Đề tài Ảnh hưởng của các dòng tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) đến sức sinh sản thực tế và tỷ lệ sống của ấu trùng

Nghiên cứu được tiến hành với tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) có nguồn gốc khác nhau: nhóm sông Đồng Nai (tập hợp tại Vĩnh Cửu - Đồng Nai), nhóm sông Mêkông (tập hợp tại 3 địa điểm khác nhau: Mỹ Tú - Sóc Trăng, Tân Châu - An Giang và Châu Đốc - An Giang, nhóm tôm Malaysia được nhập từ Malaysia.

Các nhóm tôm càng xanh bố mẹ được nuôi trong các giai 841,5 m đặt trong ao đất 2.000 m2, độ sâu nước ao 1,5 m. Nuôi riêng tôm đực và cái của từng nhóm tôm để chủ động trong thí nghiệm ghép cặp (2 giai tôm đực và 2 giai tôm cái cho mỗi nhóm tôm). Tôm bố mẹ được nuôi vỗ từ tháng 01 - 3/2007, mật độ nuôi là 1 - 3 con/m2 (35 - 100 con/giai). Thức ăn sử dụng ở giai đoạn này là thức ăn viên và bổ sung thức ăn tươi 2 ngày/lần như gan bò, cá tạp, mực, ốc nhằm cung cấp nhiều chất dinh dưỡng cho tôm trong quá trình phát triển trứng. Tôm được cho ăn 2 lần/ngày vào lúc 8 giờ và 16 giờ, trọng lượng thức ăn bằng 4 - 5% trọng lương tôm của giai. Các giai tôm có hệ thống sục khí, hoạt động vào ban đêm từ 8 giờ tối đến 6 giờ sáng hôm sau, nhằm tăng lượng oxy hòa tan, tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho tôm phát triển. Các giai có giá thể bằng chà và ống PVC để cho tôm trú ẩn, hạn chế hiện tượng tôm ăn nhau trong lúc lột xác.

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2006 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của các dòng tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) đến sức sinh sản thực tế và tỷ lệ sống của ấu trùng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
600 trứng/gram trọng lượng con cái. Tôm càng xanh cái có thể tái phát dục và đẻ lại sau 16 - 45 ngày. Trong quá trình ấp trứng tôm cái dùng các chân bụng quạt nước để tạo dòng chảy làm thông khí cho trứng và các chân ngực để loại bỏ những trứng bị hư hay vật lạ dính vào khối trứng. Tuỳ vào thời gian và nhiệt độ mà trứng có thể nở sau 15 - 23 ngày ấp. 2.3.3 Phát triển của phôi, ấu trùng và hậu ấu trùng của tôm càng xanh Theo Trần Ngọc Hải và ctv (2000) thì trứng tôm càng xanh mới đẻ có kích cỡ khoảng 0,6 - 0,7 mm. Trứng thụ tinh nhân bắt đầu phân cắt và hoàn thành sự phân cắt sau 24 giờ. Quá trình giảm phân xảy ra khi nhân phân cắt lần thứ 3, vào ngày thứ hai đĩa mầm xuất hiện ở mặt bụng của phôi. Ngày thứ 3 vùng phôi được hình thành và phát triển sang giai đoạn Nauplius. Sau 80 giờ các phụ bộ của Nauplius bắt đầu phát triển. Ngày thứ 5 hình thành phụ bộ đầu và các nhú đuôi. Ngày thứ 7 điểm mắt bắt đầu phát triển và nhú đuôi trở thành gai đuôi. Ngày thứ 8 bắt đầu hình thành giáp đầu ngực, mắt có sắc tố, ruột hình thành và tim bắt đầu đập. Ngày thứ 12 phôi nằm dọc theo trứng và tiếp tục phát triển cho đến khi nở. Theo dõi sự phát triển của phôi trứng, trứng dần phát triển từ màu vàng nhạc sang màu vàng cam, sau đó đến màu vàng xám và cuối cùng là màu xám đen. Sau 17 -23 ngày trứng sẽ nở và quá trình nở hoàn thành sau 4 - 6 giờ. Khi nở tôm mẹ cử động chân bụng liên tục để thải ấu trùng ra ngoài. Ấu trùng mới nở sống phù du có tính hướng quang mạnh và cần có độ mặn 6-14‰ để sinh sống và phát triển (Trần Ngọc Hải và ctv, 2000). Ấu trùng sẽ chết sau khi nở 3 - 4 ngày nếu sống trong môi trường nước ngọt. Ấu trùng bơi lội chủ động, bụng ngửa và đuôi ở phía trước. Ấu trùng ăn liên tục và thức ăn gồm các loại động thực vật phù du, giun nhỏ, ấu trùng các sinh vật thủy sinh… Theo S.W.Ling (1969) ấu trùng trải qua 8 giai đoạn biến thái và đối với Uno và Soo (1969) ấu trùng tôm càng xanh trải qua 11 lần lột xác để trở thành postlarvae. Sau này nhiều tác giả như: Aquacop (1977, 1983), Adisukressno (1977, 1980), Trương Quang Trí (1985)… cũng thống nhất ý kiến với Uno và Soo là ấu trùng tôm càng xanh trải qua 11 lần lột xác để trở thành postlarvae (Trích dẫn bởi Nguyễn Việt Thắng, 1993). Bảng 2.1: Đặc điểm các giai đoạn ấu trùng tôm càng xanh (Uno và Soo, 1969 được trích dẫn bởi Trần Ngọc Hải và ctv, 2000) Giai đoạn Tuổi (ngày) Chiều dài tổng (mm) Đặc điểm I 1 1,92 Mắt chưa có cuống II 2 1,99 Mắt có cuống III 3 - 4 2,14 Xuất hiện Uropod IV 4 - 6 2,50 Có 2 răng trên chủy, chân đuôi có hai nhánh, có lông tơ V 5 - 8 2,80 Telson hẹp và kéo dài ra VI 7 - 10 3,75 Mầm chân bụng xuất hiện VII 11 - 17 4,06 Chân bụng có 2 nhánh chưa có lông tơ VIII 14 - 19 4,68 Chân bụng có lông tơ IX 15 - 22 6,07 Nhánh trong của chân bụng có nhánh phụ trong X 17 - 24 7,05 Có 3 - 4 răng trên chủy XI 19 - 26 7,73 Răng xuất hiện hết nửa trên chủy Postlarvae 23 - 27 7,69 Răng xuất hiện cả trên và dưới chủy, có tập tính như tôm lớn Giai đoạn I Giai đoạn II Giai đoạn III Giai đoạn IV Giai đoạn V Giai đoạn VI Giai đoạn VII Giai đoạn VIII Giai đoạn IX Giai đoạn X Giai đoạn XI Postlave Hình 2.2: Các giai đoạn phát triển của ấu trùng 2.3.4 Môi trường sống của ấu trùng tôm càng xanh 2.3.4.1 Nhiệt độ Nhiệt độ đóng một vai trò rất quan trọng ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và sự phát triển của ấu trùng, nó quyết định chiều dài giai đoạn phát triển ấu trùng (New và Valenti, 2000). Theo Nguyễn Việt Thắng (1993), ngưỡng nhiệt độ dưới của ấu trùng tôm càng xanh là 21oC, khi nhiệt độ tăng dần lên thì thời gian phát triển của ấu trùng càng rút ngắn và nhiệt độ dưới 24 - 26oC thì ấu trùng phát triển không tốt. Theo nhiều tác giả như: New (1982), Fujimura (1966, 1977), Adisurkressno (1977, 1980) xác định ngưỡng nhiệt độ trên của ấu trùng tôm càng xanh là 33 - 340C (trích dẫn bởi Nguyễn Việt Thắng, 1993). Các tác giả này đều cho rằng nhiệt độ tối ưu của tôm nằm trong khoảng 26 - 310C và dưới 24 - 260C thì ấu trùng phát triển không tốt. 2.3.4.2 Độ pH Độ pH nước trong bể chịu ảnh hưởng bởi một số quá trình xảy ra trong nước bao gồm các hợp chất chứa nitơ, sự hoạt động hô hấp của ấu trùng, artemia và các vi sinh vật hiếu khí khác (New và Valenti, 2000). Theo Nguyễn Thanh Phương và ctv (2003) mức pH thích hợp cho tôm càng xanh nằm trong khoảng từ 7,0 - 8,5 và pH dao động trong một ngày không quá 1 đơn vị. Mặc khác để có nước ương ấu trùng thì người ta phải dùng nước biển được vận chuyển đến trại giống và pha với nguồn nước hiện có ở địa điểm sản xuất. Nguồn nước biển có pH dao động từ 7,8 - 8,3 và nước ngọt từ 7,1 - 7,5 (Nguyễn Việt Thắng, 1993). Do vậy hai loại được pha vào nhau sẽ cho pH thích hợp. 2.3.4.3 Độ mặn Tôm càng xanh sống chủ yếu ở nước ngọt nhưng ấu trùng bắt buộc phải sống trong điều kiện nước lợ (Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2003). Do đó, độ mặn có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của ấu trùng. Có nhiều ý kiến khác nhau về ngưỡng nồng độ muối trong ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh, nhưng thường dao động từ 12 - 15‰ (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002). Aquacop (1984) và Griessinger (1986) đã duy trì độ mặn 12‰ trong bể ương ấu trùng trong suốt từ giai đoạn 1 đến khi chuyển hoàn toàn thành postlarvae, chỉ giảm xuống 6-10‰ khi ương postlarvae (Nguyễn Thị Thanh thủy, 2002). 2.3.4.4 Nồng độ oxy hòa tan Theo nhiều tác giả: Ling (1969), Fujimura (1974), New (1982), Aquacop (1977-1984) đều thống nhất lượng oxy hòa tan trong bể đối với ương ấu trùng là 6 - 9 mg/l (Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002). Trong điều kiện sản xuất giống và nếu đảm bảo sục khí đầy đủ thì không cần phải kiểm tra nồng độ oxy trong bể ương (Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002). 2.3.4.5 Ánh sáng Ánh sáng mặt trời trực tiếp dường như có hại cho ấu trùng, đặc biệt là trong hệ thống nước trong (New và Shingolka, 1985), nhưng cũng không thể thiếu ánh sáng cho ấu trùng phát triển. Ấu trùng tôm càng xanh cũng như ấu trùng của các loài giáp xác khác đều có tính hướng sáng tốt, nếu trong bể cường độ ánh sáng lớn sẽ vô tình tạo điều kiện cho ấu trùng tập trung, bám nhau, cạnh tranh về thức ăn trong một không gian hẹp (Nguyễn Thị Thu Thuỷ, 2002). Điều này không tốt bởi vì tập tính của tôm càng xanh là ăn tạp và ăn thịt lẫn nhau (New và Valenti, 2000), con vừa lột xác còn yếu sẽ dễ làm mồi cho những con khác trong đàn. Tác động của ánh sáng đến ấu trùng còn liên quan đến màu sắc của bể ương bởi vì màu sắc bể phản chiếu ánh sáng truyền vào. Theo Phạm Văn Tình (2004a) nếu sơn bể màu trắng, ánh sáng chiếu vào bể sẽ bị phản chiếu trở lại làm cho ấu trùng bị lầm dẫn đế rối loạn sinh lý. Một nghiên cứu mới đây của Tidwell và ctv (2005) cho thấy dùng bể màu đỏ và màu xanh lá cây thì tỷ lệ sống của ấu trùng là 84% và 78% so với bể sơn màu trắng và màu xanh dương là 56% và 44%, bể sơn màu vàng và màu đen đều bằng 71%. Các báo cáo về nuôi ấu trùng tôm càng xanh thành công thì cường độ ánh sáng trong khoảng 250 - 6.500 lux (New và Valenti, 2000). 2.3.4.6 Nồng độ NH3-N và nitrite (NO2-N) Các hợp chất nitơ hoà tan trong nước như: ammonia (NH3-N), nitrite (NO2-N), nitrate (NO3-N) là các thông số đánh giá chất lượng nước rất quan trọng trong nuôi trồng thuỷ sản nói chung và trong ương ấu trùng tôm càng xanh nói riêng Chất lượng nước trong bể ương rất dễ bị biến đổi chính do sản phẩm bài tiết của ấu trùng, Artemia và do sự phân hủy của thức ăn thừa. Một vài biến đổi có thể rất có hại cho ấu trùng. Nguy hiểm nhất là sự tăng ammonia chưa ion hoá (NH3), chất này làm tăng pH và nitrite (New và Shingolka, 1985). Aquacop (1977, 1983), Griessinger (1986), Liao và Mayo (1972) đã xác định ngưỡng sinh lý của một số hợp chất nitơ đối với ấu trùng tôm càng xanh trong môi trường ương: NH4+ là 0,005 - 1 mg/l, NO2 là 0,002 - 0,350 mg/lít, NO3 là 0,5 - 3,5 mg/l (Nguyễn Thị Thu Thuỷ, 2002). New và Shingolka (1985) cho rằng không nên lấy nước có hàm lượng nitrite (NO2-N) và nitrate (NO3-N) cao hơn 0,1 ppm và 20 ppm. 2.4 Các quy trinh kĩ thuật ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh Trên thế giới và nước ta có 3 qui trình sản xuất giống tôm càng xanh phổ biến là qui trình nước trong hở, qui trình nước trong kín và qui trình nước xanh. Qui trình nước xanh cải tiến còn tương đối mới nhưng cũng cho thấy rất triển vọng, đang được các trại sản xuất giống tôm càng xanh qui mô nông hộ áp dụng rộng rãi. Mỗi qui trình sản xuất có những đặc điểm thuận lợi và khó khăn riêng. 2.4.1 Quy trình nước trong hở Quy trình nước trong hở được khởi xướng bởi Ling (1969) và hoàn thiện bởi Aquacop (1977) (trích bởi Trần Ngọc Hải và ctv, 2000). Tại Việt Nam quy trình này được thử nghiệm đầu tiên vào năm 1987 bởi Nguyễn Việt Thắng (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II) và Bùi Lai (Đại Học Cần Thơ). Đây cũng là quy trình được ứng dụng nhiều ở nước ta trước đây. Đặc điểm của quy trình này là yêu cầu nguồn nước phải trong sạch ( không có tảo), thay nước hàng ngày, có thể ương ở mật độ cao. Quy trình nước trong hở tương đối đơn giản, dễ thao tác, có thể nâng cao mật độ ương để đạt sản lượng lớn, phù hợp với các trại có đầy đủ hai nguồn nước mặn và ngọt có chất lượng nước tốt. Tuy nhiên quy trình tiêu tốn nhiều nước để thay nước, tăng cao chi phí sản xuất. Trong quy trình này mật độ ương từ 50 - 250 con/lít đạt tỉ lệ sống trung bình 35 - 50% (Nguyễn Việt Thắng, 1990 trích bởi Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003). Lượng thức ăn tiêu tốn cho 1 triệu postlarvae là 22 - 25 kg Artemia và 50 kg thức ăn chế biến (New, 1985 được trích bởi Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003). 2.4.2 Quy trình nước trong tuần hoàn Quy trình nước trong tuần hoàn có thể ương ấu trùng ở mật độ cao, tiết kiệm được nước. Trong suốt quá trình ương không thay nước, chỉ bổ sung thêm nước mới, phù hợp với những vùng xa nguồn nước mặn và chất lượng nước kém. Tuy nhiên quy trình nước trong tuần hoàn cần phải thiết kế hệ thống tốn kém, phải có phương tiện kiểm soát môi trường và trang thiết bị phức tạp, cùng với sự quản lí chặt chẽ, yêu cầu người sản xuất phải có kinh nghiệm và kỹ thuật chuyên môn cao. 2.4.3 Quy trình nước xanh và nước xanh cải tiến Quy trình nước xanh có ưu điểm là tự tạo cân bằng sinh thái trong môi trường nước. Tuy nhiên quy trình này ương mật độ thấp nên sản lượng không cao. Ngoài ra quy trình nước xanh đòi hỏi phải nuôi giữ tảo chlorella phức tạp, mật độ tảo khó duy trì ổn định trong bể ương lâu dài gây trở ngại trong việc điều chỉnh các yếu tố môi trường, đồng thời vẫn phải tốn kém cho chi phí nuôi tảo và thay nước. Qui trình nước xanh cải tiến ương ở mật độ 20-60 con/lít, đạt tỉ lệ sống 30 - 98% (Khoa Thủy sản, 1999 - 2001, trích bởi Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003). Nguyên tắc của quy trình là cho phép vi sinh vật và tảo phát triển tự nhiên trong bể ương để tự ổn định môi trường nước. Quy trình nước xanh cải tiến có nhiều ưu điểm là đơn giản, không phải thay nước, không vệ sinh bể, không bổ sung tảo trong suốt quá trình ương. 2.5 Các vấn đề về sinh sản ở tôm càng xanh Sức sinh sản của tôm càng xanh mẹ tăng theo trọng lượng. Khi tôm càng xanh có trọng lượng từ 40 - 120 gram thì sức sinh sản cao, kích thước trứng lớn và ấu trùng to, khoẻ. Ngược lại tôm càng xanh có kích thước 120 gram thì có sức sinh sản kém, kích thước trứng nhỏ và ấu trùng nhỏ, yếu (Nguyễn Việt Thắng, 1993). Một số tác giả như: Ling (1969), Fujimura (1974), Adisukressno (1980) chọn tôm mẹ có trọng lượng 40 - 80 gram. Và Malecha (1983) chọn tôm mẹ trung bình 40 gram có sức sinh sản cao 900 - 1.000 trứng/gram khối lượng tôm mẹ. Trong khi đó, Subramanyam (1980) yêu cầu chọn tôm mẹ cho tham gia sinh sản có khối lượng 40 - 60 gram để cho sinh sản (Trích dẫn bởi Nguyễn Việt Thắng, 1993). Theo Nguyễn Việt Thắng và ctv (1991) chọn tôm mẹ cho tham gia sinh sản có khối lượng trung bình 26.5 - 52 gram (Trích dẫn bởi Nguyễn Việt Thắng, 1993). Nhiều tác giả còn đề xuất chọn tôm mẹ có trọng lượng 30 - 35 gram để cho tham gia sinh sản như: Griessinger (1986), Nguyễn Việt Thắng, Hà Quang Hiền và Phạm Văn Tình (1986) (Trích dẫn bởi Nguyễn Việt Thắng, 1993). Bảng 2.2: Sức sinh sản của tôm càng xanh ở các kích cở và trọng lượng khác nhau (Ang, 1991 được trích dẫn bởi Trần Ngọc Hải và ctv, 2000). Chiều dài (cm ) Trọng lượng (gram) Trọng lượng trứng (gram) Số lượng trứng 8,0 4,29 0,132 1.044 8,5 5,31 0,189 1.535 9,0 6,48 0,265 2.209 9,5 7,82 0,364 3.115 10,0 9,36 0,493 4.317 10,5 11,1 0,657 5.889 11,0 13,06 0,864 7.917 11,5 15,25 1,122 10.505 12,0 17,69 1,442 13.771 12,5 20,4 1,834 17.885 13,0 23,4 2,310 29.915 13,5 26,7 2,885 29.134 14,0 30,31 3,574 36.719 14,5 34,26 4,394 45.903 15,0 38,57 5,364 56.952 15,5 43,25 6,508 70.163 16,0 43,32 7,846 85.867 16,5 53,81 9,405 104.436 17,0 59,72 11,212 126.279 17,5 66,08 13,299 151.853 18,0 72,91 15,669 181.660 18,5 80,24 18,447 216.253 19,0 88,07 21,584 256.239 19,5 96,43 25,151 302283 20,0 105,35 29,195 355112 Chất lượng ấu trùng không chỉ phụ thuộc vào thể trọng mà còn phụ thuộc vào nguồn gốc tôm mẹ mang trứng. Khi tôm mẹ có nguồn gốc khác nhau thì chất lượng ấu trùng khác nhau. Theo Nguyễn Việt Thắng (1993) tôm mẹ có trọng lượng trung bình 10 - 45 gram thì sức sinh sản thực tế và sức sinh sản hiệu quả của tôm càng xanh có nguồn gốc từ ao sẽ thấp hơn tôm càng xanh có nguồn gốc ngoài tự nhiên. Và cũng theo Nguyễn Thanh Phương và ctv (2007) ấu trùng của của tôm mẹ có nguồn gốc từ ao nuôi thương phẩm là thấp nhất (13.917 ấu trùng/tôm mẹ có khối lượng từ 16,3 - 37,6 gram), kế đến là tôm nuôi vỗ (15.451 ấu trùng/tôm mẹ với khối lượng tôm mẹ từ 17,9 - 40,8 gram) và ấu trùng có nguồn gốc từ tôm tự nhiên là cao nhất (17.083 ấu trùng/tôm mẹ có khối lượng từ 18,4 - 45,5 gram). PHẦN 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu Thời gian: từ ngày 29/2/2008 đến 15/6/2008 Địa điểm: Trung Tâm Quốc Gia Giống Thủy Sản Nước Ngọt Nam Bộ - Ấp 2, xã An Thái Trung, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. 3.2 Vật liệu và dụng cụ nghiên cứu Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) có nguồn gốc từ tự nhiên. Nguồn vật liệu này bao gồm tôm nội địa có nguồn gốc từ sông Mêkông (tôm được thu thập từ sông Tiền và sông Hậu, đây là hai nhánh sông thuộc hệ thống sông Mêkông), sông Đồng Nai (đây là con sông chảy qua Đông Nam Bộ, bắt đầu là cao nguyên Di Linh và cuối nguồn đổ ra biển thuộc địa phận thành phố Hồ Chí Minh) và dòng tôm Malay được nhập từ Malaysia. Ao ương: 2000 m2 dạng hình chữ nhật, kích thước khoảng 28´70 m được bố trí hệ thống sục khí với máy thổi khí, thời gian sục khí từ 20 giờ tới 6 giờ. Vèo lưới: 32 m2 (8´4´1,5 m) mắt lưới 0,5 cm2 cho nuôi vỗ. Bể ương: thùng nhựa 70 lít cho ương ấu trùng, bể composite 1 m3 cho ương Postlave giai đoạn đầu. Giỏ nhựa kích thước 49´36´18,5 cm cho ghép cặp. Nguồn nước: lấy từ sông Tiền gián tiếp qua 3 nhánh sông phụ. Các vật liệu khác: vợt lưới, thau, xô, bể ấp trứng Artemia, máy xay sinh tố, tủ lạnh, thức ăn Tây Đô 25% đạm, rây chà thức ăn, máy thổi khí, máy nén khí, máy bơm chìm, nước mặn, nhiệt kế, khúc xạ kế, và các loại hoá chất hóa chất (chlorine, formol, Iodine, test pH, test NH3, test NO2) 3.3 Phương pháp nghiên cứu 3.3.1 Khảo sát sinh sản của tôm mẹ theo các dòng tôm khác nhau Nghiên cứu được tiến hành với tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) có nguồn gốc khác nhau: nhóm sông Đồng Nai (tập hợp tại Vĩnh Cửu - Đồng Nai), nhóm sông Mêkông (tập hợp tại 3 địa điểm khác nhau: Mỹ Tú - Sóc Trăng, Tân Châu - An Giang và Châu Đốc - An Giang, nhóm tôm Malaysia được nhập từ Malaysia. Các nhóm tôm càng xanh bố mẹ được nuôi trong các giai 8´4´1,5 m đặt trong ao đất 2.000 m2, độ sâu nước ao 1,5 m. Nuôi riêng tôm đực và cái của từng nhóm tôm để chủ động trong thí nghiệm ghép cặp (2 giai tôm đực và 2 giai tôm cái cho mỗi nhóm tôm). Tôm bố mẹ được nuôi vỗ từ tháng 01 - 3/2007, mật độ nuôi là 1 - 3 con/m2 (35 - 100 con/giai). Thức ăn sử dụng ở giai đoạn này là thức ăn viên và bổ sung thức ăn tươi 2 ngày/lần như gan bò, cá tạp, mực, ốc nhằm cung cấp nhiều chất dinh dưỡng cho tôm trong quá trình phát triển trứng. Tôm được cho ăn 2 lần/ngày vào lúc 8 giờ và 16 giờ, trọng lượng thức ăn bằng 4 - 5% trọng lương tôm của giai. Các giai tôm có hệ thống sục khí, hoạt động vào ban đêm từ 8 giờ tối đến 6 giờ sáng hôm sau, nhằm tăng lượng oxy hòa tan, tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho tôm phát triển. Các giai có giá thể bằng chà và ống PVC để cho tôm trú ẩn, hạn chế hiện tượng tôm ăn nhau trong lúc lột xác. 3.3.2 Ghép cặp cho đẻ 3.3.2.1 Phương pháp chọn tôm bố mẹ thành thục Tôm mẹ: Chọn tôm khỏe mạnh, không bị thương tích, không có dấu hiệu bệnh (đốm đen, đóng rong …). Chọn tôm mẹ mang buồng trứng ở giai đoạn IV (buồng trứng chiếm toàn bộ khoang giáp đầu ngực, màu vàng sậm). Đây là giai đoạn tôm mẹ chuẩn bị lột xác tiền giao vĩ. Tôm đực: Chọn tôm đực to khỏe, đôi càng thứ 2 có màu xanh và còn nguyên vẹn, tôm không có dấu hiệu bệnh. 3.3.2.2. Phương pháp ghép cặp Tôm đực và cái thành thục của các dòng Đồng Nai, Mêkông và Malay được ghép thành từng cặp riêng trong giỏ nhựa 49´36´18,5 cm đặt trong ao đất 2.000 m², có bố trí hệ thống sục khí, tỉ lệ đực cái là 1:1. Các gia đình được ghép cặp sinh sản theo mô hình diallel cross (3´3) như trình bày ở Bảng 3.1. Sau khi ghép cặp 1 - 2 ngày, kiểm tra giỏ tôm bố mẹ thường xuyên, loại tôm đực ở giỏ nào có tôm mẹ đã đẻ trứng. Tôm mẹ ôm trứng được tiếp tục giữ trong giỏ cho đến khi trứng chuyển sang màu xám đen thì chuyển lên nhà giống. Thời gian tôm mẹ ôm trứng đến khi chuyển lên nhà giống dao động từ 15 - 18 ngày sau ghép cặp. Trường hợp trứng không thụ tinh thì trứng sẽ rơi ra ngoài sau 1 - 2 ngày tôm mẹ đẻ trứng. Thí nghiệm tiến hành 2 đợt ghép cặp (19/03/2008 và 29/03/2008), tổng số lượng bố mẹ được ghép cặp là 243 cặp. Bảng 3.1: Sơ đồ thiết kế phép lai giữa các dòng tôm cành xanh Dòng tôm ♂DN ♂MK ♂ML ♀DN DN.DN DN.MK DN.ML ♀MK MK.DN MK.MK MK.ML ♀ML ML.DN ML.MK ML.ML DN = Đồng Nai, MK = Mêkông, ML = Malay 3.3.3 Ương ấu trùng tôm càng xanh từ các dòng tôm khác nhau về nguồn gốc Thí nghiệm được bố trí từ 3 dòng tôm bố mẹ đó là dòng tôm càng xanh Việt Nam có nguồn gốc từ sông Đồng Nai, sông MêKông và dòng tôm được nhập từ Malaysia vào Việt Nam. Thí nghiệm gồm 9 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức chọn 6 tôm bố mẹ để khảo sát sức sinh sản và tỉ lệ sống ấu trùng của chúng. Ấu trùng tôm càng xanh của các nghiệm thức được ương trong bể có thể tích 70 lít (chứa 60 lít nước ương) và được ương theo quy trình nước trong hở được khởi xướng bởi Ling (1969) và hoàn thiện bởi Aquacop (1977). Bảng 3.2: Các nghiệm thức ương thí nghiệm của các dòng tôm Nhóm Nghiệm thức Dòng tôm Thuần chủng 1 Đồng Nai x Đồng Nai (DNxDN) 2 MêKông x MêKông (MKxMK) 3 Malaysia x Malaysia (MLxML) Lai (cái ´ đực) 4 Đồng Nai x MêKông (DNxMK) 5 Đồng Nai x Malaysia (DNxML) 6 MêKông x Đồng Nai (MKxDN) 7 MêKông x Malaysia (MKxML) 8 Malaysia x Đồng Nai (MLxDN) 9 Malaysia x MêKông (MLxMK) Khi trứng chuyển sang màu xám đen thì chuyển tôm mẹ lên nhà giống. Xử lý tôm mẹ trước khi nở bằng formaline 200 ppm trong 30 giây và Indione 10% trong 10 - 15 giây , sau đó chuyển tôm mẹ vào bể nở. Bể nở là thùng nhựa 70 lít (thể tích nước là 30 lít, nước có độ mặn là 5‰) sục khí liên tục. Bể tôm mẹ được mặn hóa dần dần để đạt độ mặn 12 ‰ khi tôm con nở. Sau khi ấu trùng nở thì bắt tôm mẹ ra và định lượng ấu trùng bằng phương pháp thể tích. Sau khi định lượng ấu trùng, thu ấu trùng bằng vợt cho vào thau chứa, tắm ấu trùng bằng formaline 200 ppm trong 15 - 30 giây, sau đó tắm bằng Indione 10% trong 10 - 15 giây. Ấu trùng sau khi xử lý xong được chuyển sang thùng ương 70 lít (thể tích nước là 60 lít), mật độ ương 60 con/lít, sục khí liên tục. Ấu trùng được cho ăn bằng Artemia và thức ăn chế biến tùy theo các giai đoạn ương. Thành phần thức ăn chế biến bao gồm: trứng gà, sữa bột, tôm đất hoặc mực, và dầu mực. Thí nghiệm áp dụng quy trình ương nước trong hở, thay nước 2 ngày/lần với lượng nước thay 50 - 80% thể tích thùng. Sau khi ấu trùng chuyển thành postlarvae hoàn toàn được chuyển qua ương trong bể composite 1 m3, ương 15 - 20 ngày để tôm đạt kích thước lớn, phù hợp nuôi trong giai. Sau đó postlarvae được chuyển xuống giai 10 m2 trong ao để ương tiếp tục thành tôm giống. Thức ăn sử dụng trong giai đoạn ương post là thức ăn viên N0.1 . Giai ương được bố trí sục khí và giá thể dây nilon cho postlarvae bám. 3.3.4 Phương pháp thu thập và phân tích số liệu thống kê 3.3.4.1 Thu thập số liệu môi trường nước ương Một số chỉ tiêu môi trường chính của bể ương ấu trùng được đo theo định kỳ như sau: Nhiệt độ: đo 2 lần/ngày lúc 6 giờ và 14 giờ, sử dụng nhiệt kế rượu. Độ mặn: đo 1 lần/ngày lúc 14 giờ, sử dụng máy đo độ mặn ATAGO S/MILL-E. pH : đo 2 lần/ngày lúc 6 giờ và 14 giờ, sử dụng TestKit. Đạm (Nitrite và N-NH3) : đo 1 tuần/lần vào lúc 6 giờ, sử dụng TestKit của Đức. 3.3.4.2 Phương pháp xác định các thông số kỹ thuật Tỉ lệ thành thục (%) = x 100 Trọng lượng trứng = Trọng lượng tôm mẹ trước khi sinh sản – Trọng lượng tôm mẹ sau khi sinh sản. Sức sinh sản thực tế = Tỉ lệ sống (%) = x 100 3.3.4.3 Phần mềm xử lý số liệu Tất cả các số liệu được xử lý dựa trên phần mềm MS Excel. PHẦN 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1 Nuôi vỗ thành thục tôm bố mẹ Bảng 4.1. Số lượng, mật độ và tỷ lệ thành thục của tôm bố mẹ Dòng tôm Giới tính Số lượng tôm bố mẹ (con) Mật độ nuôi vỗ (con/m2) Tỷ lệ thành thục (%) Đồng Nai Cái 353 2,2 25,5 Đực 376 2,9 21,6 Mêkông Cái 330 2,6 26,7 Đực 139 1,1 60,0 Malay Cái 293 2,3 24,6 Đực 190 2,0 45,8 Kết quả này cho thấy tôm con được nuôi trong giai có thể tăng trưởng thành tôm bố mẹ trong thời gian nuôi 3 tháng (tháng 11/2007 - 2/2008). Nuôi tôm đực và cái riêng trong các giai tạo môi trường thuận lợi cho tôm tăng trưởng nhanh, đạt kích cỡ tôm bố mẹ to khi thành thục, đồng thời tạo thế chủ động ghép cặp sinh sản giữa các dòng tôm khác nhau. Tuy nhiên đề tài không thể thu thập được số liệu về tỷ lệ sống của các dòng tôm. Với số lượng tôm bố mẹ khá lớn, dao động từ 139 - 376 con ở mỗi dòng (tôm đực) và từ 293 - 353 ở tôm cái, đề tài có thể chủ động số lượng lớn số cặp ghép, đảm bảo đủ số lượng cặp tôm đẻ là một thuận lợi rất lớn. Mật độ nuôi vỗ từ 1,1-2,9 con/m2 tạo điều kiện thuận lợi cho cho tôm thành thục tốt. Tỷ lệ thành thục của các dòng tôm dao động từ 21,6 - 60,0% ở con đực và 24,6 - 26,7 ở con cái là cao và cao hơn nhiều so với báo cáo của Nguyễn Thanh Phương và ctv (2003) là tỷ lệ tôm cái mang trứng chiếm không quá 10% tổng đàn tôm cái ở bất kỳ thời điểm nào. Tỷ lệ thành thục cao của tôm bố mẹ phụ thuộc vào thành phần thức ăn, chế độ cho ăn, nhất là bổ sung thức ăn tươi. Một điều dễ nhận thấy là mật độ nuôi vỗ càng thấp thì tỷ lệ thành thục càng cao ở tất cả các dòng tôm. Điển hình như ở mật độ 1,1 con/m2, tôm đực Mêkông thành thục rất tốt (60%), còn ở mật độ cao nhất (2,9 con/m2), tôm đực Đồng Nai thành thục kém nhất (21,6%). Tuy nhiên kết quả tôm bố mẹ thành thục được báo cáo ở đề tài này chỉ có giá trị tham khảo, vì số liệu chỉ dựa trên số lượng tôm bố mẹ thành thục tốt nhất được ghép cặp của mỗi đợt sinh sản, không thể thu thập được số liệu thành thục của tổng đàn tôm. 4.2 Ghép cặp cho sinh sản nhân tạo 4.2.1 Tỷ lệ tôm đẻ trứng của các dòng tôm càng xanh Bảng 4.2. Số lượng tôm ghép cặp và tỷ lệ đẻ của các nghiệm thức lai Nhóm Phép lai Số tôm ghép cặp (cặp) Số tôm đẻ trứng (con) Tỷ lệ đẻ (%) Thuần chủng ♀DN × ♂DN 28 18 64,3 ♀MK × ♂MK 28 19 67,9 ♀ML × ♂ML 21 16 76,2 Lai (cái x đực) ♀DN × ♂MK 31 19 61,3 ♀DN × ♂ML 31 12 38,7 ♀MK × ♂ML 28 16 57,1 ♀MK × ♂DN 32 15 46,9 ♀ML × ♂DN 21 9 42,9 ♀ML × ♂MK 23 14 58,3 Tổng cộng 9 243 138 56,8 Phép lai có tỷ lệ tôm đẻ trứng cao nhất là tôm cái Malay x tôm đực Malay (76,2%), phép lai có tỷ lệ tôm đẻ trứng thấp nhất là tôm cái Đồng Nai x tôm đực Malay (38,7%), các phép lai còn lại có tỷ lệ tôm đẻ trứng dao động từ 42,9 - 67,9%. Tỷ lệ tôm đẻ trứng như vậy là thấp so với mức độ chọn lựa tôm thành thục rất tốt ở cả cái và đực của các dòng. Theo New (2000), tỷ lệ tôm đẻ trứng phụ thuộc nhiều vào mức độ thành thục của tôm bố mẹ, mùa vụ sinh sản và tình trạng sức khỏe của tôm bố mẹ. Ở thí nghiệm này, chúng tôi chủ yếu tiến hành qua 2 đợt ghép cặp chính vào tháng 2 và tháng 3, tuy nhiên việc thao tác lựa tôm, vận chuyển tôm vào trong giỏ và việc kiểm tra tôm thường xuyên có thể làm cho tôm bị stress, làm ảnh hưởng đến tỷ lệ tôm đẻ trứng. Các phép lai thuần chủng đều cho kết quả là tỷ lệ đẻ trứng cao nhất Malay x Malay (76,2%), Mêkông x Mêkông (67,9%) và Đồng Nai x Đồng Nai (64,3%), điều đó cho thấy lai nội dòng thì kết quả đẻ trứng cao hơn lai khác dòng. Tuy nhiên đây chỉ là bước lai ban đầu, việc đánh giá cần được tiếp tục thực hiện ở nhiều thế hệ sau. 4.2.2 Sức sinh sản của tôm càng xanh theo nguồn gốc khác nhau Bảng 4.3. Sức sinh sản của các nghiệm thức lai Nghiệm thức (cái x đực) Trọng lượng tôm mẹ (gram) Trọng lượng trứng (gram) Số lượng ấu trùng (con) Sức sinh sản thực tế (con/gram) ♀DN × ♂DN 44,1 9,5 26.066 591 ♀MK × ♂MK 44,5 8,7 35.450 797 ♀ML × ♂ML 46

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnguyen_trung_ky_5125.doc