 9000 là một nguồn chứa các bí quyết công nghệ quan trọng để phát triển kinh tế và nâng cao năng lực xuất khẩu cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
2. Tình hình áp dụng ISO 9000 tại các doanh nghiệp Việt Nam
Hội nghị chất lượng Việt Nam lần thứ nhất năm 1995 được coi là một mốc son đánh dấu và mở đầu cho việc truyền bá các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến vào Việt Nam. Hội nghị đã được nghe các tham luận của nhiều chuyên gia nước ngoài và trong nước, giới thiệu những kinh nghiệm quí báu trong việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng ở các nước công nghiệp tiên tiến cũng như ở các nước đang phát triển cao trong thập niên 80, 90.
Để làm tốt công tác hội nhập và phát triển, thúc đẩy nhanh quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư, sau khi nghiên cứu, xem xét khả năng áp dụng Bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, Tổng cục TCĐLCL đã nhanh chóng tuyên truyền, phổ biến sâu rộng về bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và thực hiện biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến này.
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 quy tụ kinh nghiệm được Quốc tế thừa nhận trong lĩnh vực quản lý và đảm bảo chất lượng trên cơ sở phân tích các mối quan hệ giữa người mua và người sản xuất. ISO 9000 phù hợp với mọi đối tượng áp dụng và có thể áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực: sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các cơ quan hành chính sự nghiệp và thực sự đem lại kết quả cao.
ở nước ta, do bối cảnh lịch sử của một nền kinh tế đang chuyển đổi, cơ sở hạ tầng, công nghệ còn thấp, trình độ quản lý còn hạn chế, nên việc áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 9000 chỉ thực sự được triển khai tới các doanh nghiệp bắt đầu từ năm 1996. Được sự chỉ đạo của Tổng cục TCDLCL, các Chi cục trong thời gian qua cũng đồng loạt ra quân, thường xuyên tổ chức, tập huấn, hội nghị, hội thảo, tuyên truyền, quảng bá về hiệu quả của ISO 9000, tham gia tư vấn cho các doanh nghiệp. Nhiều đơn vị thuộc Tổng cục, cũng phối hợp với một số Bộ, Ngành, tổ chức tuyên truyền sâu rộng về ISO 9000 từ Trung ương cho đến địa phương, cơ sở.
Trong giai đoạn từ 1995 đến năm 1998, theo chương trình của tổ chức ESCAP, 10 doanh nghiệp trong toàn quốc đã được hỗ trợ, tư vấn xây dựng và áp dụng ISO 9000. Trong khuôn khổ dự án EU- Việt Nam về tiêu chuẩn chất lượng, 20 doanh nghiệp khác đã được chọn lam thí điểm để áp dụng ISO 9000.
Kết quả áp dụng tại một số doanh nghiệp cho thấy: yếu tố quyết định cho sự thành công hệ thống quản lý chất lượng tại doanh nghiệp là nhận thức và quyết tâm của lãnh đạo, sự tham gia của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp, và việc duy trì hoạt động của hệ thống quản lý chất lượng theo đúng nội dung của ISO 9000 đồng thời phải thường xuyên đánh giá kết quả hoạt động của từng bộ phận thông qua các công cụ thống kê, phải thực hiện cải tiến liên tục theo chu trình PDCA. Xác định được sự cần thiết của việc áp dụng quản lý chất lượng theo ISO 9000 cho nên đến nay cả nước đã có khoảng 1200 đơn vị tổ chức được cấp chứng chỉ ISO 9000, bao gồm mọi hình thức sở hữu, qui mô và loại hình kinh doanh. Trong giai đoạn đầu, hầu hết các doanh nghiệp liên doanh hay 100% vốn nước ngoài áp dụng ISO 9000, đến nay tỉ lệ này đã nghiêng về phía doanh nghiệp 100% vốn trong nước. Theo thống kê số chứng chỉ ISO 9000 đã cấp cho các đơn vị thể hiện qua bảng sau:
Bảng phân loại ngành nghề các tổ chức tại Việt Nam nhận chứng chỉ tiêu chuẩn quốc tế về hệ thống quản lý chất lượng
(Tính đến ngày 20/6/2003)
TT
Ngành nghề
Số lượng tổ chức
Tỷ lệ %
1
Nông nghiệp & Thuỷ sản
27
2,99
2
Khoáng sản
2
0,22
3
Thức ăn-Đồ uống-Thuốc lá
64
7,1
4
Sợi- Sản phẩm từ sợi
63
6,98
5
Da- Sản phẩm từ da
26
2,88
6
Gỗ- Sản phẩm từ gỗ
15
1,66
7
Xuất bản
2
0,22
8
In ấn
4
0,44
9
Dầu mỏ-sản xuất/Dịch vụ dầu khí
18
2
10
Năng lượng hạt nhân
0
0
11
Hoá chất –hoá mỹ phẩm
34
3.77
12
Dược phẩm và y tế
38
4.21
13
cao su –nhựa
52
5.76
14
Sản phẩm từ khoáng sản phi kim loại
4
0.44
15
Bê tông- xi măng -vôi
53
5.88
16
Kim loại –Sản phẩm kim loại
55
6.1
17
Máy móc thiết bị
72
7.98
18
Thiết bị điện quang học
83
9.2
19
Đóng tàu
7
0.78
20
Không gian vũ trụ
0
0
21
Thiết bị giao thông vận tải
2
0.22
21
Tái sinh
0
0
22
Cung cấp điện
2
0.22
23
Cung cấp khí đốt
2
0.22
24
cung cấp nước
5
0.55
25
Xây dựng
77
8.54
26
Ôtô -Môtô-Hàng gia dụng
31
3.44
27
Khách sạn-nhà hàng
2
0.22
28
Giao nhận kho hàng vận chuyển
24
2.66
30
Môi giới tài chính –Bất động sản-Thuê
18
2
31
Công nghệ thông tin
18
2
32
Dịch vụ công trình
21
2.33
34
Dịch vụ khác
45
4.99
33
Dịch vụ công cộng
9
1
34
Giáo dục
2
0.22
35
Sức khoẻ-An sinh xã hội
5
0.55
36
Dịch vụ khác
0
0
ồ
902
100
Nguồn: Kỷ yếu ISO VN 2002-2003
Bộ thương mại,trung tâm thông tin thương mại
Trong những năm qua cùng với sự hướng dẫn và tư vấn của các tổ chức tư vấn về chất lượng. Các doanh nghiệp đã và đang áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 ngày càng tăng lên bởi vì họ nhận thấy rõ sự cần thiết của ISO 9000 đối với tổ chức của họ, thấy rõ lợi thế mà ISO 9000 đem lại. Nhiều doanh nghiệp đã áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 và bước đầu đã đạt được những kết quả tốt đẹp. Dưới đây là những ví dụ về những tổ chức đã áp dụng và có kết quả tốt từ hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000.
Công ty giấy Bãi Bằng: Phó giám đốc công ty giấy Bãi Bằng cho rằng: Ngoài những lợi ích chung trong quá trình áp dụng ISO 9000 tại công ty còn có được những lợi ích hết sức có ý nghĩa như:
-áp dụng ISO 9000 là xây dựng được một hệ thống văn bản khoa học về các công việc qui trình sản xuất, việc phân công trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động rõ ràng, tránh được sự chồng chéo bấy lâu nay thường xảy ra ở công ty.
Người công nhân được đào tạo về ISO 9000, được giáo dục về lao động, ý thức trách nhiệm, đặc biệt là vai trò lợi ích của người công nhân đã khơi dậy niềm tự hào của họ đối với công việc mình đang làm, giúp người công nhân thoát khỏi quan niệm “ làm công ăn lương”.
Tách biệt rõ ràng giữa sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng và sản phẩm không đạt tiêu chuẩn chất lượng. Hạn chế được các sản phẩm sai hỏng và không cho các sản phẩm này được đưa ra thị trường ảnh hưởng tới uy tín của công ty.
Trong mua sắm vật tư trang thiết bị công ty có điều kiện lựa chọn chất lượng và giá cả của nhà cung cấp một cách hợp lý và tiết kiệm nhất nhờ vào việc lúc nào công ty cũng có ít nhất hai nhà cung cấp.
Công tác đánh giá nội bộ đã giúp doanh nghiệp phát hiện ra những thiếu sót, tồn tại để kịp thời khắc phục.
Còn tại công tyXi măng 18( Bộ Quốc phòng) thì cho rằng khi áp dụng ISO 9000 công ty đã đạt được những kết quả tốt đẹp như:
áp dụng ISO 9000 công ty có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, dịch vụ, khả năng thanh toán… Kết quả là sản phẩm của công ty sản xuất ra đến đâu tiêu thụ hết đến đó. Trên cơ sở áp dụng ISO 9000, chất lượng sản phẩm của công ty không ngừng được nâng cao, đã được Bộ Quốc phòng chỉ định sử dụng cho các công trình quốc phòng ven biển, hải đảo.
ISO 9000 có tác động mạnh mẽ đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty như: hoạt động của tất cả quá trình sản xuất kinh doanh đều được thực hiện nhịp nhàng khoa học… Các quy trình hướng dẫn phân công công việc hết sức rõ ràng, những sự khác biệt không phù hợp được chỉ ra kịp thời.Các yếu tố sản xuất kinh doanh được bảo đảm nhờ đó khai thác tốt năng lực sản xuất của toàn bộ dây chuyền, phát huy công suất.
Về vấn đề con người, khi áp dụng ISO 9000, qua công tác huấn luyện đào tạo và thực tế sản xuất, công ty đã có được một đội ngũ cán bộ nhân viên thành thạo công việc, tuân thủ trình tự các quá trình, tôn trọng nề nếp khoa học thực thi các công việc theo đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.Phát huy được năng lực trí tuệ của các cá nhân, tập thể tạo nên sức mạnh của công ty.
Trên đây trong phạm vi có hạn em chỉ nêu ra hai ví dụ để chứng minh rằng các doanh nghiệp đã có được những lợi ích thiết thực khi áp dụng ISO 9000. Trong thực tế để ISO 9000 phát huy hết tác dụng và hiệu quả của nó các doanh nghiệp phải xác định được rằng ISO là vòng quay cải tiến thường xuyên vì như chúng ta đã biết khi cá nhân, tập thể hay doanh nghiệp thường có bệnh thoả mãn. Đạt được một cái đích nào đấy là cảm thấy có thể “nghỉ ngơi, dưỡng sức” và thực tế là tụt hậu.Nhưng khi doanh nghiệp đã đăng kí quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế thì không thể “nghỉ ngơi” được vì ISO là một hệ thống cải tiến thường xuyên. Doanh nghiệp muốn tốc độ của mình nhanh hơn nữa thì phải tham gia vòng quay cải tiến thường xuyên ấy. Để tham gia vào vòng quay đó doanh nghiệp phải xác định. Muốn làm được điều gì, trước hết phải bắt đầu từ nhận thức đúng đắn và thấu đáo.Tiếp theo là tổ chức thực hiện phải phân công cụ thể công việc cho từng người, từng nhóm. Sau đó phải xây dựng sổ tay chất lượng, quy trình sản xuất liên quan đến các vấn đề như kí hợp đồng, mở kế hoạch, nhập vật tư, thiết kế sản, thử nghiệm, thống kê, ghi chép, dịch vụ sau bán hàng.Các phòng ban chức năng phải xây dựng thành qui trình và hướng dẫn các khâu liên quan đến nhiệm vụ của mình.
Mọi người đều có thể mắc sai sót, nhưng phần lớn đều sợ khuyết điểm. ISO chống lại cái “ sợ” này. Ban bảo đảm chất lượng phải tìm ra lỗi để sau đó lỗi được khắc phục. Nhưng không hiếm công nhân muốn che dấu lỗi vì sợ quản đốc sử lý thi đua. Quản đốc sợ kết quả không tốt sẽ ảnh hưởng đến đơn vị mình. Do đó xảy ra tình trạng đánh giá tốt nhưng thực tế vẫn chưa hẳn là thế.
Sau đây là những bài học kinh nghiệm và kết quả của EMIC:
Trước hết, chính thủ trưởng phải không sợ khuyết điểm, động viên công nhân phát hiện và ghi nhận lỗi. Phân xưởng cơ khí của EMIC được chọn làm thí điểm cho việc này. ở đây thành lập “nhóm bảo đảm chất lượng” khâu cần đột phá nhất là thống kê lỗi, tức là sản phẩm không tốt, sản phẩm chưa đạt được từ nhỏ đến lớn đều được ghi chép và phân loại. Kết quả: Từ chỗ một tháng chỉ phát hiện được một hoặc hai lỗi, về sau thống kê ra hàng trăm lỗi. Lúc đầu mọi người hoang mang, nhưng sau cứ bình tĩnh giải quyết dần, giải quyết tận gốc. Lỗi không lặp lại nữa. VD: Phân xưởng có một bộ phận làm rôto là bộ phận khó nhất trong công tơ. Trước đây phải sửa lại hàng nghìn cái và cũng chỉ sửa được khoảng 70%. Còn 30% phải bỏ hẳn. Sau 6 tháng khắc phục lỗi, số rôto sửa chữa chỉ còn bằng 1/4 so với trước.
Khi chưa được cấp chứng chỉ ISO, từ 10h đến 11h30 hàng ngày, các quản đốc đều phải họp để giải quyết công việc trong ngày. Nhưng từ khi có chứng chỉ ISO, một tuần chỉ cần họp một lần vào thứ 5 để xem 3 ngày trước có vấn đề gì, 3 ngày sau cần tập trung vào vấn đề gì hoặc nhận chỉ đạo khi điều chỉnh kế hoạch theo đơn đặt hàng. Các tổ sản xuất không phải họp, công nhân cứ làm theo qui trình, năng xuất tăng hẳn lên.
ISO không đề cập đến lỗ lãi, không liên quan đến định mức lao động nên mới đầu EMIC cũng cho rằng đó là một hệ thống phi kinh tế. Nhưng giờ đây ISO đã chứng minh rõ ràng hiệu quả kinh tế xã hội của nó.
Thực hiện ISO chính là làm cho bản thân doanh nghiệp tốt lên, cho chính doanh nghiệp sử dụng và hưởng thụ. Nếu hiểu như vậy và quyết tâm theo ISO thì dù bước đầu có tốn kém, sẽ có lãi về sau. Nếu làm chỉ để đối phó tìm cách lấy cái “ giấy thông hành” hay để khách hàng “ tin tưởng” thì không nên, đấy mới là tốn kém, lãng phí.
3. Những mặt trái của ISO
Hiện nay, đa số các doanh nghiệp ở nước ta đã nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc xây dựng, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO. Kết quả mà các doanh nghiệp đạt được cũng như lợi ích của nó đem lại cho doanh nghiệp là năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế, nâng cao năng lực quản lý, góp phần nâng cao trách nhiêm, lề lối làm việc của lãnh đạo và tập thể đội ngũ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp; giúp doanh nghiệp giảm sai lỗi, chống lãng phí và chi phí giá thành trên một sản phẩm; chất lượng và hiệu quả công việc được nâng cao. Nhận thức của doanh nghiệp nâng cao rõ rệt, doanh nghiệp xem uy tín, chất lượng là yếu tố hàng đầu trong việc tồn tại và phát triển, từ đó tạo nên được uy tín, sức cạnh tranh và kết quả là đạt doanh thu cao. Hầu hết các doanh nghiệp khi tìm đến ISO đều có mong muốn nâng cao được kết quả kinh doanh thông qua thoả mãn khách hàng, cải tiến chất lượng, tăng cường sức cạnh tranh và giảm thiểu chi phí; phát huy nội lực nhằm đạt được sự phát triển lâu dài. Hầu hết các doanh nhgiệp đã và đang áp dụng ISO 9000 đều mong muốn đạt được những lợi ích thiết thực trên. Nhưng bên cạnh đó còn không ít các doanh nghiệp các tổ chức áp dụng ISO 9000 không đặt mục tiêu đạt được những lợi ích trên lên hàng đầu mà chỉ muốn có chứng chỉ ISO phục vụ mục đích Marketing của mình. Họ muốn chứng tỏ cho khách hàng cho các đối tác thấy được rằng tổ chức mình cũng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế hoặc muốn có chứng chỉ ISO do yêu cầu của thị trường xuất khẩu mà không chú ý duy trì hệ thống sau chứng nhận.
3.1. Những nhận thức sai lầm về ISO
Như chúng ta đã biết khi một tổ chức hay doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 theo đúng các yêu cầu và nguyên tắc của bộ tiêu chuẩn thì nó sẽ đem lại lợi ích rất to lớn cho doanh nghiệp đó. Nhưng trên thực tế có không ít các doanh nghiệp coi ISO 9000 là một phương pháp quản lý tiên tiến mà chỉ coi chứng chỉ ISO 9000 như một cái giấy thông hành để đi vào thị trường trong và ngoài nước nhằm phục vụ cho mục đích Marketing và đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp từ trước khi áp dụng ISO vẫn tăng trưởng phát triển tốt nay thấy các doanh nghiệp khác áp dụng ISO thì cũng muốn có chứng chỉ nhằm làm cho bộ mặt của doanh nghiệp đẹp thêm và từ đó trên nhãn mác sản phẩm, dịch vụ sẽ có thêm dòng chữ chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001, ISO 9002... Đó là căn bệnh hình thức phổ biến ở Việt Nam. Với những hệ thống văn bản, qui trình, thủ tục cứng nhắc, xa rời thực tế công việc và nhiều nơi sau khi áp dụng không đưa vào thực hành sâu rộng trong doanh nghiệp hoặc nếu được đưa vào thì nó trở thành gánh nặng cho người thực hiện.
Trên thực tế nhiều doanh nghiệp khi tham gia kí kết các hợp đồng hay liên doanh hợp tác đòi hỏi phải có ISO. Một doanh nghiệp đáng tin cậy thì chí ít phải có các yếu tố như: Chiến lược sản xuất kinh doanh, chọn được sản phẩm có đầu ra ổn định và lâu dài: Hệ thống quản lý phải tốt; trong đó có chứng chỉ ISO; nguồn lực tài chính con người và có tư vấn tốt...Chỉ có như vậy sản phẩm mới có chất lượng và sức cạnh tranh, chứ đâu phải ISO là phép mầu có thể biến sản phẩm không chất lượng trở thành chất lượng, như nhiều người lầm tưởng rằng doanh nghiệp nào có chứng chỉ ISO là sản phẩm của doanh nghiệp đó có chất lượng.
Nhiều doanh nghiệp do làm ăn không đạt kết quả tốt, đội ngũ lãnh đạo lại hiểu biết quá ít nên đã coi ISO như là một biện pháp hữu hiệu nhất giúp doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng trên nên họ đã cố gắng làm cấp tập bằng mọi cách sao cho doanh nghiệp họ có chứng chỉ với thời gian ngắn nhất. Mà thực tế để xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo ISO nó phụ thuộc vào thực trạng hệ thống quản lý hiện tại của doanh nghiệp, phụ thuộc vào qui mô của doanh nghiệp và tính phức tạp trong quá trình hoạt động sản xuấ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35616.doc