MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Nội dung 2
Chương I: Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. 2
I. Quan điểm của các trường phái kinh tế học về lợi nhuận: 2
1. Quan điểm của các nhà kinh tế học trước Mac: 2
2. Quan điểm về lợi nhuận của John Keyes: 4
3. Học thuyết về lợi nhuận của Mac: 5
II. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư. 9
1. Lợi nhuận công nghiệp: 9
2. Lợi nhuận thương nghiệp: 9
3. Lợi tức: 10
4. Lợi nhuận ngân hàng: 11
5. Lợi nhuận độc quyền. 11
ChươngII: Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. 13
I. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường : 13
1. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: 13
2. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển. 14
3. Vai trò của lợi nhuận trong quá trình tái sản xuất xã hội: 16
4. Lợi nhuận có vai trò quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế: 17
5. Lợi nhuận là động lực thúc đẩy mọi mặt của đời sống xã hội: 17
II. Những hậu quả do theo đuổi lợi nhuận: 18
1. Hậu quả về mặt kinh tế: 18
2. Hậu quả về mặt chính trị xã hội: 20
Chương III: Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. 22
I. Tình hình kinh tế Việt Nam 22
1. Kinh tế Việt Nam trước năm 1986: 22
2. Quá trình chuyển đổi cơ chế cũ sang cơ chế mới- Cơ chế thị trường: 23
II. Vấn đề lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 25
III. Giải pháp nhằm phát huy vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 27
Kết luận 29
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1937 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấp tư bản thì tỷ suất lợi nhuận p' chỉ phản ánh mức đầu tư có hiệu quả như thế nào?
Do đó việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuậ là động lực thúc đẩy của nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.
Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư. Dựa theo Giáo trình Kinh tế chính trị, Trường ĐHKTQD(1998), ChươngVI & Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lênin, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia(1999), từ ChươngVII đến ChươngXIII , trang 192-385 &Tư Bản Luận QuyểnI tập 1 trang 162-167.
Lợi nhuận công nghiệp:
Trong công nghiệp để cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho thị trường, các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trínhản xuất và kinh doanh. Họ muốn chi phí cho các đầu vào ít nhất và bán hàng hoá với với gía cao nhất để khi trừ đi các chi phí còn số dư dôi ra. Số dư hay số chênh lệch giữa giá đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất gọi là lợi nhuận công nghiệp. Phần lợi nhuận này giúp nhà tư bản không những nuôi được bản thân và gia đình mình mà một phần trong đó còn được dùng để tích luỹ và tái sản xuất mở rộng, củng cố, phát triển và tăng cường vị trí của mình trên thị trường. Từ đó ta có thể hiểu một cách rõ ràng, lợi nhuận công nghiệp chính là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu bán hàng và tổng mức chi phí bỏ ra của những đơn vị sản xuất kinh doanh mang tính công nghiệp. Kinh tế hoc David Begg.
Lợi nhuận thương nghiệp:
Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương, họ cho rằng lợi nhuận là kết quả của sự trao đổi không ngang giá hoạt động thương mại như một trò lừa đảo"bịt bợm":"không một người nào thu lợi nhuận mà không làm là khác". Đây là quan điểm sai lầm và nguyên nhân là do chủ nghĩa trọng thương đã tách hai quá trình sản xuất và lưu thông thành hai lĩnh vực khác biệt.
Khác với những quan điểm trước, tư bản thương nghiệp dưới CNTB (tu bản thương nghiệp hiện đại) là một bộ phận của tư bản công nghiêph tách rời ra, phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá của tư bản công nghiệp. Vai trò của tư bản công nghiệp chỉ hạn chế ở mức năng mua và bán, hay nói cách khác nó không sáng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, nó chỉ thực hiện giá trị và giá trị thặng dư mà thôi. Nhìn bề ngoài thì lợi nhuận thương nghiệp là chênh lệch giữa việc mua và bán hàng hoá. Nhưng thực chất:"lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp. " nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp" là vì:
+ Tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng quy mô sản xuất:
+ Tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng thị trường.
+ Tư bản thương nghiệp có tính chuyên môn hoá cao trong lưu thông tạo điều kiện cho tư bản công nghiệp rảnh tay tập chung vào sản xuất.
+ Tư bản thương nghiệp làm tăng tốc độ chu chuyển hàng hoá và chu chuyển tư bản làm tăng lợi nhuận do đó làm tăng tích luỹ cho tư bản công nghiệp.
Tóm lại : lợi nhuận thương nghiệp (hay phần nhường giữa hai nhà tư bản này) chính là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá).
Lợi tức:
Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp luôn có sóp tư bản tiền tệ ứng trước tạm thời nhàn rỗi , Ví dụ như: tiền lương nhưng chưa đến kỳ trả, tiền dùng để mua nguyên nhiên vật liệu nhưng chưa đến kỳ mua, bộ phận giá trị thặng dư tích luỹ mà chưa sử dụng để thực hiện tái sản xuất mở rộng...Tất cả số tư bản nhàn rỗi đó không đem lại một thu nhập nào cho nhà tư bản. Nhưng đối với nhà tư bản thì tiền phải đẻ ra tiền. Chính vì vậy mà nhà tư bản sử dụng số tư ản nhàn rỗi đó cho vay lấy lãi, và phần lãi ấy gọi là lợi tức. Vậy lợi tức là gì? "lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay căn cứ vào món tiền mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay".
Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Phạn trù lợi tức tồn tại đã che dấu đi bản chất bóc lột của CNTB. Nhưng quá trình vận động của tư bản cho vay đã vạch trần được điều đó.
Lợi nhuận ngân hàng:
Ngân hàng TBCN là tổ chức kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa người đi vay và người cho vay. Ngân hàng có hai nhiệm vụ chính: nhận gửi và cho vay, còn trong nghiệp vụ cho vay, ngân hàng thu lợi tức của người đi vay. Lợi tức nhận gửi nhỏ hơn lợi tức cho vay.
"Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và nhận gửi trừ đi những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng cộng với các khoản thu nhập khác về kinh doanh tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng".
Lợi nhuận độc quyền.
Độc quyền ra đời từ tự do cạnh tranh, nó loại bỏ sự thống trị về tự do cạnh tranh nhưng không thủ tiêu được cạnh tranh mà cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Cạnh tranh dẫn đến độc quyền, độc quyền cũng để cạnh tranh tốt hơn
Bản chất kinh tế của CNTB là dụa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất. Việc phân phối lợi nhuận dựa trên sở hữu tư bản. Tuy nhiên đến giai đoạn của CNTB độc quyền thì việc phân phối lợi nhuận không chỉ dựa trên sở hưũ tư bản nói chung mà trước hết dựa trên cơ sở quyền lực chi phối tư bản của người khác, dựa trên sở hữu tư bản về tài chính.
Do tư bản độc quyền, nhất là tư bản tài chính,giữ vị trí thống trị trong sản xuất và lưu thông, nên nó có thể không chỉ sử dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, cạnh tranh, lợi nhuận bình quân và tỷ suất lợi nhuận bình quân...là những phạn trù kinh tế quen thuộc trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, mà nó sử dụng phương pháp cưỡng bức siêu kinh tế để thu lợi nhuận cao_lợi nhuận độc quyền.
Vậy lợi nhuận độc quyền là gì ? " lợi nhuận độc quyền là hình thức biểu hiện mới của giá trị thặng dư, hình thành trong giai đoạn CNTB độc quyền".
Lợi nhuận độc quyền = lợi nhuận bình quân( ) + lợi nhuận siêu ngạch do độc quyền mà có:
pĐQ= +pSNĐQ
Trong đó pSNĐQ gồm : m của công nhân trong nội bộ độc quyền
: m của công nhân ngoài tổ chức độc quyền
: m do sản xuất hàng hoá nhỏ trong nước.
: m do xuất khẩu tư bản và sản xuất hàng hoá bán
ra nước ngoài
: m do quân sự hoá kinh tế.
ChươngII: Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.
Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường : Dựa theo A.Paul Samuellson Kinh tế học tập 1,2.
Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển:
Lợi nhuận đó là nguồn giầu có của giai cấp tư bản. Chính vì vậy các nhà tư bản sản xuất kinh doanh với mục đích thu được càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Trước đây họ có thể tạo ra lợi nhuận bằng cách kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân.(phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối). Tuy nhiên phương pháp này chỉ có hiệu quả lúc ban đầu của CNTB thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản- khi mà trình độ người lao động con thấp kém. Đến khi lực lượng sản xuất phát triển, phương pháp này tỏ ra không hữu hiệu và gặp phải sự chống đối mãnh liệt của công nhân. Chính vì lẽ đó các chủ tư bản chuyển sang bóc lột một cách tinh vi hơn. Đó là biện pháp tăng năng suất lao động của người công nhân thông qua việc đầu tư khoa học kỹ thuật mới. Nhưng chính mục đích áp dụng kỹ thuật mới đã làm cho CNTB ngày càng chú trọng vào khoa học công nghệ đặc biệt cho vấn đề nghiên cứu và triển khai công nghệ...đã khuyến khích các tài năng, những nhà khoa học phát huy sức mạnh của mình. Mà đỉnh cao là những phát minh sáng chế lần lượt ra đời, đặc biệt là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX . Chính vì điều đó đã làm cho lực sản xuất xã hội phát triển hết sức mạnh mẽ. Người lao động có trình độ tay nghề cao có tính chuyên môn hoá trong ngành nghề lao động đã đem lại cho các chủ tư bản không chỉ thu được lợi nhuận đơn thuần mà còn thu được cả lợi nhuận siêu ngạch.
Đối với người công nhân, họ là người trực tiếp sử dụng,vận hành công nghệ mới vì vậy đẻ quá trình sử dụng được tiếp diễn với hiệu quả kinh tế cao thì người công nhân bắt buộc phải nâng cao trình độ, nâng cao tay nghề nếu không họ sẽ bị đào thải bởi quy luật phát triển.
Còn về mặt nhà tư bản họ cũng hiểu rằng để đạt được hiệu quả kinh tế cao, tận dụng được hết các chức năng của công nghệ tiên tiến thì họ phải có đội công nhân lành nghề với trình độ kỹ thuật cao. Vì vậy quá trình đầu tư cho chiến lược nâng cao trình độ lao động của nhà tư bản và yêu cầu cấp thiết người lao động phải không ngừng nâng cao khả năng của mình.
Để đạt được lợi nhuận siêu ngạch,nhà tư bản cần nâng cao năng suất lao động cá biệt của người công nhân. Từ đó nâng cao năng suất lao động xã hội,có nghĩa là thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển.
Ta đã biết lực lượng sản xuất và quan hệ sản suất có mối quan hệ biện chứng với nhau. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, chính vì lẽ đó lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển thì ắt phải khiến cho quan hệ sản xuất phát triển theo.
Do tác động của lợi nhuận, do sự phân chia lợi nhuận dưới nhiều hình thức khác nhau mà chủ yếu là dựa trên chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, đã làm cho quan hệ sản xuất giữa chủ doanh nghiệp và người lao động ngày càng thắt chặt hơn.
Bên cạnh đó mục đích doanh nghiệp luôn đặt các doanh nghiệp trước yêu cầu "hiệu quả".Làm thế nào để chi phí là ít nhất mà lợi nhuận thu về là lớn nhất. Điều đó đòi hỏi tính chuyên môn hoá cao và sự sắp xếp lại các tổ chức quản lý. Có thể giảm biên chế một số bộ phận không cần thiết, hoạt động kém hiệu quả. Tổ chức lại các bộ phận quản lý và thiết lập mối quan hệ giữa chúng để quá trình hoạt động được nhịp nhàng, thông suốt tránh sự trì trệ không cần thiết trong một số khâu nào đó làm ảnh hưởng đển cả hệ thống quản lý. Hạn chế bớt một số bộ phận quản lý cồng kềnh còn giúp cho nhà kinh tế giảm bớt một phần chi phí đồng nghĩa với việc tăng lợi nhuận.
Xuất phát từ mục tiêu ổn định và phát triển kế hoạch phân bố lực lượng lao động hợp lý, trong nền kinh tế phải cân đối tốt nguồn tài nguyên ,kết hợp chặt chẽ và thích đáng lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân người lao động,giáo dục quan điển và kỹ thuật cho người lao động. Tất cả những vấn đề đặt ra ở trên đều xuất phát từ"lợi nhuận" chính nó thúc đẩy quá trình phân phối theo lao động diễn ra mạnh mẽ theo nguyên tắc làm nhiều thì hưởng nhiều,làm ít thì hưởng ít. Nhưng cùng với sự phát triển về kinh tế thì ngoài phân phối theo lao động còn có sự phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội...Trong thời kỳ quá độ hiện nay ở nước ta còn xuất hiện hình thái phân phối theo vốn và tài sản dưới hình thái công ty và cổ phần, công ty TNHH....
Lợi nhuận làm chuyển đổi từ nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường.
Theo quá trình phát triển của lịch sử nền kinh tế đã trải qua rất nhiều hình thức khác nhau từ lạc hậu đến hình thức tiên tiến hiện đại. Đi từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hành hoá mà đỉnh cao là kinh tế thị trường, quá trình này phát triển song song với mục đích thu lợi nhuận ngày càng nhiều, nhằm đảm bảo nhu cầu tốt hơn cho cuộc sống. Bắt đầu từ nền kinh tế tự nhiên đó là nền kinh tế tự cung,tự cấp sản phẩm lao động sản xuấ ra để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng nội bộ của từng cá nhan, từng gia đình hay công xã_nhưng nhu cầu của con người thì không ngừng phat triển và quá trình phát triển luôn hướng tới những gì phù hợp hơn. Trích tài liệu trên mang theo địa chỉ:
Họ không chỉ muốn cái mà họ làm ra mà còn muốn cái mà người khác có, họ không muốn sản phẩm vừa đủ mà muốn dư thừa để dự trữ,điều đó dẫn đến quá trình trao đổi hàng hoá đơn thuần diễn ra. Cùng với những nhược điểm của nó con người ta đã qua quá trình quy đổivà cuối cùng quá trình mua bán với một đồng tiền chung được quy định. Kinh tế hàng hoá xuất hiện với mục tiêulà đem cung ưngsanr phẩm để thu được nhiều lợi nhuận làm cho thị trường ngày càng được mỏ rộng. Cơ sở của sự ra đời và tồn tại của sản xuất là phaan công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này với người sản xuất khác, do quan hệ về tư liệu sản xuất quyết định. Khi kinh tế hàng hoá phát triển đến trình độ cao sẽ làm cho quá trình sản xuất mua bán diễn ra mạnh mẽ và các nhà kinh doanh luôn tìm kiếm và năng động hơn trong hoạt động sản xuất cũng như phân phối lưu thông. Lợi nhuận là động lực thúc đẩy những động cơ đó. Cùng một lúc mà có nhiều nhà tư bản cùng tham gia thì vấn đề thời cơ càng trở nên cấp thiết. Lúc này nhà kinh tế sẽ có nhiều hình thức khác nhau để thu lợi nhuận cao. Sự cản trở một khâu nào dó trong quá trình hoạt động sẽ làm gián đoạn các bước tiếp theo và lúc này thời cơ không còn nữa. Chính điều này đã làm nảy sinh ra mật số yêu cầu là cần phải tách ra sự quả lý vi mô của nhà nước.Với sự phát triển phng phú của thị trường thì nhà nước không thể có những chính sách đúng đắn trong tầm vi mô. Do đó nhà nước phải quản lý ở tầng vĩ mô vì cũng do lợi nhuận mà các nhà kinh tế có thể bất chấp các thủ đoạn dẫn tới sự mất an toàn cho các nhà kinh doanh khác, hay vì lợi nhuận mà gây ra sự bất ổn về chính trị xã hội. Nhà nước cần áp dụng và đưa ra chính sách pháp luật đúng đắn trong kinh doanh để xử lý những tranh chấp trong kinh doanh và các vụ vi phạm luật kinh tế. Tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển lành mạnh. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ.
Vai trò của lợi nhuận trong quá trình tái sản xuất xã hội:
Để biết được vai trò của lợi nhuận đối với quá trình tái sản xuất xã hội như thể nào thì trước tiên ta hãy xem xét quá trình tái sản xuất diễn ra như thế nào?.
Như ta đã biết muốn tái sản xuất mở rộng ngày càng hiện đại thì phải có nhiều vốn. Muốn có nhiều vốn thì phải có một thời tích luỹ lâu dài. Do vậy tích luỹ vốn gắn liền với tái sản xuất mở rộng đã trở thành quy luật chung của các hình thái kinh tế xã hội có tái sản xuất mở rộng .
Tích luỹ vốn nói chung, xét về mặt lý thuyết thực chất đó là sự chuyển hoá một phần giá trị thặng dư thành tư bản mới để mở rộng sản xuất. Do vậy nguồn tích luỹ vốn là giá trị của sản phẩp thặng dư do lao động thặng dư tạo ra trong quá trình sản xuất (nhờ năng xuất lao đọng cao bảo đảm ngày lao động vượt quá phần giá trị của sản phẩp tất yếu) và được thực hiện trong quá trình lưu thông. Sự tích luỹ này do các chủ sở hữ và tư liệu san xuất quyết định.
Như vậy, dù ở trạng thái nào thì vốn cũng là một phần lợi nhuận tạo thành. Và lợi nhuận đóng vai trò quyết địng trong quá trình tái sản xuất xã hội.
Lợi nhuận có vai trò quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế:
Lợi nhuận là lý do làm phát sinh và phát triển nền kinh tế thị trường. Nó thúc đẩy quá trình mở rộng và trao đổi hàng hoá cùng khoa học kỹ thuật. Mở cửa nền kinh tế nhằm thu hut nguần lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về trình độ khoa học công nghệ trong nước, Mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết làm cơ sở tăng cường tính độc lập và phụ thuộc lẫn nhau trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi.
Để phát huy được sự tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế thì đòi hỏi trong các mối quan hệ kinh tế đó phải có lợi nhuận, bởi trong cơ chế thị trường một vấn đế đặt ra phải xét tới tính"hiệu quả". Có nghĩa là không có lợi thì không làm. Do vậy, trong mối quan hệ này đòi hỏi phải có lợi nhuận và nó là động lực thúc đẩy các mối quan hệ ngày càng tốt hơn.
Lợi nhuận là động lực thúc đẩy mọi mặt của đời sống xã hội:
Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản vốn đều là tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ hiện nay vì các hình thức đó đều nhằm mục đích thúc đẩy nền sản xuất phát triển và tạo lập sự công bằng đối với tất cả các thành viên trong xã hội. Nhưng ngoài những người có sức lao động và được cộng theo thành quả của chính mình, những người có vốn đóng góp vào quá trình sản xuất để thu được một phần lợi tức,lợi nhuận thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này hay lẽ khác không thể tham gia lao động và không được trả công. Đời sống phần lớn số người này hoặc là do gia đình hoặc là do trợ cấp xã hội đảm bảo. Mặt khác mức sống của cán bộ công nhân viên chức nhà nước và những người làm việc trong tất cả các ngành nghề khác...cũng không phải chỉ dựa nguyên vào tiền công, tiền lương. Họ cần dụa vào một phần các quỹ phúc lợi công cộng của nhà nước, các xí nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội khác. Đó còn gọi là các hình thức phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Hình thức phân phối này đặc biệt phù hợp trong thời kỳ quá độ và nó luôn phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội. Nó chẳng những bảo đảm cho mọi thành vien trong xã hội có mức sống tối thiểu mà còn có tác động kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển toàn diện của mọi thành viên trong xã hội.
Tại một số nước phát triển, nhà nước có chính sách về tiền lương và trợ cấp thất nghiệp, phúc lợi xã hội. Đi tiên phong trong chính sách này là ở châu Âu mà tiêu biểu là ở Anh, Pháp , Thuỵ Điển...
Khi cần, thì nền kinh tế phát triển sẽ là nền tảng cho việc củng cố quốc phòng, an ninh, giáo dục... bởi vì:với tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật mạnh mẽ như vũ bão trong giai đoạn hiện nay. Quân sự quốc gia ngày càng được trang bị những vũ khí tối tân, hiện đại. Giáo dục được chú trọng đầu tư,là quốc sách hàng đầu. Yêu cầu đặt ra là chúng ta phải nắm bắt được những khoa học kỹ thuật và phải có một sự dầu tư để nhập các thiết bị phục vụ cho sử dụng cho nghiên cứu trong tất cả các lĩnh vực,mà đặc biệt cho quốc phòng, an ninh và giáo dục. Vì vậy khi lợi nhuận cao chúng ta sẽ có điều kiện để đầu tư để phát triển nhân tố con người cả về lý luận và thực tiễn.
II. Những hậu quả do theo đuổi lợi nhuận:
1. Hậu quả về mặt kinh tế:
"Tấm huy chương nào cũng đều có mặt trái của nó" lợi nhuận tạo điều kiện cho kinh tế thị trường phát triển nhưng nó cũng tạo điều kiện để cho những thói hư tật xấu của nền kinh tế này tồn tại song hành với sự phát triển đó. Theo Mac những thói hư tật xấu này là những "Khuyết tật cơ chế thị trường" những khuyết tật không thể tránh được trong sự phát triển chung của nền kinh tế hàng hoá
- Việc sử dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật đòi hỏi quy mô sản xuất và lượng tư bản phaỉ lớn. Trước yêu cầu đó, các doang nghiệp phải tích tụ hay tập trung sản xuất để hình thành nên những xí nghiệp lớn. Do mục tiêu lợi nhuận, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ tiềm năng về công nghệ để nâng cao chấtl ượng sản phẩm nên cũng không đủ tiềm năng cạnh tranh với những doanh nghiệp lớn. Vì vậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động ngày càng xa sút và kém hiệu qủa, tư bản vừa và nhỏ đứng trên bờ vực phá sản còn những doanh nghiệp lớn những tư bản lớn ngày càng trở nên giầu có với vị trí của mình trên thị trường. Đó là tất yếu của quy luật phát triển và đào thải và khi tập trung tích tụ đên một trình độ nhất định họ sẽ trở thành các tổ chức độc quyền. Chủ nghĩa độc quỳên càng phát triển thì lợi nhuận độc quyền thu về cành nhiều. Nhưng hậu quả do họ gây ra như tình trạng: Lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng lại làm cho cả một nền kinh tế phải gánh chịu trong đó những người phải gánh chịu nặng nề nhất lại là giai cấp công nhân và mọi tầng lớp nhân dân lao động. Theo đuổi lợi nhuận cũng đồng nghĩa với qúa trình bần cùng hoá những người lao động.
- Vào cuối thế kỷ 19 các nước tư bản đã tích luỹ được một lượng tương đối lớn "tư bản thừa". Số này đầu tư trong nước thì thu được lợi nhuận thấp. Vì thế họ có nhu cầu xuất khẩu tư bản tới các nướclạc hậu đang cần vốn đầu tư hay một số nước khá phát triển nhưng cần trang thiết bị mới để nâng cao suất lao động. Tất cả những động cơ đó của các nước tư bản giầu có là đều nhằm thu dược lợi tức hay tỷ suất lợi tức lợi nhuận hay tỷ suất lợi nhuận cao. Song cả hai phía do mục tiêu về lợi nhuận đã dẫn đến quá trình xuất khẩu diễn ra gây hậu quả lớn cho cả hai bên. ở nước xuất khẩu tư bản , các tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận lớn nhưng nền kinh tế các nước này bị giảm tốc độ phát triển vì sự cạnh tranh trong việc xuất khẩu tư bản đã tác động xấu tới nền kinh tế các nước này làm tăng sự phân hoá giầu nghèo. Còn ở các nước nhập khẩu tư bản giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị bóc lột nặng nề hơn trước bởi những khoa học công nghệ mới.
Bên cạnh đó những nước kém phát triển thì tình trạng cạnh tranh ngày càng trở nên tồi tệ. Để đạt được mục tiêu vì lợi nhuận, các doanh nghiệp không từ một thủ đoạn nào để thủ tiêu đối thủ cạnh tranh của mình. Họ sẵn sàng tung ra trên thị trường những hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng.... hay những thông tin cục bộ để bôi xấu, phản ánh sai lệch về đối thủ cạnh tranh của mình. Tình trạng buôn lậu thường xuyên xảy ra, gây thất thu thuế cho ngân sách nhà nước. Từ đó chính phủ không đảm bảo được các quỹ phúc lợi và trợ cấp xã hội, không đảm bảo được mức sống đối với những thành viên của xã hội.
- Một vấn đề nữa liên quan đến cung cầu. Các doanh nghiệp khi thấy thu được nhiều lời, họ tăng cường sản xuất để cung ứng ra thị trường mà không tính đến khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Gây ra tình trạng dư thừa sản phẩm mà hậu quả gánh chịu lớn nhất vẫn là những người công nhân những người lao động khi công ty không đủ khả năng thanh toán tiền lương cho họ.
- Các doanh nghiệp luôn hướng đến mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của mình mà họ không tính đến ích lợi tối đa cho xã hội. Họ luôn tìm cách giảm chi phí cho doanh nghiệp và cắt bớt những khâu trung gian không cần thiết như sử lý chất thải, sử lý ô nhiễm môi trường- nguồn nước.... gây ra tình trạng thất bại thị trường mà hậu quả và những chi phí sử lý lại do nhân dân và nhà nước gánh chịu....
Những hậu quả về mặt kinh tế do các doanh nghiệp theo đuổi lợi nhuận mang lại tồn tại như những cỗ máy vận hành song song với sự phát triển kinh tế thị trường. Đó là những mặt trái của nền kinh tế này , mà chúng ta cần có một bàn tay hữu hình điều tiết và khắcphục những khuyết tật đó trong cơ chế thị trường.
Hậu quả về mặt chính trị xã hội:
Theo quan điểm đã nói trên, vì lợi nhuận mà người ta có thể làm tất cả những gì miễn là biến được nhiều tiền cho bản thân mình còn tất cả những hậu quả mang lại thì "để phần" cho nhà nước và nhân dân cùng đuợc "hưởng" . Đó là gì? đó là những vấn đề về môi trường đố là những vấn đề về y tế và cả những tệ nạn xã hội nảy sinh khác.
Việc chạy đua theo lợi nhuận sẽ làm cho các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau. Quá trình cạnh tranh đó cũng là quá trình đào thải những doanh nghiệp lạc hậu và tạo môi trường phát triển vững chắc đối với những doanh nghiệp tiên tiến. Tuy là công bằng về mặt kinh tế, song đối với những doanh nghiệp đứng trên bờ phá sản thì công nhân của họ lại đứng trước một tình thế phũ phàng. Thất nghiệp đồng nghĩa với nó là không có thu nhập và có nghĩa cuộc sống không được đảm bảo . Đíong hành với nạn thất nghiệp gia tăng là các tệ nạn xã hội khác cũng không ngừng tăng theo. Và cũng song hành với thất nghiệp là giá dục cũng xa sút, nhân tài của đất nước bị chảy máu chất xám....
Chạy theo lợi nhuận, các doanh nghiệp luôn tìm cách cắt bổ những khâu không cần thiết để giảm chi phí, đặc biệt là khâu xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường sinh thái.
Vì lợi nhuận , tất cả vì đồng tiền, mà những tư tưởng về văn hoá xã hội bị mài mòn. Bên cạnh những tư tưởng suy tồi về đạo đức của một số người có thế lực trong xã hội như tệ nạn tham nhũng,nền văn hoá,truyền thống dân tộc cũng bị suy đồi một cách trầm trọng. Những ngành nghề cổ truyền may đậm bản sắc dân tộc bị mất đi dần. Nền văn minh, văn hoá lâu đời của dân tộc cũng bị mai một. Những quan niệm sống thực dụng, "tiền tệ hoá" các mối quan hệ xã hội cũng ngày càng được phổ biến. Con người ta sẽ quan tâm nhiều đến vật chất và sẽ ít quan tâm đến thoả mãn nhu cầu cho nhau".
Kinh tế là yếu tố quan trọng nhất nó quyết định tất cả các sự phát triển chung của nhân loại. Theo đuổi lợi nhuận gây ra những hậu quả lớn đến với nền kinh tế thì tất yếu nó sẽ gây hậu quả rất nghiêm trọng đến với các mặt đời sống chính trị - xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, dù có phát triển đến đâu, dù có tốt đến mấy cũng không thể loại bỏ hết những mặt hạn chế tiêu cực trong xã hội. Vai trò của một nhà nước trong sạch lành mạnh trong nền kinh tế thị trường sẽ như một phương thuốc hữu hiệu để đưa nền kinh tế này phát triển bền vững và đồng thời sẽ là phương thuốc hữu hiệu để tiệt trừ hay hạn chế những hâụ quả đó.
Chương III: Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở việt nam.
Tình hình kinh tế Việt Nam
Kinh tế Việt Nam trước năm 1986: Dựa theo Giáo trình Lịch sử KTQD, Trường ĐHKTQD(1999), Chương XIII & XIV, Nghiên cứu Kinh tế số 254 tháng 7/99 trang 13-17.
Sau nhiều tập kỷ thống trị tính ưu việt của cơ chế kế hoạch hoá tập trung về nền kinh tế chỉ huy do nhà nước điều hành cũng đến hồi kết thúc. Nước Nga và hầu hết các nước Đông Âu khác đã phải bắt đầu một thời kỳ chuyển đổi đầy khó khăn song nền kinh tế thị trường phi tập trung hoá. Trung Quốc, tuy vốn do Đảng Cộng Sản lãnh đạo đã có những thành tựu rực rõ về kinh tế vào những năm 1980-1990 nhờ cho phép thị trường được phát triển. Việt Nam hoà chung với sự thay đổi của thế giới cũng đã chuyển nền kinh tế từ (tập trung quan liêu bao cấp) bước sang nền "kinh tế thị trường dưới sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa" được khởi sướng vào năm 19
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50161.doc