Đề tài Bàn về thuế giá trị gia tăng - Một số vấn đề đặt ra và giải pháp khắc phục

 

Lời nói đầu .1

Nội dung.3

I. Khái quát chung về thuế GTGT.3

 1. Thuế GTGT là gì?.3

 1.1. Đối tượng chịu thuế GTGT.3

1.2. Các văn bản pháp luật về thuế GTGT tại Việt Nam.5

1.3. Căn cứ và phương pháp tính thuế GTGT.5

2. Đăng kí kê khai nộp thuế, quyết toán thuế.8

2.1. Đăng kí nộp thuế.8

2.2. Kê khai thuế.8

2.3. Nộp thuế và quyết toán thuế.8

3. Vì sao lại sử dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu.8

II. Quá trình hạch toán kế toán thuế GTGT trong doanh nghiệp.11

1. Tài khoản sử dụng .11

2. Phương pháp hạch toán.12

A. Phương pháp hạch toán thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ.12

B. Phương pháp hạch toán thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp.17

3. Quá trình hạch toán.18

4. Sổ sách, báo cáo kế toán.19

4.1. Chế độ sổ sách kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp.19

4.2. Báo cáo tài chính.20

III. Những tác động tích cực và tiêu cực của thuế GTGT đối với nền kinh tế thị trường.20

1. Tác động tích cực.20

2. Tác động tiêu cực, những tồn tại cần khắc phục.23

3. Liên hệ với các nước trên thế giới.26

IV. Những kiến nghị và giải pháp cụ thể.28

1. Thống nhất 2 phương pháp tính thuế (trực tiếp và khấu trừ) thành một phương pháp chung áp dụng cho tất cả các đôi tượng.28

2. Chuyển 4 loại thuế suất còn lại 1- 2 loại thuế suất.28

3. Quản lý tốt việc sử dụng hoá đơn thuế của các doanh nghiệp.28

4. Quản lý tốt công tác thu thuế, hoàn thuế, quản lý hành chính về thuế.29

Kết luận.31

Tài liệu tham khảo.32

 

doc33 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1213 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bàn về thuế giá trị gia tăng - Một số vấn đề đặt ra và giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, một nhà kinh doanh, một doanh nghiệp khi xác định giá bán hàng hoá, dịch vụ, ngoài việc căn cứ vào quan hệ cung cầu trên thị trường, cần phải căn cứ vào chi phí mà họ đã bỏ ra để tạo thành hàng hoá, dịch vụ. Trên cơ sở chi phí đó và lợi nhuận dự tính đối với một đơn vị hàng hoá, dịch vụ, doanh nghiệp sẽ dự tính được giá bán chưa có thuế doanh thu. Đối với những hàng hoá, dịch vụ phải tính thuế doanh thu, doanh nghiệp sẽ căn cứ vào chính sách thuế của Nhà nuớc để tính thuế DT rồi cộng thêm thuế DT vào giá bán chưa có thuế DT để được giá bán có thuế DT. Bởi vậy, khi tính thuế doanh thu nộp cho Nhà nước theo công thức trên, doanh nghiệp bị lạm thu một phần thu nhập. Thuế doanh thu, vì thế, không chỉ mang tính chất gián thu mà còn mang tính chất trực thu. (Ví dụ, để tạo ra một đơn vị sản phẩm, một doanh nghiệp cần bỏ ra 7 đồng chi phí, lợi nhuận dự tính là 3 đồng. Giá bán chưa có thuế doanh thu là 10 đồng. Với thuế suất 10% thì giá bán có thuế doanh thu sẽ là: 10 + 10 x 10% = 1,1 đồng. Như vậy, đối với mỗi sản phẩm, thu nhập của doanh nghiệp bị lạm thu 0,1 đồng) Thuế GTGT được ban hành đã phần nào khắc phục nhược điểm trên của thuế doanh thu, tức là loại được phần đã bị tính thuế và trong công thức tính đã xác định lại doanh thu tính thuế (chỉ tính trên phần giá trị sản phẩm hoặc dịch vụ do đơn vị sản xuất kinh doanh mới tạo ra chưa bị tính thuế). Tuy nhiên điều nay mới chỉ hiện ở phương pháp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ (thuế GTGT đầu ra được tính trên cơ sở doanh thu chưa có thuế và thuế GTGT đầu vào tính trên chi phí mua hàng từ bên ngoài chưa có thuế GTGT). Ưu điểm thứ hai của thuế GTGT cũng xuất phát từ đặc điểm chỉ thu trên phần GTGT của nó. Do đặc điểm này đối với sản phẩm có chu trình sản xuất là (sản phẩm đến tay người tiêu dùng qua nhiều khâu sản xuất khác nhau) hay với chu trình sản xuất ngắn (sản phẩm chỉ cần qua một số ít khâu nhất định) số thuế GTGT phải nộp là như nhau. Chính vì vậy thuế GTGT sẽ là một nhân tố khuyến khích chuyên môn hoá và hiệp tác hoá. Một sản phẩm qua nhiều giai đoạn sản xuất, nếu chịu thuế doanh thu thì sẽ đội giá thành lên rất nhiều gây khó khăn cho việc tiêu thụ, điều này hạn chế việc phân công lao động. Chuyên môn hoá, hiệp tác hoá là xu hướng tất yếu khách quan trong quá trình sản xuất, làm năng suất chất lượng sản phẩm đi đôi với hạ giá thành. Đây là một ưu điểm có ý nghĩa to lớn của thuế GTGT trong việc tổ chức lại sản xuất theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Một ưu thế của thuế GTGT so với thuế doanh thu là khả năng kích thích mở rộng sản xuất trong nền kinh tế. Việc huy động vốn cho sản xuất gặp nhiều khó khăn, các tổ chức cá nhân ngần ngại bỏ vốn ra kinh doanh một phần là do tâm lý sợ vẫn bị tính thuế doanh thu mặc dù sản xuất kinh doanh chưa có lãi hoặc ít lãi, thuế doanh thu như vậy đã làm triệt tiêu động lực này. Thuế GTGT chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm tạo tâm lý yên tâm cho tổ chức, cá nhân mạnh dạn bỏ vốn kinh doanh, điều này phù hợp với định hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và phát huy nội lực của nền kinh tế. Hơn nữa, áp dụng VAT đã giảm bớt các mức thuế suất chỉ có 4 mức (0%, 5%, 10%, 20%) thay cho 11 mức thuế suất thuế doanh thu dao động từ (0%, 0,5% ... 30%). Nói tóm lại, thuế GTGT có nhiều ưu điểm hơn hẳn so với thuế doanh thu. Việc áp dụng loại thuế mới này thể hiện sự đổi mới tư duy kịp thời, sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực kinh tế. ii. Quá trình hạch toán kế toán VAT trong doanh nghiệp. 1. Tài khoản sử dụng: TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ TK 1331 - Thuế GTGT được khấu trừ của hàng hoá, dịch vụ TK 1332 - Thuế GTGT được khấu trừ của TSCĐ TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp TK 33311 - Thuế GTGT đầu ra TK 33312 - Thuế GTGT hàng nhập khẩu. Kết cấu: TK 133 TK 3331 - Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. - Số thuế GTGT đã được khấu trừ. - Kết chuyển số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ. - Thuế GTGT đầu vào của HH dã mua bị trả lại, được giảm giá. - Số thuế GTGT đầu vào được hoàn lại. - Số thuế GTGT đã được KT trong kỳ. - Số thuế được giảm trừ vào số thuế phải nộp. - Số thuế GTGT đã nộp vào NSNN. - Số thuế GTGT của hàng bán bị trả lại, giảm giá. - Số thuế GTGT đầu ra phải nộp. Dư: - Số thuế GTGT đầu vào còn được khấu trừ. - Số thuế GTGT đầu vào được hoàn lại nhưng NSNN chưa hoàn trả. Dư (nếu có): - Số thuế đã nộp lớn hơn số thuế phải nộp cho NN. - Số thuế đã nộp được xét miễn, giảm nhưng chưa thực hiện việc thoái thu. Dư: - Số thuế còn phải nộp vào NSNN. 2. Phương pháp hạch toán: A. Phương pháp hạch toán thuế VAT theo phương pháp khấu trừ. a) Hạch toán thuế VAT đầu vào được khấu trừ. + Trường hợp mua vật tư, hàng hoá, TSCĐ, dịch vụ dùng cho hoạt động SXKD: Nợ TK 151, 152, 153, 156, 211, 213, 611,... giá mua chưa có thuế. Nợ TK 133: thuế VAT đầu vào được khấu trừ. Có các TK 111, 112, 331, 311,... tổng giá thanh toán phải trả cho người bán, người mua. + Trường hợp mua vật tư, dịch vụ dùng ngay vào SXKD. Nợ TK 621, 623, 627, 641, 642, 241, 142,... giá mua chưa thuế Nợ TK 133: thuế VAT đầu vào được khấu trừ. Có các TK 111,112,331,341,... tổng giá thanh toán. + Khi mua hàng giao bán ngay cho khách hàng không qua kho: Nợ TK 632: giá vốn hàng bán (Giá mua chưa có thuế GTGT) Nợ TK 133: thuế GTGT được khấu trừ Có TK 111, 112, 331,... tổng giá thanh toán. + Trường hợp mua hàng nhập khẩu dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc diện chịu thuế: Nợ TK 133: thuế VAT được khấu trừ. Có TK 33312: thuế VAT hàng nhập khẩu. + Trường hợp mua vật tư, dịch vụ sử dụng cho sản xuất các mặt hàng chịu thuế VAT và các mặt hàng không thuộc diện chịu thuế VAT thì phải hạch toán riêng số dùng để sản xuất các mặt hàng chịu thuế VAT. Đối với thuế VAT đầu vào của số vật tư, địch vụ dùng để sản xuất các mặt hàng không thuộc diện chịu thuế VAT được tính vào giá trị vật tư, dịch vụ mua ngoài hoặc đối tượng có liên quan. Trường hợp không tách được thì toàn bộ số VAT đầu vào được tập hợp hết vào tài khoản 133. Cuối kỳ, phải phân bổ cho từng đối tượng dựa vào doanh thu từng loại. Nợ TK 152,153,156,611,627,641,642,...giá mua chưa có thuế. Nợ TK 133: thuế VAT đầu vào được khấu trừ. Có TK 331,111,112,311,... tổng giá thanh toán phải trả cho người bán, người cung cấp. + Trường hợp hàng đã mua đã trả lại hoặc được giảm giá thuộc đối tượng chịu thuế GTGT: Nợ TK 111, 112, 331,... tổng giá thanh toán. Có TK 133 thuế GTGT đầu vào của hàng mua bị trả lại hoặc được giảm giá. Có TK 152, 153, 156, 211,... giá mua chưa có thuế VAT. b) Hạch toán thuế VAT đầu ra. + Phản ánh thuế VAT phải nộp khi tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá: Nợ TK 111,112,131,...tổng giá thanh toán. Có TK 333: thuế VAT phải nộp Có TK 511: doanh thu bán hàng. +Trường hợp sử dụng các chứng từ đặc thù cho phép hoặc trực tiếp bán lẻ hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng không thuộc diện phải lập hoá đơn bán hàng, kế toán phải căn cứ vào tổng giá thanh toán gi trên chứng từ để xác định giá bán chưa thuế, số thuế VAT phải nộp để ghi sổ. + Trường hợp cung cấp dịch vụ thu tiền trước: Kế toán phải ghi nhận doanh thu là toàn bộ số tiền thu được chưa có thuế VAT và phnr ánh thuế VAT phải nộp. Nợ TK 111,112... tổng số tiền nhận trước. Có TK 33311: thuế VAT phải nộp. Có TK 3387: doanh thu nhận trước (chưa có thuế VAT) + Trường hợp bán hàng theo phương thức trả góp, kế toán xác định doanh thu bán hàng là giá bán trả một lần chưa có thuế VAT và phản ánh thuế VAT: Nợ TK 111, 112, 131,... tổng giá phải thanh toán. Có TK 33311: thuế GTGT phải nộp. Có TK 511: doanh thu bán hàng ( giá bán trả một lần chưa có thuế VAT) Có TK 711: lãi trả chậm. + Trường hợp bán hàng theo phương thức hàng đổi hàng: - Khi đưa hàng đi đổi: Nợ TK 131: Phải thu của khách hàng. Có TK 511: Giá bán chưa có thuế GTGT Có TK 33311: thuế GTGT của hàng đưa đi đổi. - Khi nhận hàng hoá đổi về: Nợ TK 151, 152, 152, 156,... giá mua chưa có thuế Nợ TK 133: thuế GTGT của hàng đổi về. Có TK 131: Phải thu của khách hàng. + Trường hợp đem sản phẩm, hàng hoá thuộc diện chiu thuế đi biếu tặng hoặc sử dụng nội bộ: Nợ TK 627, 641, 642: giá bán chưa có thuế VAT Nợ TK 133: thuế VAT được khấu trừ. Có TK 3331: thuế VAT phải nộp. Có TK 512: giá bán chưa có thuế VAT. + Trường hợp trả lương cho công nhân viên bằng sản phẩm, hàng hoá: Nợ TK 334: tổng giá thanh toán. Có TK 33311: thuế VAT phải nộp. Có TK 512: doanh thu bán hàng nội bộ + Trường hợp hàng bán bị trả lại: Nợ TK 531: giá bán chưa có thuế VAT. Nợ TK 33311: thuế VAT của hàng bán bị trả lại. Có TK 111, 112, 131,... tổng giá thanh toán + Trường hợp phát sinh các khoản thu nhập từ hoạt động tài chính và hoạt động bất thường, kế toán ghi: Nợ TK 111,112,131: tổng giá thanh toán. Có TK 3331: thuế VAT phải nộp. Có TK 711: thu nhập hoạt động tài chính chưa có thuế VAT. Có TK 721: thu nhập hoạt động bất thường chưa có thuế VAT. c) Hạch toán thuế VAT được khấu trừ, thuế VAT phải nộp, đã nộp và thuế VAT đầu vào không được khấu trừ. Thuế VAT đầu vào được khấu trừ của hàng hoá, dịch vụ phát sinh tháng nào thì được kê khai khấu trừ khi xác định số thuế VAT phải nộp của tháng đó, không phân biệt đã xuất dùng hay còn trong kho. Nếu số thuế VAT đầu vào được khấu trừ trong tháng lớn hơn số thuế VAT đầu ra phải nộp của tháng đó thì chỉ khấu trừ đúng bằng số phải nộp, số còn lại được khấu trừ tiếp vào tháng sau hoặc được xét hoàn thuế theo chế độ quy định. Trường hợp thuế VAT đầu vào vừa sử dụng cho sản xuất kinh doanh các đối tượng chịu thuế VAT vừa cho các đối tượng không chịu thuế VAT mà không tách riêng ra được thì phải phân bổ cho từng loại theo doanh thu bán hàng trong kỳ của hai loại. Số thuế VAT phân bổ cho các đối tượng không chịu thuế VAT sẽ được tính vào giá vốn của hàng bán ra. Trong trường hợp số thuế này quá lớn thì số vượt doanh số sẽ được tính vào các kỳ tiếp theo. Đối với thuế VAT đầu vào của tài sản cố định cũng được khấu trừ vào số thuế VAT phải nộp trong tháng của hàng hoá, dịch vụ. Trường hợp số thuế VAT đầu vào của tài sản cố định quá lớn, doanh nghiệp sẽ được khấu trừ dần. Nếu đã khấu trừ dần trong ba tháng liên tục mà số thuế VAT được khấu trừ vẫn còn thì doanh nghiệp làm thủ tục yêu cầu cơ quan thuế hoàn lại số thuế VAT chưa được khấu trừ theo quy định của luật thuế VAT. + Trường hợp số thuế VAT đầu vào được khấu trừ nhỏ hơn số thuế VAT phải nộp: - Kết chuyển toàn bộ số thuế VAT được khấu trừ trong tháng. Nợ TK 3331 Có TK 133 - Phản ánh số thuế VAT đã nộp trong kỳ: Nợ TK 3331: số thuế VAT đã nộp. Có TK 111,112, 311... + Trường hợp số thuế VAT đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế VAT phải nộp thì kết chuyển đúng bằng số phải nộp. Nợ TK 3331 Có TK 133 + Trường hợp thuế VAT vừa phân bổ cho đối tượng chịu thuế VAT vừa phân bổ cho các đối tượng không chịu thuế VAT: Nợ TK 3331: kết chuyển số thuế VAT được khấu trừ. Nợ TK 632: kết chuyển thuế VAT không được khấu trừ Nợ TK 142: kết chuyễn số thuế VAT không được khấu trừ. Có TK 133: kết chuyển thuế VAT đầu vào. Sang tháng sau, số thuế VAT không được khấu trừ đã kết chuyển vào tài khoản 1421 sẽ được trừ tiếp tục vào giá vốn hàng bán. + Trường hợp được hoàn lại thuế VAT: Nợ TK 111,112: số đã nhận. Có TK 113: số đầu vào được hoàn lại. Có TK 3331: số nộp thừa được hoàn lại. + Trường hợp được giảm thuế: Nợ TK 3331: Trừ vào số phải nộp. Nợ TK 111,112: số được giảm trừ. Có TK 721: số thuế VAT được giảm trừ. B. Phương pháp hạch toán thuế VAT theo phương pháp trực tiếp. + Trường hợp mua vật tư, hàng hoá, dịch vụ, TSCĐ dùng cho hoạt động SXKD không thuộc diện chịu thuế VAT hay thuộc diện chịu thuế VAT theo phương pháp trực tiếp hoặc dùng vào hoạt động phúc lợi, sự nghiệp, dự án, phúc lợi công cộng...: Nợ TK 151, 152, 153, 156, 211... tổng giá thanh toán. Có TK 111, 112, 331,... tổng giá thanh toán. + Trường hợp mua hàng nhập khẩu dùng cho hoạt động SXKD không thuộc diện chịu thuế VAT hay thuộc diện chịu thuế VAT theo phương pháp trực tiếp hoặc dùng vào hoạt động phúc lợi, sự nghiệp, dự án, phúc lợi công cộng.... thì thuế VAT của hàng nhập khẩu phải nộp được tính vào trị giá hàng mua: Nợ TK 151,152,153,156,211,... giá có thuế VAT và thuế NK. Có TK 333 (33312): thuế VAT hàng nhập khẩu. Có TK 3333: thuế nhập khẩu. Có TK 111,112,331: giá mua hàng nhập khẩu. + Khi bán sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ: Nợ các TK 111, 112, 131,... tổng giá thanh toán có thuế Có TK 511: tổng giá thanh toán có thuế. + Trường hợp biếu tặng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ thuộc diên không chịu thuế, chịu thuế VAT theo phuơng pháp trực tiếp, hoặc được trang trải bằng quỹ phúc lợi hay nguồn kinh phí khác: Nợ TK 641, 642, 431,... tổng giá thanh toán. Có TK 33311: thuế VAT phải nộp. Có TK 512: giá bán chưa có thuế VAT + Phản ánh số thuế VAT phải nộp của hoạt động sản xuất kinh doanh: Nợ TK 6425 Có TK 3331 + Phản ánh thuế VAT phải nộp của hoạt động tài chính và hoạt động bất thường: Nợ TK 811,821 Có TK 3331 + Phản ánh số thuế VAT đã nộp: Nợ TK 3331 Có TK 111,112,331. 3. Quá trình hạch toán: Doanh nghiệp căn cứ vào các tình huống cụ thể và các phát sinh trong kỳ để phản ánh chính xác, chi tiết vào các TK có liên quan (xem hướng dẫn TT số 100 - 1998/TT - BTC) Quá trình hạch toán có thể được khái quát hoá bằng 2 sơ đồ ứng với 2 phương pháp tính VAT như sau: Sơ đồ hạch toán kế toán VAT theo phương pháp trực tiếp TK 111,112,331 TK 111,112,131 TK 152,156,211 TK 154,632 TK 911 TK 511 TK 133 TK 642.5 (1) (2) (4) (3) Giải thích: (1). Giá trị vật tư hàng hoá thực thế nhập kho có VAT đầu vào (2). Doanh thu bán hàng, dịch vụ có VAT phải nộp. (3). VAT phải nộp NSNN (4). Nộp VAT vào NSNN. Sơ đồ hạch toán VAT theo phương pháp khấu trừ TK 111,112,331 TK 111,112,131 TK 152,156,211 TK 154,632 TK 911 TK 511 TK 133 TK 3331 (1) (4) (2) (6) TK 111,112 (5) (7) (3) Giải thích: (1). Giá trị vật tư, hàng hoá, TSCĐ nhập kho theo giá thực tế chưa có VAT đầu vào. (2). VAT đầu vào được khấu trừ (3). VAT hàng nhập khẩu được khấu trừ và phải nộp NSNN (4). Doanh thu bán hàng chưa có VAT (5). VAT phải nộp. (6). VAT đầu vào được khấu trừ với VAT phải nộp. (7). Nộp VAT vào NSNN. 4. Sổ sách, báo cáo kế toán: 4.1. Chế độ sổ sách kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp: Được thực hiện theo chế độ Kế toán Doanh nghiệp ban hành theo Quyết định số 1141TC /QĐ /CĐKT ngày 01 tháng 11 năm 1995 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, và có bổ sung ba mẫu sổ sau đây: + Sổ theo dõi GTGT + Sổ chi tiết thuế GTGT được hoàn lại. + Sổ chi tiết thuế GTGT được miễn giảm. 4.2. Báo cáo tài chính: w Bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán có bổ sung thêm chỉ tiêu có mã số 133 "Thuế GTGT được khấu trừ " dùng để phản ánh số thuế GTGT còn được khấu trừ và số thuế GTGT được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận hoàn lại nhưng đến cuối kỳ kế toán NSNN chưa hoàn trả. w Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh : - Phần I - Lãi, lỗ: Phản ánh tình hình kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Phần II - Tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. - Phần III - Thuế GTGT được khấu trừ, thuế GTGT được hoàn lại, được miễn giảm. III. Những tác động tích cực và tiêu cực của thuế GTGT đối với nền kinh tế thị trường. 1. Tác động tích cực. Qua gần 4 năm thực hiện Luật thuế GTGT và các Luật thuế mới cho thây: sản xuất kinh doanh vẫn ổn định và phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1999 là 4,7%; năm 2000 là 6,7%. Luật thuế GTGT phát huy được một số mặt tích cực sau: Một là: Thuế GTGT khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh do thuế GTGT thu không trùng lắp và do nhà đầu tư được hoàn thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư, nói cách khác thuế GTGT không đánh vào vốn đầu tư như thuế doanh thu trước đây. Tổng vốn đàu tư xã hội năm 1999 so với năm 1998 là 114,1%; năm 2000 so với năm 1999 là 111,8%. Hai là: Thuế GTGT mang tính trung lập đối với các nghiệp vụ dịch chuyển sản phẩm và dịch vụ: Trong thuế doanh thu, người ta có khuynh hướng tối thiểu hoá số tiền thuế phải nộp bằng cách hội nhập các xí nghiệp theo chiều dọc (Ví dụ XN sợi kết hợp với XN dệt, XN may) nhằm một mục đích không làm phát sinh doanh thu khi chuyển sản phẩm từ khâu trước sang khâu sau. Rõ ràng, cơ chế thu thuế doanh thu không hề mang tính trung lập. Thuế GTGT không hề khuyến khích các doanh nghiệp hội nhập như trên, bởi các doanh nghiệp trong trường hợp hội nhập hay không hội nhập thì tổng số thuế phải nộp là như nhau. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng thuế GTGT là loại thuế mang tính trung lập. Ba là: Thuế GTGT khuyến khích mạnh đối với xuất khẩu: Vì hàng hoá xuất khẩu được áp dụng mức thuế 0% nên được hưởng lợi thế khấu trừ thuế VAT đầu vào, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hạ giá thành hàng xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh quốc tế. Kim ngạch xuất khẩu năm 1999 so với năm 1998 đạt 123,18% và 10 tháng năm 2000 so với 10 tháng năm 1999 đạt 126,4%. Bốn là: Thuế GTGT tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thât thu thuế đạt hiệu quả cao: Việc khấu trừ thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã buộc người mua phải đòi hỏi người bán xuất hoá đơn, ghi đúng doanh thu với giá trị thực của hoạt động mua bán, khắc phục được tình trạng thông đồng giữa người mua và người bán để trốn lậu thuế, đồng thời cũng hạn chế được những sai sót trong chế độ ghi chép hoá đơn chứng từ. Hơn nữa, thuế GTGT thu tập trung ngay ở khâu đầu tiên là khâu sản xuất hoặc nhập khẩu hàng hoá và thu ở mỗi khâu đều có thể kiểm tra được việc thu nộp thuế ở khâu trước, cho nên nó hạn chế được thất thu hơn so với thuế doanh thu. Năm là: Khi được triển khai áp dụng, Luật thuế GTGT bước đầu tác động đến công tác quản lý của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho cá cơ quan quản lý nhà nước tăng cường việc kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Thuế GTGT góp phần tăng cường công tác hạch toán kế toán, thúc đẩy việc mua bán hàng hoá phải có đầy đủ chứng từ hợp lệ theo luật định. Việc đơn vị kinh doanh tự kê khai, tính thuế giúp cho cán bộ thuế có điều kiện tập trung thời gian, công sức vào việc kiểm tra, xử lý các vi phạm. Sáu là: Việc triển khai thực hiện thuế GTGT không làm ảnh hưởng lớn đến tổng thu NSNN: Theo số liệu của ngành thuế, kết quả tổng thu NSNN năm 1999 đạt 106,8% so với dự toán, riêng đối với số thu từ thuế GTGT là 16590 tỷ đồng, tương đương với thuế doanh thu năm 1998 tính theo mặt bằng giá năm 1999. Bảy là: Việc triển khai thực hiện Luật thuế GTGT không gây nên những biến động lớn về giá cả hàng hoá, dịch vụ: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số hàng tiêu dùng của năm 1999 tăng 0,1% so với năm 1998; 8 tháng đầu năm 2000 chỉ số hàng tiêu dùng giảm 1,5% so với 8 tháng đầu năm 1999. Năm 1999 là năm có chỉ số giá tăng thấp nhất từ năm 1990 đến nay. Tám là: Thuế GTGT còn có tác dụng hội nhập quốc tế: áp dụng VAT cho phép chúng ra nói chung tiếng nói với các nước trong khu vực và thế giới về lĩnh vực thuế. Khi VAT đi vào cuộc sống sự phân biệt sản phẩm trong nước và nước ngoài được xoá bỏ. Các mặt hàng nhập khẩu cùng loại sau khi đã chịu thuế nhập khẩu, cùng chịu mức thuế VAT như nhau. Không phân biệt hàng sản xuất trong nước hay hàng nhập khẩu. Điều này giúp chúng ta được nhìn nhận như một nước có môi trường kinh doanh bình đẳng: không phân biệt đối xử hàng nội hay hàng ngoại. Vậy thuế VAT giúp doanh nghiệp đẩy mạnh ra thị trường nước ngoài và khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việc thực hiện thuế VAT gắn với việc sửa đổi bổ sung luật thuế tiêu thụ đặc biệt, luật thuế xuất nhập khẩu cũng nhằm hình thành cơ chế thuế phù hợp quá trình hội nhập, mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại giưa Việt Nam và các nước ASEAN và các nước khác trên thế giới, nhất là khi chúng ta thực hiện cắt giảm dần thuế nhập khẩu theo hiệp định AFTA thì việc thu thuế GTGT lại càng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm nguồn thu, góp phần bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước. 2. Tác động tiêu cực, những tồn tại cần khắc phục. Thuế VAT được đánh giá là "Một sắc thuế tiến bộ nhất". Tuy vậy đối với Việt Nam đây là một sắc thuế mới, nên trong bước đầu triển khai chắc chắn sẽ phát sinh nhiều khó khăn thách thức đối với Nhà nước, doanh nghiệp cũng như xã hội. Những thách thức chủ yếu là: Một là: Về thuế suất: Trong luật thuế VAT, mọi ngành nghề kinh doanh và sản phẩm hàng hoá được áp dụng theo 4 thuế suất và một số trường hợp được miễn không áp dụng thuế VAT. Theo tinh thần của điều luật này, lĩnh vực được ưu tiên có mức thuế suất thấp là hàng xuất khẩu, hàng hoá tạo ra từ sản xuất nông nghiệp, từ hoạt động y tế giáo dục. Tuy vậy trong luật và Nghị định 28/1998/NĐ/CP về thuế VAT chưa có những qui định thật rõ ràng trong việc phân biệt đối tượng không phải nộp thuế VAT và mặt hàng chịu thuế suất khác nhau... Ví dụ: thế nào là nông sản, thuỷ sản chỉ mới qua sơ chế thông thường (không phải nộp thuế) với loại chưa qua chế biến 5% hoặc đã qua chế biến 10%. Điển hình là gạo đã qua xay xát, tôm cá phơi khô, dưa cà, muối... đều có thể hiểu theo suy nghĩ chủ quan của từng người. Và còn rất nhiều quy định khác nữa mà việc phân chia đối tượng rất khó lượng hoá mang tính khách quan. Quy định như trên đã tạo ra kẽ hở cho một số doanh nghiệp có sản phẩm phục vụ cho các lĩnh vực có thuế suất khác nhau có điều kiện “nhập nhằng” để trốn thuế thông qua gian lận thuế suất. Hai là: Về phương pháp tính VAT: Việc duy trì 2 phương pháp tính thuế cùng với một biểu thuế có các mức thuế khác nhau đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế khi họ áp dụng các phương pháp tính thuế khác nhau. Nếu gọi:Tkt: là số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp khấu trừ. Ttt: là số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp trực tiếp. tr: là thuế suất thuế GTGT đầu ra. tv: là thuế suất thuế GTGT đầu vào. Gr: là giá trị hàng hoá, dịch vụ bán ra. Gv: là giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào. GTGT: là giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ. Thì: Tkt = Gr x tr – Gv x tv = (Gv + GTGT)tr - Gv x tv = Gv x tr + GTGT x tr – Gv x tv = GTGT x tr + Gv(tr – tv) = Ttt + Gv(tr – tv) Nếu: tr > tv ị Tkt > Ttt tr > tv ị Tkt > Ttt tr > tv ị Tkt > Ttt Đối với các chế biến thực phẩm có sử dụng nguyên vật liệu đầu vào là nông sản, thuế suất thuế GTGT đầu ra thường ở mức 10%, trong khi nguyên vật liệu đầu vào lại có thuế suất là 5% (hoặc được khấu trừ khống 5% nếu có bảng kê). Chính vì vậy, những đối tượng này khi áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ sẽ có số thuế GTGT phải nộp nhiều hơn nếu họ áp dụng thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp. Ba là: Về khấu trừ thuế: Việc khấu trừ khống đối với một số trường hợp đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho một số doanh nghiệp, nhưng lại không khuyến khích việc thực hiện chứng từ, hoá đơn đối với một số đối tượng nộp thuế. Đây cũng có thể là cơ sở để các doanh nghiệp lợi dụng để khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào, hạch toán tăng chi phí sản xuất kinh doanh để giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp, gây thất thu thuế cho Nhà nước. Bốn là: Về việc quản lý sử dụng hoá đơn, chứng từ của đối tượng nộp thuế: Hiện tại, đại bộ phận đối tượng nộp thuế đều đã chấp hành tốt chế độ hoá đơn, chứng từ. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn số ít đối tượng còn có biểu hiện trốn lậu thuế, gây khó khăn cho công tác quản lý và thu thuế của cơ quan thuế, cụ thể là: - Bán hàng không xuất hoá đơn (rồi khai báo là hàng tồn kho) làm giảm số thuế GTGT đầu ra để trốn thuế hoặc hoàn thuế. - Ghi giá trên hoá đơn bán hàng thấp hơn thực tế: thủ đoạn này đã được sử dụng trong trốn thuế doanh thu trước đây và hiện nay vẫn tiếp tục phát triển. - Ghi khống trên hoá đơn đầu vào. Năm là: Việc tính thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu là chưa hợp lý và không cần thiết: - Hàng nhập về đến cửa khẩu thì chưa phát sinh giá trị gia tăng. - Giá tính thuế GTGT trong trường hợp này bằng giá mua cộng thuế nhập khẩu nên làm phát sinh hiện tượng thuế đánh lên thuế, một nhược điểm cơ bản của thuế doanh thu trước đây. - Thuế GTGT của hàng nhập khẩu đã nộp được xem là thuế GTGT đầu vào và sẽ được khấu trừ khi xác định thuế giá trị gia tăng phải nộp (hoặc được hoàn lại). Chính vì vậy, việc tính và thu thuế GTGT ở khâu nhập khẩu là không cần thiết. Sáu là: Về công tác hoàn thuế: Tình trạng gian lận về hoá đơn chứng từ và hoá đơn giả còn xảy ra rất nghiêm trọng. Nếu như năm 1999, mới chỉ phát hiện 3 vụ vi phạm, trong đó có một vụ lớn nhất với số tiền chiếm đoạt 7,2 tỷ đồn; năm 2000 phát hiện 17 vụ, thì năm 2001 đã phát hiện 64 vụ và 6 tháng đầu năm 2002 đã xảy ra 22 vụ, trong đó có nhiều vụ chiếm đoạt từ 10 đến 20 tỷ đồng..., thậm chí có doanh nghiệp năm 2000 đã vi phạm, nay lại tái phạm với số tiền chiếm đoạt lớn hơn nhiều. Những thủ đoạn gian lận thể hiện sự ấu trĩ, kém hiểu biết về thuế GTGT và tài chính – kế toán hoặc tinh vi với trình độ hạch toán kế toán cao hơn: - Mua hoá đơn GTGT giả hoặc hoá đơn thật để ghi chép giả nhằm trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế hoặc đòi được hoàn thuế. - Ghi chép không trung thực giữa các liên trong cùng một hoá đơn: liên giao cho khách hàng thì ghi đúng thực tế mua bán, còn liên lưu để tính thuế thì ghi rất thấp về doanh số và mức thuế đầu ra. - áp sai thuế suất đối với hàng hoá, dịch vụ, “nhầm” hàng hoá không chịu thuế với hàng có chịu t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0062.doc
Tài liệu liên quan