Đề tài Ảnh hưởng của công tác truyền thông đến việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình của người dân trung du miền núi

MỤC LỤC

MỤC LỤC . . . . 29

Phần 1: Mở đầu . . . . 1

1. Lý do chọn đề tài . . . . 1

2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn . . . 2

2.1. Ý nghĩa khoa học . . 2

2.2. Ý nghĩa thực tiễn . . 2

3. Mục đích nghiên cứu . . . 3

4. Đối tượng nghiên cứu, pham vi nghiên cứu, mẫu nghiên cưu . 3

4.1. Đối tượng nghiên cưu . . . 3

4.2. Phạm vi nghiên cứu . . . 3

4.3. Mẫu nghiên cứu . . . 3

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu . 3

5.1. Phương pháp luận . . 3

5.2. Phương pháp nghiên cứ . 4

6. Giả thiết nghiên cứu và khung lý thuy ết. . 4

6.1. Giả thuyết nghiên cứu. . . . 4

6.2. Khung lý thuy ết. . . . 5

Phần 2: Nội dung . . . . 6

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn . . . 6

1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu . . . 6

2. Khái niệm công cụ . . . 7

2.1. Khái niệm truyền thông dân số . . . 7

2.2. Khái niệm truyền thông đại chúng . . . 7

2.3. Khái niêm truy ền thông chính thức . . . 7

2.4. Khái niệm truyền thông không chính thức . . 7

2.5. Khái niệm dân số . . 8

2.6. Khái niệm kế hoạch hóa gia đình . . . 8

2.7. Khái niệm sức khỏe sinh sản . . . 8

Chương 2: Kết quả khảo sát . . . 9

1. Sơ lược địa bàn khảo sát . . . 9

2. Kết qủa khảo sát . 11

2.1. Thực trạnh công tác dân số kế hoạch hóa gia đình . . 11

2.1.1. Mong muốn có con trai chi phối mạnh . . 11

2.1.2. Hiểu biết và sử dụng các biện pháp tránh thai . 16

2.1.3. Độ tuổi kết hôn . . 17

2.2. Yếu tố truyền thông ảnh hưởng đến công tác dân số kế hoạch hóa gia đình. . 19

2.2.1. Truy ền thông chính thức . 20

2.2.1.1. Truy ền thông đ ại chúng . . . 20

2.2.1.2. Chính quy ền đoàn thể . . . 21

2.2.2. Truy ền thông không chính thức . . . 23

2.2.2.1. Gia đình . . . 23

2.2.2.2. Họ hàng và làng xóm . . . 24

3. Kết luận và kiến nghị . . . 26

3.1. Kết luận . . . . 26

3.2. Kiến nghị . . . . 27

pdf30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7592 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của công tác truyền thông đến việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình của người dân trung du miền núi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân, tổ chức tiêm phòng khám bệnh cho học sinh trong nhà trường đạt kết quả tốt. thực hiện tôt ba công trình vệ sinh. Trên 90% nhân dân được sử dụng nươc sạch. Ngoài cán bộ trạm, các khu còn có cộng tác viên y tế thôn, đội giúp cho trạm phát hiện kịp thời các dịch bệnh, không để lây lan ảnh hưởng đến đời sống sức khỏe cộng đồng. Về văn hóa xã hội: xã tiếp tục duy trì và thực hiện cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” vì vậy trong năm 2006 cả xã có 86,7% gia đình văn hóa. Đối với việc cưới hỏi, mừng thọ, tang lễ đều đúng quy định của địa phưong và pháp luật, không có hủ tục mê tín dị đoan. Về công tác truyền thông dân số thường xuyên được giữ vững, đảm bảo thông tin kịp thời đường lối chính sách của đảng và nhà nước,các quy định của địa phương, các sự kiện chính trị quan trọng. Năm 2006 đã phát hành 513 buổi và kẻ được 3 panô, căng 10 băng zôn tuyên truyền, 20 khẩu hiệu. Tuy nhiên do máy phát thanh của đài truyền thanh xã quá cũ, vật tư không đảm bảo hay bị hỏng nên công tác tuyên truyền có lúc bị gián đoạn, còn bị hạn chế về lượng phát thanh 2. Kết qủa khảo sát 2.1. Thực trạnh công tác dân số kế hoạch hóa gia đình 2.1.1. Mong muốn có con trai chi phối mạnh Xã Cổ Tiết có mật độ dân cư đông, đất rộng, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp là không có nghề phụ, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển mạnh. Trước sự phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của xã trong thời gian tới thì việc thực hiện dân số kế hoạch hóa gia đình góp phần tích cực vào việc thực hiện phát triển kinh tế- xã hội của xã. Trong những năm gần đây hoạt động truyền thông dân số được lãnh đạo đầu tư mạnh mẽ, hoạt động truyền thông dân số đã có sự kết hợp giữa bên thực hiện kế hoạch hóa gia đình với các tổ chức y tế, hội phụ nữ, giáo dục tham gia đắc lực, xã đã đầu tư vào việc nâng cao tri thức về dân số cho cán bộ thôn xóm, mỗi thôn có một cộng tác viên dân số và một y tế thôn thường xuyên được giáo dục nâng cao hiểu biết về dân số. Xã đã xúc tiến công tác vận động tuyên truyền nhận thức thực hiện trương trình dân số với nhiều biện pháp khác nhau như đình sản, thắt ống dân tinh với nam, đặt dụng cụ tử cung đối với nữ. Công tác tuyên truyền thực hiện kế hoạch hóa gia đình trở thành sâu rộng với mọi đối tượng, mọi lứa tuổi trong đó đặc biệt tập trung vào những cặp vợ chồng đang trong độ tuổi sinh đẻ. Vận động các thôn xóm, thành lập các tổ chức, các câu lạc bộ như các tổchức văn nghệ, hay những cuộc họp phụ nữ hàng tuần để tuyên truyền kiến thức về dân số kế hoạch hóa gia đình, cùng với nó là công tác truyền thông dân số trên ti vi, sách báo, đặc biệt là đài truyền thanh xã. Xã đã đưa ra hình thức phạt hành chính đối với gia đình nào sinh con thứ ba và có những phần thưởng khích lệ đối với gia đình có con em chăm ngoan học giòi. Do làm tốt công tác dân số và được sự quan tâm của ủy đảng và chính quyền, cùng với sự nỗ lực của cán bộ, cộng tác viên dân số kế hoạch hóa gia đình nên trong năm 2006 vừa qua ban dân số kế hoạch hóa gia đình đã đạt kết quả đáng khích lệ đó là ; Tỷ lệ sinh giảm xuống còn1,42%. Tỷ lệ sinh con thư 3 giảm . Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai cao hơn năm trước. Thông qua những biện pháp cụ thể trên nên địa phương đã làm cho trương trình dân số kế hoạch hóa gia đình ở đây đạt được nhưng kết quả đáng khích lệ, tỷ lệ sinh ngày càng giảm, tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai ngày phổ biến và rộng rãi hơn so với trước. điều này thể hiện rõ hơn qua thống kê sau. Bảng 1: Tỷ lệ sinh trong những năm gần đây của xã Cổ Tiết: Thờigian (năm) Tỷ lệ (%) 2000 2,3% 2001 2,01% 2002 1,87% 2003 1,87% 2004 1,58% 2005 1,55% 2006 1,42% (Nguồn : Thống kê của ban dân số kế hoạch hóa gia đình xã Cổ Tiết, huyện Tam Nông ) Thông kê trên về tỷ lệ sinh con trong những năm qua cho thấy, quan niệm sinh nhiều con đã ngày càng giảm đi, điều đó chứng tỏ nhận thức của nhân dân về vấn đề dân số ngày càng cao và co sự chuyển biến tích cực. Họ nhận thức được “đẻ con thì phải nuôi cho ăn học đàng hoàng, đẻ nhiều thì làm sao nuôi được, chỉ cần đứa trai đứa gái là đủ rồi, đẻ nhiều thì khổ lắm” và điều đó hầu như người dân nào cũng hiểu “ chỉ cần 2 đứa thôi. Có thể nói rằng nhận thức về hành vi sinh đẻ từ 1 -2 con ngày càng được nâng cao.Nhưng bên cạnh đó quan niêm cần có con trai không những nó còn tồn tại mà còn chi phối mạnh mẽ đến hành vi sinh đẻ của các cặp vợ chồng. Theo như số liệu thống kê của ủy ban dân số kế hoạch hóa gia đình của xã cho biết, trong năm 2003 có tới 11 trường hợp sinh con thứ ba trong năm 2005 là 9 trường hợp và năm 2006 là 7 trường hợp tập trung chủ yếu ở những gia đình sinh con một bề nhất là lại toàn con gái. Trong quá trình khảo sát thì tôi phát hiện có sự mẫu thuẫn giữa nhận thức và hành động thậm chí còn có sự pha lệch giữa nhận thức và hành động. tại sao người dân đều nhận thức được rằng “đẻ nhiều con thì khổ- chỉ 2 con là đủ” những lại có rất nhiều trường hợp sinh con thứ 3 ? chính vì vậy chúng tôi đã đặt ra câu hỏi “ mong muốn có con trai” và đã thu được kết quả sau: Bảng 2: Thăm dò mong muốn có con trai (%) Đối tượng Phương Án trả lời Giới Tuổi Nghề nghiệp Nam Nữ 20-29 30-35 36-45 46-50 >50 Thuần nông Phi nông Hỗn hợp Có 78,5 57,3 71,2 66,5 73,5 75,5 82,1 83,7 58,3 60,7 Không 21,5 42,7 28,8 33,5 26,5 24,5 17,9 16,3 41,7 39,3 Tổng 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 ( Nguồn: khảo sát xã hội học tại xã Cổ Tiết –Tam Nông ) Qua bảng số liệu trên cho thấy mong muốn có con trai để nối dõi tông đường đã ăn sâu trong nhận thức của người dân, và nó thể hiện dõ nhất ở những người trên 50 tuổi chiếm tới81,2% đây chính là do ảnh hưởng của phong tục tập quán cổ xưa đã ăn sâu trong nhận thức của những người cao tuổi “phải có đứa con trai để khi nằm xuống còn có người hương khói cho mình” và cũng có lẽ do trình độ văn hóa còn hạn chế ít được tiếp xúc với sách báo nên tư tưởng còn có nhiều lạc hậu. Mong muốn con trai ở lứa tuổi 29-29 là 71,2% và 30-45 là 66,5% , với sự tiếp cận tư tưởng mới ngày càng nhiều và được thường xuyên tiếp xúc với công tác dân số nên tư tưởng của họ có nhiều tiến bộ hơn và họ hiểu được rằng “chỉ nên và chỉ được đẻ từ 1-2 con” nhưng có lẽ chính từ việc họ hiểu được rằng chỉ được đẻ 2 con nên sự mong muốn có con trai càng mạnh mẽ hơn . Và có lẽ đây cũng chính là nguyên nhân giải thích vì sao mà giới trẻ nhận thức đầy đủ về kiến thức dân số mà tỷ lệ mong muốn có con trai lại chiếm tới 71,2% chỉ thấp hơn lứa tuổi36-45 có hơn 2% và thậm chí còn cao hơn 36-45 những 4,7% , và đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng có tới 9 trường hợp sinh con thứ 3 năm 2005 và 7 trường hợp năm 2006. Phải chăng đây chính là thiếu sót trong công tác dân số đẩy mạnh đến việc sinh đẻ có kế hoạch đẻ it, đẻ thưa mà không thực sự quan tâm đến vấn đề giới trong công tác dân số, chính sự thiếu sót ấy đã dẫn đến chuyện thương tâm “phụ nữ có 2 con gái và khi mang thai đứa thư ba đi siêu âm lại là gai đã cho đẻ non khi thai nhi được 7 tháng tuổi” ( pvs) hoặc có những trường hợp bỏ con bên lề đường chỉ vì là con gái. Điều đó đã khẳng định cho chúng ta một điều đó là quan niện cần có con trai nó không chỉ ăn sâu trong nhận thức của những người mà ta cho là cổ hủ lạc hậu mà nó còn chi phối khá mạnh mẽ đến hành vi của giới trẻ. Điều này đặt ra vấn đề là chúng ta phải có kế hoạch tổ chức vận động riêng đối với nội dung cụ thể, cho họ nhận thức dõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với con cai, với bản thân mình và đối với xã hội. Mong muốn có con trai ở mỗi một lứa tuổi khác nhau và nó cũng có sự khác nhau giữa nam và nữ. mong muốn có con trai của nam giới là 76,5% và nữ giới là 53,3 % điều đó cho thấy đã số những người đàn ông trong gia đình nào cũng mong muốn có con trai. Chúng ta biết rằng ở một nơi với tư cách là một cộng đồng làng xã , nơi lưu giữ những phong tục tập quán thì giá trị của đứa con trai được đề cao, bởi nó không chỉ là chỗ dựa về mặt tình cảm khi về già mà giá trị của đứa con trai càng tăng lên khi đặt nó trong quan hệ với họ hàng “ là trưởng họ thì bắt buộc phải có con trai,” hoặc “không có con trai thì mọi người kích bác là mình không biết đẻ” và “không có con trai thì phải ngồi mân dưới” có lẽ chính vì vậy nên dù họ có nhận thức được rằng pháp luận chỉ cho đẻ 1-2 con nhưng nếu có được con trai thi “bị phạt cũng chẳng sao” thậm chí có những trường hợp là đảng viên nhưng họ cũng “sẵn sàng chấp nhận khai trừ đảng để có được con trai”.Điều đó cho thấy gia trị của con trai rất lớn đối với một gia đình, nó thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với người dân nơi đây đặc biệt là những nguời nam giới. Và cũng chính vì vậy mà mong muốn có người con trai của nam giới đã trở thành một sức ép về con trai đối với phụ nữvà càng nặng nề hơn đối với người phụ nữ nào sinh con một bề. theo như số liệu khảo sát thì mong muốn có con trai của người phụ nữ là tương đối cao chiếm53,8%.Điều đó chúng ta cũng có thể hiểu rằng người đàm ông trong gia đình là người quyết định những công việc lớn nhỏ có thể nói anh ta là chủ trong một gia đình , vì vậy khi người chồng quyết định thì người vợ không thể từ chối. Một thực tế cho thấy khi người phụ nữ là dân trong một gia đình đặc biệt là dâu cả hoặc trưởng họ thì sức ép về việc sinh con trai là đăc biệt lớn. giới tính của đứa con đặc biệt là con trai góp phần trong việc khẳng định vị thế của người phụ nữ trong gia đình và họ tộc nhà chông và chỉ chừng nào sinh được con trai thì mới thực sự yên tâm, con không thì sẽ bị họ hàng nhà chồng coi thường, và một lý do quan trọng khác đó là sinh con trai mới có thể bảo vệ được hạnh phúc của gia đình nếu không “các ông xẽ đi tìm kiếm nơi khác” vì vậy mà khi chưa có con trai thì nhất thiết phải sinh cho tới khi có con trai. Đây chính là nguyên nhân vì sao trong năm qua có nhiều trường hợp sinh con thứ 3. Nghề nghiệp khác nhau , nên ý định sinh con trai cũng khác nhau. Đối với hộ thuần nông mong muốn có con trai là83,1% , đối với hộ phi nông nghiệp là 58,3% và hỗn hợp là65,%. Có thể thấy nghề nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến thái độ cũng như tới việc quyết định sinh đẻ của người dân. Sở dĩ mong muốn có con trai đối với những gia đình nông nghiệp lên tới83,15 là vì trong điều kiện canh tác lúa nước, sức lao động cơ bắp là chủ yếu và cũng chính từ nền kinh tế nông nghiệp ấy khiến họ quanh năm với đồng ruộng ít có cơ hội tiếp xúc với các phương tiện truyền thông nên quan niện của họ vẫn có nhiều cổ hủ và lạc hậu hơn đối với những gia đình phi nông và hỗn hợp. Qua phân tích trên cho thấy ở một cộng đồng làng xã nơi có những phong tục tập quán, trong đó có các chuẩn mực, quy mô gia đình, và nền kinh tế lúa nước thì giá trị của người con trai ngày càng được đề caovà nó còn ăn sâu vào trong nhận thức của người dân xã Cổ Tiết .Do đó trong chiến lược vận động dân sô và kế hoạch hóa gia đình ở khu vực nông thôn nói chung và xã Cổ Tiết nói riêng đang gặp phải nhiều khó khăn đáng kể và là một trong những cản trở lớn đối với việc thực hiện công tác dân số kế hoạch hóa gia đình. Địa phương cần có những chính sách, những biện pháp tuyên truyền thiết thực và mạnh mẽ hơn thì mới có thể loại trừ được tư tưởng trọng nam khinh nữ đã trở thành căn cố của người dân nơi đây. 2.1.2. Hiểu biết và sử dụng các biện pháp tránh thai Theo số liệu thống kê của ủy ban dân số xã cho biết, cả xã hiện có 1049 phụ nữ có chồng đang trong độ tuổi sinh đẻ ( từ 15-49) với số lượng người trong độ tuổi sinh đẻ đông như vậy nên hoạt động công tác dân số kế hoạch hóa gia đình có nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong việc vận động bà con sinh đẻ có kế hoạch và đặc biệt là vấn đề hỗ trợ chị em trong việc sử dụng các biện pháp tránh thai. Trong năm qua cả xã đã có 80 trường hợp sử dụng bao cao su tránh thai, 89 trường hợp đặt vòng, 75 trường hợp sử dụng thuốc tránh thai và 04 trường hợp đình sản. Điều đó cho thấy việc sử dụng các biện pháp tránh thai của chị em trong xã tương đối cao thậm chí còn vượt so với chỉ tiêu mà ban y tế xã đã đề ra . Để năm rõ hơn về vấn đề này tôi thực hiện khảo sát về việc sử dụng biện pháp tránh thai và đã thu được kết quả sau Bảng 3: việc sử dụng các biện pháp tránh thai của phụ nữ đang trong độ tuối sinh đẻ của xã Cổ Tiết. Biện pháp tránh thai Tỷ lệ % Dụng cụ tử cung 40,3 Thuốc uống tránh thai 13,5 Bao cao su 19,6 Triệt sản 3,2 Biện pháp khác 4,8 Không sử dụng 18,6 Từ bảng số liệu trên cho thấy những người trong độ tuổi sinh đẻ sử dụng những biện pháp tránh thai khác nhau, trong đó số người sử dụng vòng tránh thai là tương đối cao chiếm tới 40,3%, những biện pháp khác như bao cao su là 19,6%, thuốc tránh thai là 13,5% và các biện pháp khác như tính lịch hoặc xuất tinh ngoài là 4,8%. Trong nghiên cứu và phỏng vấn sâu được biết số người sử dụng biện pháp đặt vòng tránh thai ở đây cao là vì sử dụng biện pháp này thuận tiện sử dụng được lâu dài cho tới khi nào muốn sinh con thì đi tháo vòng, nhưng bên cạnh đó thì biện pháp này cũng có một số tác dụng phụ đó là thường gây chóng mặt, nhức đầu, đau lưng, và một số bệnh phụ khoa khác khiến cho nhiều chị em thiếu thiện cảm khi sử dụng biện pháp này .bên cạnh đó thì các dịch vụ kế hoạch hóa ngày nay càng được phát triển mạnh, các cơ sở y tế tư nhân hoạt động ngày càng tích cực hơn và chị em có nhu cầu tránh thai có thể dễ dàng tìm thấy trên thị trường hay các cơ sở y tế tư nhân những biện pháp mà mình mong muốn, chính vì vậy mà các biện pháp tránh thai như thuốc hoặc bao cao su cũng được sử dụng nhiều, nhưng đây chỉ là biện pháp nhất thời và cũng là nguyên nhân làm nảy sinh yếu tố có thai ngoài ý muốn.song có thể nói rằng đã có nhiều biến đổi đáng kể trong việc sử dụng biện pháp tránh thai, bên cạnh hình thức đặt vòng thì biện pháp tránh thai bằng bao cao su và thuốc tránh thai cũng được chị em tin tưởng và sử dụng nhiều, và nhu cầu về sử dụng các biện pháp tránh thai đã thực sự xuất hiện. Chúng ta biết rằng các biện pháp tránh thai là một yếu tố quyết định quan trọng cho sự thành công của công tác dân số kế hoạch hóa gia đình. Vì vậy mà việc cung cấp các biện pháp tránh thai cùng với sự tư vấn tốt giúp cho đối tượng sử dụng các biện pháp tránh thai phù hợp, giúp các cặp vợ chồng tự xác định số con và khoảng cách giữa các lần sinh. 2.1.3. Độ tuổi kết hôn Độ tuổi kết hôn cũng là một trong những nhân tố quan trọng trong công tác dân số kế hoạch hóa gia đình của xã. Trong những năm gần đây có nhiều ý kiến cho rằng độ tuổi kết hôn của những vùng nông thôn giảm đi do kết hôn sớm và có xu hướng tảo hôn. Trong quá trình thu thập thông tin và phỏng vấn sâu chúng tôi được biết, tình trạng kết hôn sớm chủ yếu do họ tìm hiểu yêu đương sớm, và đến khi đủ 18 tuổi thì họ đã sẵn sàng cho việc kết hôn.phỏng vấn sâu cho biết “ khi yêu thì dấu bố mẹ không ai biết là chúng yêu nhau, đến khi lỡ rồi thì mọi người mới biết, chỉ còn cách cưới cho chúng”. Điều đó cho thấy sự lơ là của bố mẹ và người thân trong gia đình trong việc quản lý con cái và nhận thức của trẻ cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng “chưa đến tuổi kết hôn mà đã làm mẹ” quá sớm. bên cạnh đó thì phong tục tập quán cũng ảnh hưởng mạnh đến độ tuổi kết hôn, qua nghiên cứu cho thấy những cô gái ở tuổi 20 mà chưa có ai để ý đã bắt đầu lo và ở lứa tuổi 21-22 mà chưa có người hỏi thì đã bị xếp vào diện quá lứa nhỡ thì thậm chí có cô mới chỉ học song phổ thông đã lo lấy chồng vì “sợ bố mẹ lo lắng”, con ở lứa tuổi 25 mà chưa có ai lấy thì coi như đã không còn cơ hội, khi được hỏi thì được biết “những ai đi học hoặc đi làm ăn ở ngoài thì còn lấy chồng lấy vợ ở tuổi 20-22, còn ai ở nhà thì đa số là lấy chồng lấy vợ sớm 17-18 là lấy rồi” thậm chí “có những cô gái mới 21 tuổi đã có 2 con”và “ ở nhà là ruộng thì lập gia đình sớm để có người làm, và để cho ổn định gia đình” và việc lấy vợ lấy chông sớm ở đây như trở thành phong trào. Khi hỏi về vấn đề này thì cán bộ tư pháp của xã cho biết “có những trường hợp đăng ký chưa đủ tuổi, không cho đắng ký thì họ vẫn tổ chức cưới mà không cần đăng ký” và “những người đủ tuổi đăng ký thì đa số ở độ tuổi 18-20” theo như báo cáo của ban tư pháp xã cho biêt trong năm qua có 45 trường hợp đăng ký kết hôn nhưng chỉ có 6-8 trường hợp là từ 22-24 tuổi, hoặc có những cặp chồng thì 24-25 tuổi nhưng vợ chỉ 17-18 thậm chí không đủ tuổi kết hôn. Như vậy có thể thấy xu hướng kết hôn ở độ tuổi 18-19 ở xã đã trở thành phổ biến mà nguyên nhân chính bắt nguồn từ yếu tố tâm lý. Mặc dù không vi phạm độ tuổi kết hôn nhưng nó đi ngược lại với cuộc vận động nâng cao độ tuổi kết hôn nhằm thực hiện có hiệu quả trương trình dân số kế hoạch hóa gia đình. Giải quyết được vấn đề tâm lý cho phụ nữ là góp phần thiết thực trong công tác dân số kế họach hóa gia đình. Bời vì nếu người phụ nữ kết hôn sớm sẽ kéo dài độ tuối sinh đẻ, nếu không sử dụng các biện pháp tránh thai có độ an toàn cao thì có nhiều nguy cơ sinh sinh con vượt kế hoạch. Song nếu chỉ tập trung nâng cao độ tuối kết hôn mà không gắn liền với kế hoạch hóa thì cũng xẽ không đem lại hiệu quả cao. Điều này đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các nội dung trong việc thực hiện công tác tuyên truyền dân số. và để thực hiện được điều này thì phải có sự tác động của công tác truyền thông, các kênh truyền thông khác nhau có mức độ ảnh hưởng đến từng đối tượng khác nhau, và để người dân có thể nhận thức và thay đổi được hành động của mình thì phải có thời gian không thể thực hiện được ngay trong một sớm một chiều. Qua thực trạng công tác dân số kế hoạch hóa gia đình của người dân xã Cổ Tiết có thể thấy, công tác dân số của xã đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ nhưng bên cạnh đó còn có nhiều hạn chế, có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng, tác động mạnh đến công tác dân sô của địa phương nhưng trong nghiên cứu này tôi tập chung làm rõ các yếu tố truyền thông nào đã tác động đến công tác dân số kế hoạch hóa gia đình của địa phương. 2.2. Yếu tố truyền thông ảnh hưởng đến công tác dân số kế hoạch hóa gia đình Trong thời đại ngày nay với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật trong các lĩnh vực như điện tử viễn thông thì vai trò của truyền thông ngày càng sáng giá vì nó thực sự đóng vai trò quan trọng trong mọi đời sống xã hội. Trong chiến lược truyền thông dân số ở nứơc ta thì vấn đề dân số và kế hoạch hóa là giải pháp trung tâm, và sự thành bại của giải pháp đó phải kể đến thái độ chấp nhận của nhóm dân cư trong xã hội. trong đó phải khẳng định vai trò của công tác truyền thông dân số Trong quá trình thực hiện khảo sát thì chúng tôi nhận thấy sự có mặt của hai yếu tố truyền thông tác động mạnh đến nhận thức và hành vi của địa phương.đó là kênh truyền thông chính thức và truyền thông không chính thức. Kênh truyền thông chính thức: như báo chí, phát thanh truyền hình, panô, áp phích, đặc biệt là đài phát thanh xã là một trong những phương tiện truyền thông quan trọng trong việc phổ biến kiến thứcdân số, và tuyên truyền các đường lối chính sách của đảng và nhà nước. Kênh truyền thông không chính thức: là những giao lưu xã hội, nằm ngoài những thiết chế chính sách như các quan hệ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp… 2.2.1. Truyền thông chính thức 2.2.1.1. Truyền thông đại chúng Xã Cổ Tiết là xã thuần nông nhưng trong những năm qua do được sự quan tâm của đảng ủy và chính quyền địa phương cùng với chính sách mở cửa của nhà nước ta, và do xã có địa hình giao thông thuận tiện nên các loại hình giao dịch hàng hóa thuận tiên, đời sống người dân ngày càng được cải thiện.trong năm qua thu nhập bình quân đầu người của xã là5.196.000đ/ người/năm, còn về đời sống tinh thần, thực tế cho thấy phần lớn các hộ gia đình có ti vi, và 25% hộ có video và trên 45% có đài các loại. tuy nhiên đó chỉ là cơ sở vật chất ban đầu, vấn đề là ở chỗ mức độ theo dõi thông tin đó như thế nào?qua khảo sát cho kết qủa như sau: Bảng 4: mức độ theo dõi thông tin. Phương án trả lời chung Thuần nông Phi nông Hỗn hợp Ti vi Có 74,5 72,8 82,5 74,2 không 25,5 27,2 17,5 25,8 Đọc sách báo Có 31,3 32 64,7 51.3 không 68,7 68 35,5 48,7 radio Có 35,4 21,5 17,6 14,1 không 64,6 78,5 82,4 85,9 Đài phát thanh Có 64,7 80.4 82,5 74,2 không 35,3 19,6 17,5 26,8 Qua khảo sát trên cho thấy, mức độ theo dõi các phương tiện truyền thông như ti vi, đài và phát thanh của xã chiếm ưu thê hơn hẳn so với sách báo. Điểu đó có thể hiểu sau một ngày làm việc vất vả thì phương tiện thư gian của nguời dân là xem ti vi hoặc nghe đài để nắm bắt thông tin, và đa số mọi người đều có tâm lý là ngại cầm đến sách vở, và một nguyên nhân nữa khiến người dân it tiếp cận được với công tác dân số qua sách báo là do không có sẵn, phải bỏ tiền ra mua hoặc phải mất thời gian đi mượn,và họ cũng “ không có thời gian ngồi đọc”, đó chính là nguyên nhân mà người dân nơi đây không thường xuyên tiếp xúc với báo chí. Thực tế cho thấy các phương tiện nghe nhìn được người dân theo dõi ở mức cao chiếm tới 74,5% và 64,7% đặc biệt là vô tuyến truyền hình đã có sức thu hút mạnh mẽ đối với người nông dân nơi đây. Nhưng ở mỗi nghề nghiệp khác nhau thì mức độ theo dõi thông tin khác nhau.và nếu xét theo nghề nghiệp thì những người những người trong nhóm thuần nông không theo dõi phương tiện truyền thông đại chúng cao hơn nhóm phi nông và hỗn hợp như: những người không theo dõi tivi nhóm thuần nông là27,2% ở phi nông là 17,5% và hỗn hợp là25,8% , đọc sách báo nhóm thuần nông là 68%, phi nông là 35,5%, và hỗn hợp là48,7%. Như vậy có thể thấy mức độ theo dõi thông tin của nhóm phi nông cao hơn hẳn so với nhóm hỗn hợp và thuần nông, điều này phản ánh nhu cầu nắm bắt thông tin của nhóm này cao hơn hẳn so với các nhóm khác, bên cạnh đó là do họ có điều kiện kinh tế tốt hơn và thời gian rảnh rỗi nhiều hơn so với các nhóm khác, và thực tế cho thấy số người đọc báo nghe đài thường tập trung vào những cán bộ viên chức, những người làm công tác chuyên môn Từ bảng số liệu trên ta thấy rõ được vai trò to lớn của kênh truyền thông đại chúng, đã phát huy được vai trò của mình trong công tác truyền thông góp phần to lớn về thay đổi nhận thức và hành vi của người dân trong việc chấp nhận sử dụng các biện pháp tránh thai và trong công tác truyển tải thông tin về vấn đề dân số kế hoạch hóa gia đình. Bên cạnh các kênh truyền thông đại chúng thì các kênh truyền thông trực tiếp từ chính quyền đoàn thể có vai trò to lớn trong công tác dân số, bởi vì kênh truyền thông trực tiếp này can thiệp mạnh mẽ vào đời sống của nhân dân, vào các quan vợ chồng, gia đình. 2.2.1.2. Chính quyền đoàn thể Trong công tác truyền thông thì chính quyền đoàn thể cóvai trò to lớn, mỗi tổ chức có chức năng khác nhau, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều chịu sự chỉ đạo của uỷ ban nhân dân xã và đều thực hiện một mục tiêu chung đó là phát triển xã hội. chính vì vậy khi có chủ trương chính sách từ trên đưa xuống xã thực hiện bằng việc giao nhiệm vụ cho các cơ quan các tổchức xã hội: Thực tiễn cho thấy khi có chính sách của trên đưa xuống thì các tổ chức xã hội và nghiệp vụ xã hội phát động tuyên truyền về công tác dân số hoặc đến từng hộ gia đình thuyết phục nhưng những hoạt động này không diễn ra thường xuyên mà chỉ theo đợt theo định kỳ. Đối với tổ chức y tế với chức năng của mình còn có nhiệm vụ là cung cấp tư liệu, các thông tin về dân số kế hoạch hóa gia đình cho cấp trên đồng thời phải cung cấp và sử lý các đối tượng đến thực hiện các biện pháp tránh thai như đặt vòng, cấp bao cao su, thuốc, hút và nạo phá thai… đồng thời phải hướng dẫn cũng như tư vấn các biện pháp tránh thai đó cho người dân. Đài phát thanh xã là một trong những phương tiện truyền thông quan trọng của xã trong công tác tuyên truyền kế hoạch hóa, và được phát vào hồi 5h30 đến 6h sáng và từ 5h đến 5h30 chiều, nhằm cung cấp những thông tin cho người dân, còn thông tin về kế hoạch hóa gia đình được phát theo định kỳ và trong khoảng thời gian ngắn như đặt vòng tiêm chủng, hoặc chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.ngoài việc phát thanh còn có những hoạt động tuyên truyền bằng khẩu hiệu, kẻ vẽ áp phích tuyên truyền.Bên cạnh đó xã còn có các biện pháp hành chính như là sự phạt đối với hộ gia đình nào sinh con thứ ba, nếu không xẽ không đăng ký khai sinh. Hoặc khai trừ ra khỏi tổ chức đảng(nếu là đảng viên) Như vậy có thể thấy hoạt động truyền thông dân số kế hoạch hóa gia đình ở đây cơ quan quyền lực địa phương giao cho mỗi tổ chức chức năng thực hiện nhiệm vụ cụ thể, mỗi tổ chức nghiệp vụ này hoạt động tương đối độc lập theo chức năng của mình nhưng đều có sự chỉ đạo tập trung của ủy ban nhân dân xã vì vậy thường có hoạt động phối hợp nhất định giữa các tổ chức đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfẢnh hưởng của công tác truyền thông đến việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình của người dân trung du miền núi (qua khảo sát xã hội học tại xã Cổ Tiết –.pdf
Tài liệu liên quan