Mục Lục
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1
PHẠM VI CHỌN ĐỀ TÀI: 1
NỘI DUNG 2
CHƯƠNG I: Tổng quan về khu vực Đông Nam Á 2
CHƯƠNG II: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến khu vực Đông Nam Á: 4
2.1.Tôn giáo: 4
2.1.1: Ấn Độ giáo 4
2.1.1. Phật Giáo: 6
2.2. Chữ viết- văn học: 9
2.3. Nghệ thuật kiến trúc: 13
2.3.1. Ăngkor Wat: 13
2.3.2 BOROBUDUR 14
2.3.3.Mỹ Sơn 17
2.3.4. Những kiến trúc gạch tiêu biểu: 18
4. Kiến trúc gạch của Chân Lạp 24
5. Kiến trúc gạch Chămpa 26
2.4.Lễ hội: 27
2.5.Ẩm thực: 32
2.6.KẾT LUẬN: 33
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 27668 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của văn hóa tôn giáo, chữ viết - văn học, nghệ thuật kiến trúc, lễ hội và ẩm thực Ấn Độ đến khu vực Đông Nam Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền Bắc tông thường linh thiêng, ồn ào, trọng tâm của người xuất gia đến chùa chiền ở Nam tông là sự hoà quyện giữa Đạo và Đời, sự nỗ lực của con người không phải là lễ bái mà là toạ thiền, suy tư về nguyên lý của Phật.
Phật giáo giữ một vai trò, vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Đông Nam á. ở một số nước như Lào, Thái, Myanma... người ta đều khẳng định Phật giáo đã có những đóng góp nhất định vào việc xây dựng một nền văn hoá thống nhất, trong nền văn hoá dân tộc đều mang màu sắc Phật giáo, Phật giáo gắn liền với Tổ quốc và Dân tộc.
Nhìn chung, Phật giáo ở Đông Nam á nằm trong một phức hợp văn hoá tôn giáo vừa khá đa dạng vừa hoà hợp vào nhau. Trong đó những tín ngưỡng dân gian chất phác tràn ngập vào trong kinh kệ thiêng liêng đến mức có thể che lấp hoặc giảm nhẹ tính chất tư biện, cao siêu của giáo lý. Phật giáo cũng không tồn tại một cách thuần khiết bởi nó thấm đượm những yếu tố của tín ngưỡng bản địa và tàn dư văn hoá của các tôn giáo vào trước nó. Sự đan xen hoà hợp dung nạp giữa của yếu tố văn hoá và tôn giáo trên đây đã tạo nên một gương mặt đặc biệt cho Phật giáo ở Đông Nam á. Cũng chính vì vậy Phật giáo tồn tại và phát triển, trở thành tôn giáo chính và có vai trò hết sức to lớn trong đời sống văn hoá, xã hội Đông Nam á.
2.2. Chữ viết- văn học:
Tiếng Sanskrit đã đóng một vai trò chuyển tải quan trọng của Ấn Độ giáo vào Đông Nam Á. Rồi từ đó người bản địa đã phát triển lên thành muôn vàn biểu hiện độc đáo, đặc biệt trong lĩnh vực nghệ thuật như tháp – tượng Champa, khu đền Angco… Ấn Độ giáo đã được gieo xuống một vùng phì nhiêu màu mỡ và đã đâm chồi nảy lộc, kết quả muôn hương muôn vị.
Khác với văn học các khu vực khác, văn học Đông Nam Á được “hòa tan” trong văn hóa, đan xen và “liên kết” với các loại hình nghệ thuật khác để thể hiện cảm xúc, tình cảm , tư tưởng của con người và xã hội. Đông Nam Á nằm giữa hai nền văn hóa lâu đời là Ấn Độ và Trung Quốc cho nên trong một chừng mực nào đó văn học trong dòng chảy văn hóa Đông Nam Á sẽ chịu những ảnh hưởng nhất định từ văn học - văn hóa Ấn Độ và Trung Quốc.
Điểm nổi bậc của văn hóa Đông Nam Á là sự phát triển xa xưa của nền văn minh nông nghiệp lúa nước. đây là nền tản, là cơ sở quy định sự phát triển văn hóa tinh thần, văn hóa vật chất, cơ cấu xã hội và đời sống tâm linh, tư duy triết lý của con người Đông Nam Á trong suốt quá trình vận động của xã hội Đông Nam Á từ xưa cho đến nay, trên cơ sở đó văn học dân gian nảy nở và phát triển. văn học dân gian được xem là ngọn nguồn của văn học dân tộc khu vực Đông Nam Á và đây cũng là lớp văn hóa bản địa trước khi Đông Nam Á chịu ảnh hưởng các nền văn hóa lớn từ bên ngoài.
Từ đầu công nguyên cho đến nay, Đông Nam Á là nơi tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của các nền văn hóa lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, Ả Rập, Ba Tư, Tây Âu. Người Ấn Độ đã thâm nhập vào Đông Nam Á, đem tới đây các tôn giáo và các loại hình văn hóa Ấn Độ, trong đó có văn học. các dân tộc Đông Nam Á đã tiếp thu một cách đầy sáng tạo các cốt cách đề tài, các phong cách nghệ thuật Ấn Độ và nhào luyện cùng với vốn văn hóa của mình rồi tạo nên những công trình kiến trúc đồ sộ như Borobudu, Angkor Vát, những áng văn học đậm đà tính chất dân gian lấy từ Jataka, Panchatantra, Ramayana, Mahabharata… những tác phẩm văn học cổ đại Ấn Độ khi vào Đông Nam Á gặp ngay đời sống dân gian vô cùng sống động ở vùng này nên chúng được dân gian hóa, được tái sinh trong dân gian, chúng làm giàu thêm cho kho tàng văn học vùng này. Có thể thấy các tác phẩm văn học Ấn Độ bằng con đường truyền miệng đã được dân gian hóa chính vì vậy mà các tác phẩm văn học Ấn Độ biến dạng đi mỗi nơi một khác chỉ còn lại cái gốc của Ấn Độ. Những tác phẩm ra đời ở các nước Đông Nam Á có gốc từ Ấn Độ trở thành sản phẩm mang tính bản địa. con đường bản địa hóa văn học Ấn Độ còn thông qua diễn xướng dân gian, thông qua sân khấu chuyên nghiệp ở các nước Đông Nam Á.
Nền văn minh nông nghiệp cùng với sự phát triển của văn học dân gian đã làm cho văn học thành văn của Đông Nam Á ra đời muộn. từ thế kỷ I đến thế kỷ X các nước Đông Nam Á chưa có chữ viết, trong khi đó Ấn Độ giáo và Phật giáo du nhập phổ biến ở các quốc gia Đông Nam Á. Tiếng Pali, Sanskrit, tiếng Hán không những đóng vai trò ngôn ngữ trong truyền giáo mà còn đóng vai trò ngôn ngữ văn học ở các quốc gia Đông Nam Á, trên cơ sở đó các quốc gia Đông Nam Á đã vay mượn trực tiếp chữ viết của Ấn Độ, Trung Quốc sau đó cư dân Đông Nam Á mới dựa trên những mẫu chữ đó để sáng tạo ra chữ viết riêng của mình. Thứ chữ viết này được chủ yếu sử dụng trong các quốc gia cổ đại ở Đông Nam Á. Thời kỳ đầu của văn học thành văn ( thế kỷ X – XIV )tiếng Pali, Sanskrit, Hán đóng vai trò ngôn ngữ văn học:
Thí dụ: văn học thế kỷ VII – XIII ở Mã Lai – Indonesia lấy Sanskrit làm ngôn ngữ thơ ca trong khi đó tiếng Mã Lai cổ, tiếng Java chỉ dùng trong công việc hành chính, trong sinh hoạt.
Văn học viết thế kỷ XIII – XVIII nói chung là văn học cung đình và ít nhiều nó vẫn còn ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc. Riêng Malaysia, Indonesia thời gian này văn học chịu ảnh hưởng của văn hóa Java và văn hóa hồi giáo của Ả Rập – Ba Tư. Còn Philippin chịu ảnh hưởng của văn học châu Âu.
Trong các quốc gia ở Đông Nam Á chỉ có Việt Nam là chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Trung Quốc do hoàn cảnh lịch sử quy định. Còn hầu hết các quốc gia khác đều chịu ảnh hưởng của văn học Ấn Độ.
Ở quần đảo Indonesia, Malaysia văn học cổ đại Ấn Độ đã du nhập vào đây từ rất sớm các tác phẩm sử thi Ramayana, Mahabharata thịnh hành và ngày càng lan rộng khắp quần đảo suốt thời kỳ cổ trung đại thông qua loại hình rối bóng Wayang.
Ở Campuchia và Champa văn hóa Ấn Độ vào tiểu khu vực này sớm và văn học Campuchia tiếp nhận vốn văn học Ấn Độ - Bà La Môn, từ thế kỷ XIV trở đi văn học Ấn Độ và Phật giáo chiếm ưu thế. Tiêu biểu cho nền văn học Campuchia là tác phẩm Riêmkê (IX – XIV) mang nhiều dấu ấn thời đại, đây là tác phẩm đầu tiên đặt ra vấn đề về thân phận người phụ nữ trong văn học Campuchia với hình tượng nhân vật Xêđa tượng trưng cho người phụ nữ Campuchia chung thủy, hết lòng yêu thương chồng con, cùng chồng gánh vác những việc khó khăn, không bị tình yêu, của cải, sức mạnh, quyền lực cám dỗ. Tuy lấy đề tài từ sử thi Ramayana và Ramayana thì thần linh hóa các nhân vật nhưng Riêmkê lại khác, họ đã kéo các nhân vật có nguồn gốc thần linh lại gần cuộc sống bình thường của người dân Campuchia bằng cách đưa tính nhân bản vào các nhân vật này: ghen tuông, mù quáng, cố chấp…đưa ra một kết cục bi thảm. nó diễn tả hậu quả của những sai lầm của con người và có tác dụng răn đe những người xem, người đọc. Ngoài ảnh hưởng của Ấn Độ văn học Campuchia còn tiếp thu một số ảnh hưởng của văn học Java, Mã lai.
Ở Myanmar, Thái Lan, Lào cũng chịu ảnh hưởng của văn học Ấn Độ song tiểu khu vực này tiếp nhận muộn hơn và nhiều khi tiếp nhận thông qua một quốc gia khác có nền văn học trở thành trung gian cho sự giao lưu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với một nền văn học khác, chẳng hạn như văn học lào chịu ảnh hưởng Ấn Độ thường được thông qua Thái Lan hoặc Khmer.
2.3. Nghệ thuật kiến trúc:
Cùng với văn hóa Trung Hoa, văn hóa Ấn Độ cũng có ảnh hưởng rất lớn tại Đông Nam Á như: tôn giáo,lễ hội,ẩm thực,... bên cạnh đó nghệ thuật kiến trúc là mảnh có sự ảnh hưởng rất nhiều từ Ấn độ. Sự ảnh hưởng này được thể hiện rõ trong các công trình có tính chất tôn giáo,có thể nói hầu hết các công trình ở Đông Nam Á không làm theo kiến trúc,thì cũng là để thờ một vị thần nào đó của Ấn Độ. Các mô típ điêu khắc,trang trí kiến trúc,chủ đề của các mảng phù điêu...nó được thể hiện nơi các công trình: Borubudur,Ăngkor Wat,Pagan... Tuy nhiên không thể nói các công trình kiến trúc Đông Nam Á đều sao chép hoàn toàn của kiến trúc Ấn Độ, nhưng kiến trúc Ấn Độ đã được đồng hóa và biến thành tài sản riêng của Đông Nam Á. Nhà nghiên cứu nghệ thuật nổi tiếng người Nga thề kỷ XIX – P.I.Busleev nói: “Tính dân tộc của mỗi dân tộc là một tương lai vĩ đại đã định sẵn cho họ rồi, thì bằng một sức mạnh đặc biệt, nó có thể đồng hóa tất cả những gì bên ngoài vào thành sở hữu của chính mình”.
2.3.1. Ăngkor Wat:
Của báu đặc sắc nhất trong kiến trúc Ấn Độ giáo trên thế giới lại không ở tại quốc gia ra đời đạo này, mà ở Campuchia. Đền Angkor ngự trị tại Campuchia được ví như cung điện của thiên đường, nơi linh hồn quốc vương thường ngao du. Theo tiếng Phạn Ăngkor Wat là kinh đô chùa
Đền Ăngkor Wat nằm nấp mình trong rừng sâu. Khu đền có chiều nam - bắc dài 1.400 m, và đông - tây 800 m với những sảnh hành lang dài hun hút. Một hào nước sâu và rộng chạy vòng bên ngoài, những khoảng trống mênh mông có hoa sen lấp đầy. Toàn bộ ngôi đền được làm từ các tảng đá xếp chồng lên nhau với dáng vẻ rất tự nhiên, ngay cả ở trên nóc vòm. Tất cả các họa tiết trang trí bằng đá như tượng Phật, vũ nữ, chiến binh và những hình hoa sen minh họa sử thi Ramayana và Mahabharata đều rất sống động, mềm mại. Hàng trăm nàng Apsara với thân hình tuyệt mỹ, những vẻ mặt, tư thế, động thái hình thể khác nhau múa trên khắp các bức trường.
Trang sức điêu khắc phong phú nhiều vẻ của đền Angkor cùng thiết kế cân xứng nghiêm ngặt của nó hình thành nên sự đối xứng. Trên điêu khắc đá miêu tả sinh động các cảnh trong sử thi Ấn Độ. Rất nhiều nam nữ thần linh vui đùa, nhảy múa trong tư thế chọc ghẹo. Trên phù điêu của hành lang cột dài mấy trăm thước thể hiện nhân vật có thật trong lịch sử Khmer. Hình tượng được yêu thích nhất và xuất hiện lặp đi lặp lại là nữ thần vũ đạo Khmer, Apsara.
2.3.2 BOROBUDUR
Vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, Phật giáo và Ấn Độ giáo bắt đầu du nhập vào Indonesia thông qua các cuộc giao thương và các nhà truyền đạo của hai giáo phái. Trên bốn thế kỷ sau, triết học và chữ viết của người Ấn độ cổ là Sancrit và Pali đã dần thẩm thấu bởi cư dân của Quần đảo Indo. Một văn bia còn được lưu giữ cho đến ngày nay được tạc vào khoảng thế kỷ thứ năm bởi Đức vua Purnawarman đã chứng nhận sự đồng hoá này. (Vua Purnawarman, triều đại Tarumanegara, vương quốc đầu tiên trên đảo Java)
Khuynh hướng này được những hành giã Đại thừa đón nhận trên bước đường hoằng pháp của mình, nó cũng tạo ra những cảm hứng nghệ thuật du nhập dần dần vào các nước ĐNA (Trong đó có Indonesia) và còn lưu lại những giá trị nghệ thuật cho đến ngày nay mà Borobudur là một chứng tích.
Việc xây dựng ngôi cổ tự được xác định vào khoảng niên đại 778 và 842 dưới triều đại Sailendra (Triều đại này trị vì suốt hai thế kỷ thứ 7-9 trên đảo Java). Lấy cảm hứng nghệ thuật từ sự ảnh hưởng văn hoá Ấn làm chất liệu cho công trình, các Kiến trúc sư Java đã khéo léo lồng ghép những ý tưởng mang tính triết lý về những “ cổ mộ” có từ truớc đến nay để hoàn thiện một quần thể chùa tháp vừa mang tính “ mộ” vừa có tính “ thiền” ở Borobudur.
Đây là một quần thể kiến trúc nham thạch có diện tích trên 55, 000 m2 nằm trên một đồi cao phỏng theo kiến trúc thời Gupta và sau Gupta (Hai triều đại này trị vì ở miền bắc Ấn từ năm 320-750 sau CN) với sáu tầng hình chử nhật chồng lên nhau, tiếp theo là ba tầng hình tròn, trên cùng là bửu tháp ở trung tâm và 1460 hoạ tiết đắp nổi, 1212 tấm hoa văn trang trí, quần thể này mang dáng dấp một hình khối kim tự tháp hay nói đứng hơn là hình tượng một hoa sen, biểu tượng thanh cao và giác ngộ của Phật giáo.
Vòng tường thành đầu tiên gồm sáu tầng dưới cùng hay “ Kamadhatu” tượng trưng cho “lục đạo” còn gọi là cõi dục giới (world of desire), miêu tả nỗi thống khổ của chúng sanh và vòng xoáy của nghiệp lực với 160 hoạ tiết khắc hoạ rõ hơn về định luật “ nhân-quả”. Vòng tường thànhg này bị chôn vùi phần nào bởi tác động của thời gian và những biến cố khác của lịch sử.
Vòng tường thành thứ hai gồm ba tầng hình tròn tiếp theo còn gọi là “Ruphadhatu” hay cõi “ sắc giới” (world of forms) là một chỉnh thể gồm nhiều bức phù điêu lấy cảm hứng theo các bản kinh Lalitavistara, Jataka-Awadana và Gandavyuha. Lalitavistara kể về cuộc đời của Đức Phật khi ngài còn là thái tử Tất Đạt Đa cho đến đêm giác ngộ. Jataka-Awadana mô tả về các tiền kiếp của Đức Phật với những hiện thân khi thì vua, khi thì một tu sĩ, một người nô lệ, hay là một con sư tử… Và Gandavyuha là câu chuyện của một hành giả tên là Sudhana trong nổ lực tìm cầu con đường giác ngộ.
Và bảo tháp trên cùng hay còn gọi là Aruphadhatu, có nghĩa là cõi “vô sắc giới” (world of formlesness) thì không có hoạ tiết hoa văn nào nổi bậc mà chỉ là một bảo tháp đường kính khoảng 15m, được bao chung quanh bởi 72 (có tư liệu lại nói là 92) bảo tháp nhỏ khác vừa là để thờ Phật vừa là nơi lưu giữ “ ngọc xá lợi” hay là không gian thờ tự các bậc công đức tiền nhân. Đây cũng là một một quần thể phức hợp hình khối mang cả hai tính vuông và tròn biểu trưng cho sự thanh cao và không nhiễm bụi trần. ( Có ý kiến cho rằng tổng hình khối Borobudur với tất cả 10 tầng tháp chồng lên nhau là biểu trưng cho “Thập địa Bồ tát” hay hạnh nguyện cứu độ nhân sinh “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật” của Bồ tát đạo. Theo thiển ý của chúng tôi thì đây là một khối hình học mang phong thái triết học Trung -Ấn rỏ nét. Phương đồ (Vòng tường thành bên dưới) là tượng trưng cho đất hay quẻ “Khôn” cũng có thể gọi là “tục đê” trong khi viên đồ lại tượng trưng cho Trời hay quẻ “Càn” hay có thể gọi là “chân đế” và bửu tháp trên cùng là đại diện của “ ngưòi quân tử” hay “hành giả chứng đạo” với phong thái hiên ngang thoát khỏi mọi ràng buộc của sinh tử, không vướng vào “tục” cũng không lụy vào “chân”, cho nên ở trên cùng người xưa đã thể hiện một hình khối mang cả hai tính “vuông” và “tròn” để nói lên ý niệm triết học của mô hình kiến trúc tổng thể này. Với kiến thức hạn lượng mà biển học thì vô cùng và tâm nguyện được mở rộng tầm hiểu biết, chúng tôi rất mong chư vị tôn đức và trí thức thiện tâm cùng góp ý chia sẻ để những giá trị kiến trúc Phật giáo này được lưu giữ muôn đời).
Ngày nay, khi hành hương đến Borobudur, người ta thường hay nghe kể những luận giãi khác nhau về tên gọi quần thể kiến trúc này; một số ngưòi cho rằng Boro có nghĩa là Đền hay Chùa, còn Budur là tên ngôi làng ở gần đó; cũng có giả thiết khác viện dẫn rằng tên của quần thể này có nguồn gốc từ tiếng Sankrit “Vihara Buddha Uhr” nghĩa là tu viện Phật giáo nằm trên đồi cao. Những câu chuyện này chỉ là giả thiết và hy vọng các chuyên gia trong lãnh vực khảo cổ sẽ quan tâm nghiên cứu quần thể này một cách nghiêm túc để có những xác minh khoa học đúng đắn về tên gọi cũng như là những vấn đề khác có liên quan.
2.3.3.Mỹ Sơn
Nghệ thuật và kiến trúc qua bố cục đền tháp mang ảnh hưởng lớn của phong cách Ấn Độ. Khu thánh địa có một tháp chính (kalan) và nhiều tháp phụ nhỏ bao bọc xung quanh. Các tháp đều có hình chóp, biểu tượng của đỉnh Meru thần thánh, nơi cư ngụ của các vị thần Hindu. Cổng tháp thường quay về phía đông để tiếp nhận ánh sáng Mặt Trời.Ở mỗi thời kỳ lịch sử, kiến trúc đền tháp Mỹ Sơn lại mang phong cách riêng, cũng như thờ những vị thần, những triều vua khác nhau, nhưng nhìn chung các tháp Chăm đều được xây dựng trên một mặt bằng tứ giác, chia làm 3 phần: đế tháp biểu hiện thế giới trần gian, vững chắc, thân tháp tượng hình của thế giới thần linh, kỳ bí mê hoặc, phần trên cùng là hình người dâng hoa trái theo nghi lễ hoặc hình cây lá, chim muông, voi, sư tử... gần gũi với tôn giáo và cuộc sống con người Nhiều tháp có kiến trúc rất đẹp với hình những vị thần được trang trí với nhiều loại hoa văn. Phần lớn những kiến trúc này hiện nay đã bị suy tàn, nhưng đây đó vẫn còn sót lại những mảng điêu khắc mang dấu ấn hoàng kim của các triều đại Chăm pa huyền thoại. Những đền thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một bộ linga hoặc hình tượng của thần Shiva - thần bảo hộ của các triều vua Chăm pa. Những người cầu nguyện thời trước thường đi vòng quanh tháp theo chiều kim đồng hồ trên một lối nhỏ
2.3.4. Những kiến trúc gạch tiêu biểu:
Kiến trúc gạchHYPERLINK "" ở các quốc gia cổ đại Đông Nam Á mHYPERLINK ""ười thế kỷ của thiên niên kỷ thứ nhất sau công nguyên là cả một thời kỳ chuyển tiếp và định hình văn hoá quan trọng đối với khu vực Đông Nam Á. Trên cơ sở những truyền thống của mình, tiếp thu những ảnh hưởng của Ấn Độ, các nền văn hoá của các quốc gia cổ đại hình thành và phát triển. Tuy ra đời có trước có sau hoặc tồn tại có ngắn, có dài khác nhau, nhưng các quốc gia cổ đại đã để lại cho nền văn hoá của các quốc gia thời trung đại sau đó và cho hôm nay nhiều di sản vật thể và phi vật thể quan trọng. Cũng từ Ấn Độ, các dạng kiến trúc của các công trình tôn giáo và những kỹ thuật xây dựng những công trình kiến trúc tôn giáo này cũng được du nhập vào Đông Nam Á. Thế nhưng hiện nay, chỉ những phế tích hay những công trình ít nhiều đã đổ nát là những bằng chứng làm nổi bật những nền kiến trúc tôn giáo cùng những kỹ thuật xây dựng chịu ảnh hưởng Ấn Độ ở các quốc gia, các đế chế cổ của khu vực Đông Nam Á. Một số những di tích cổ nhất hiện được biết cung cấp cho chúng ta những cứ liệu đầu tiên về kỹ thuật xây dựng gạch của các đền tháp tôn giáo Ấn Độ ở Đông Nam Á là những ngôi đền đổ nát đã được xây dựng bằng những vật liệu khác nhau. Những công trình cổ xưa nhất ở Đông Nam Á đó chính là các ngôi đền (prasat) được xây dựng bằng hỗn hợp cả gạch và đá của vương quốc Phù Nam và vương quốc Chân Lạp- những công trình kiến trúc "Ấn Độ hoá" sớm nhất ở Đông Nam Á lục địa.Các dấu tích ít ỏi còn lại cũng như những di tích đã được khai quật của nền kiến trúc Phù Nam cho thấy các công trình kiến trúc này chủ yếu được xây dựng bằng gạch, còn đá (với tỷ lệ rất ít)chỉ được dùng để thay vào những chỗ của những kết cấu vốn được làm bằng gỗ, như các bản lề cửa, các mộng và được làm rất chuẩn xác. Rõ ràng là, đã có cả một quá trình phát triển của kỹ thuật xây dựng các công trình tôn giáo bằng gạch của Phù Nam. Vì vậy, chỉ đến các kiến trúc tôn giáo Chân Lạp, chúng ta mới ít nhiều biết về kỹ thuật xây gạch cổ của Đông Nam Á lục địa. Điều đặc biệt là, những ngôi đền Khmer bằng gạch hiện còn cũng có niên đại cổ xưa như những ngôi đền Khmer bằng bằng đá. Những công trình kiến trúc tôn giáo Khmer cổ nhất là những ngôi đền được phát hiện ở Sambor Prei Kuk. Và có thể nói các công trình ở Sambor Prei Kuk cũng là một quần thể kiến trúc hiện còn có niên đại xưa nhất ở Đông Dương. Dù rằng các kiến trúc này được xây dựng hoàn toàn bằng gạch,nhưng các nhà nghiên cứu cũng không tìm ra được nhưng đặc điểm xây gạch của Chân Lạp thông qua các di tích này vì kỹ thuật xây gạch rất phức tạp và rất khó thấy sự đổi mới trong sự phát triển. Khó có thể khẳng định và chứng minh được trong kiến trúc gạch Chân Lạp công trình cổ nhất lại là công trình xây dựng có kỹ thuật kém hơn các côngt rình được xây dựng về sau. Do vậy các nhà nghiên cứu thường chỉ tìm hiểu kỹ thuật xây dựng gạch cụ thể ở từng di tích hay từng khu di tích. Theo các nhà nghiên cứu, tại Sambor Prei Kuk,giữa các viên gạch không có kẽ hở. Mỗi mặt của viên gạch đều làm trơn nhẵn rồi thử đi thử lại sao cho khớp với viên gạch kia rồi mới đặt chúng vào đúng vị trí. Còn tác nhân gắn kết hay vữa thì cho đến nay được biết, chính là vữa đất, kiểu vữa mà ở Ấn Độ thường dùng trong suốt thời trị vì của vua Asoka. Và chuẩn mực xây gạch này còn tiếp tục được duy trì lâu trong các công trình kiến trúc tôn giáo bằng gạch của người Khmer. Những cuộc khai quật ở Kedah trên bán đảo Malay đã khám phá ra những nền móng của một số cấu trúc gạch và cấu trúc đá ong. Các cấu trúc đá ong, tuy hoàn toàn bằng đá, vẫn để lộ ra dấu ấn kỹ thuật tương tự như kỹ thuật xây gạch. Một số nhà nghiên cứu đã cho thấy sự tương đồng của kỹ thuật xây dựng giữa Sumatra với một số dạng kiến trúc tôn giáo (vimana) ở miền Nam Ấn Độ.
Kiến trúc gạch của người Piu Mianma
Trước khi đến Miến Điện, tại Mianma đã từng tồn tại một số vương quốc cổ đại của người Piu và người Môn. những chủ nhân thời cổ này của Mianma đã để lại cho đất nước Mianma ngày nay không ít những công trình kiến trúc bằng gạch nổi tiếng. Một trong những đô thị lớn của người Piu để lại là đô thành Srishetra nằm trên bờ trái của sông Irawadi,cách Rangoon 180 dặm về phía tây bắc. Người sáng lập ra thành phố này, theo truyền thuyết là Duttabaung, người trị vì đất
nước của người Piu vào thời gian rất xa xưa,cách ngày nay chừng hai ngàn năm. Phần lớn những phế tích và di tích cổ đều nằm ở khu vực phía nam toà thành và ở bên ngoài tường thành.Trong số những công trình kiến trúc quan trọng còn lại của Srishetra, đáng kể nhất là 3 ngôi tháp Phật giá cao và có niên đại cổ nhất ở Mianma (thế kỷ V- VI) là tháp Bawbawgyi, tháp Payagyi và tháp Payama được xây quanh các bức tường thành. Cả 3 ngôi tháp đều có kêt cấu đơn giản:trên nền tròn có nhiều bậc giật cấp nhô lên khối thân lớn hình quả chuông cao lớn đang đội cái đỉnh hình lọng ô. Tháp Bawbawgyi cao tới gần 40 m có thân hình trụ cao lớn đứng trên nền
thấp hình tròn 5 bậc. Tháp có đỉnh hình nón và hiện nay đỉnh tháp mang một chiếc lọng ô của thời sau. Kiểu dáng của Bawbawgyi rõ ràng là có nguồn gốc trực tiếp từ các ngôi tháp hình bán cầu ở Sanchi và Amaravati của Ấn Độ. Tháp Bawbawgyi không phải là đặc hoàn toàn như cái dáng bên ngoài cho thấy, mà hai phần ba lòng tháp bên dưới rỗng và có mộ cửa mở vào trong lòng tháp.
Kiến trúc gạch của người Môn Dvaravati
Cùng với sự hình thành vương quốc Dvaravati cổ đại của người Môn ở miền trung Thái Lan, một phong cách nghệ thuật lớn ở khu vực Đông Nam Á ra đời-phong cách Dvaravati (thế kỷ VI- XI).
Hầu hết những tác phẩm điêu khắc và kiến trúc của Dvaravati, cũng như của Piu đều mang nội dung Phật giáo. Và cũng như người Piu và người Môn ở Mianma, người Môn Dvaravati xây dựng những công trình kiến trúc của mình chủ yếu bằng chất liệu gạch. Rất tiếc là phần lớn những công trình kiến trúc của Dvaravati đã bị đổ nát hay đã được người Thái sau này phục dựng lại theo mô hình của người Thái. Thế nhưng, qua các phế tích ở Pra Men và Chulapathon,các nhà nghiên cứu đã dựng lên được mô hình xưa của các công trình này. Theo các nhà nghiên cứu, Pra Men có cấu trúc nền móng và quy mô đồ sộ không khác gì ngôi đền Anada kỳ vĩ ở
Pagan mà người Miến đã xây dựng vào cuối thế kỷ XI theo phong cách của người Môn. Annada cao 52m, mỗi chiều rộng 88m, là kiến trúc có cấu trúc hai trục với cột trụ khổng lồ làm trục trung tâm như công trình Lemyetha của người Piu. Thế nhưng Annada trăm lần đẹp hơn vì các thành phần kiến trúc, đặc biệt là đỉnh mái hình tháp Shikhara, còn nguyên vẹn và thật sự hoàn hảo.Còn ngôi tháp Chulapathon thì lại là ngôi tháp vuông 5 tầng, cao 51m. Có thể nhận thấy Chulapathon là tiền thân của ngôi tháp Kukut sau này của người Môn ở Bắc Thái LanTrong số các kiến trúc Môn còn lại tại Thái Lan, tháp Kukut ở Lampun còn nguyên vẹn hơn cả.Xưa kia,tháp có tên là Mahabala do ông vua Môn ở Lampun xây dựng. Tháp Kukút có bình đồ vuông, gồm một nền hai bậc bằng đá ong và trên đó là khối kiến trúc 5 tầng bằng gạch cao 28m.Trên mặt của 5 tầng tháp đều có những khám lớn chứa tượng Phật đứng. Toàn bộ tháp Kukut được xây bằng gạch và được trát vôi vữa lên mặt tường. Sang thế kỷ XI, với cuộc tấn công của vua Khmer Suryvarman I vào Thủ đô Nakhon Pathom, nhà nước Dvaravati chấm dứt sự tồn tại gần 5 thế kỷ của mình. Thế nhưng, truyền thống và nghệ thuật kiến trúc của người Môn đã góp phần không nhỏ vào quá trình hình thành nền và nghệ thuật kiến trúc của người Thái sau này.
Kiến trúc gạch của Phù Nam.
Như ở các quốc gia cổ đại khác trong khu vực Đông Nam Á, trên vùng đất của nước Phù Nam xưa, những dấu tích kiến trúc còn lại của Phù Nam chủ yếu là các công trình kiến trúc tôn giáo.Từ những dấu tích còn lại, có thể thấy phần lớn các công trình kiến trúc tôn giáo của Phù Nam chủ yếu được làm bằng gỗ trên một nền gạch hoặc bằng gỗ kết hợp với những phiến đá mỏng được dùng để làm khung cửa ra vào và khung cửa sổ, dù rằng các giai đoạn lịch sử sau này,những công trình xây dựng lớn bằng gạch trở nên hiếm hoi, còn các công trình bằng đá thì hầu như không được biết đến. Dù xây dựng bất kỳ công trình tôn giáo lớn nhỏ nào, người Phù Nam cũng chỉ dùng gạch và đá. Và để xây dựng các công trình tôn giáo, người Phù Nam đã biết đến và sử dụng kỹ thuật xây "vòm giả". Để tạo ra vòm giả bao che cho một khoảng không bên trong nhất định nào đấy, những người thợ dùng cách ghép khoảng không nhỏ dần vào theo chiều cao bằng cách xây nhô dần đều vào phía trong từ các mặt tường đối diện cho đến khi cùng khép kín khoảng không gian bên trong đó ở chính tâm điểm và ở một độ cao nhất định. Với kỹ thuật vòm giả này, người thợ chỉ có thể che phủ cho một nội thất không lớn chứ kỹ thuật này không thể dùng để làm mái che cho những toà lâu đài, những phòng ốc rộng lớn. Để xây dựng các công trình có khoảng nội thất lớn này, người Phù Nam phải dùng đến gỗ. Mà điển hình cho hoạt động kiến trúc này là những toà nhà cột Mandapa phía trước các ngôi đền tháp thờ thần, phật. Bởi vậy, kiến trúc phổ biến của người Phù Nam là những ngôi đền tháp bằng gạch và đá chỉ có một gian nội thất thờ thầm nhỏ hẹp và tối, chỉ mở một cửa ra vào, không có cửa sổ chiếu sáng và thông gió. Để trang trí cho các kiến trúc tôn giáo của mình, những người thợ Phù Nam đã sử dụng các yếu tố trang trí sau: 1. mái nhiều lớp(hay tầng), 2: hoạ tiết Kudu trang trí trên các tầng trên của kiến trúc, 3: somasutra: ống máng dẫn nước thiêng từ trong đền thờ ra ngoài và thư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ảnh hưởng của văn hóa tôn giáo, chữ viết - văn học, nghệ thuật kiến trúc, lễ hội và ẩm thực Ấn Độ đến khu vực Đông Nam Á.doc