Đề tài Bội chi ngân sách Nhà nước ở Việt Nam hiện nay thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 3

1.1: Quan điểm về bội chi ngân sách Nhà nước 3

1.2: Những nhân tố ảnh hưởng đến bội chi ngân sách Nhà nước 3

1.2.1: Bản chất, chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Nhà nước 3

1.2.2: Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 4

1.2.3: Mục tiêu, quan điểm chiến lược tài chính tiền tệ 5

1.2.4: Xu hướng diễn biến tình hình kinh tế 7

1.2.5: Những nhân tố kĩ thuật, chuyên môn ảnh hưởng đến cách xác định mức bội chi ngân sách Nhà nước 7

1.3: Ảnh hưởng của bội chi ngân sách Nhà nước 8

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 10

2.1: Thực trạng bội chi ngân sách Nhà nước 10

2.1.1: Tình hình bội chi ngân sách Nhà nước 10

2.1.2: Nguyên nhân chủ yếu của bội chi ngân sách Nhà nước 12

2.2: Những ưu điểm và hạn chế trong quản lí bội chi ngân sách Nhà nước 13

2.2.1: Ưu điểm và kết qu ả 13

2.2.2: Hạn chế và thách thức 15

CHƯƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÍ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 17

3.1: Định hướng xử lý bội chi ngân sách Nhà nước 17

3.1.1: Cơ cấu lại phương thức thu ngân sách Nhà nước 17

3.1.2: Đổi mới cách thức tiến hành chi tiêu 18

3.2: Giải pháp xử lý bội chi ngân sách Nhà nước 19

3.2.1: Phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách 19

3.2.2: Vay để bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước 20

3.2.3: Bù đắp sự thiếu hụt ngân sách bằng biện pháp tăng thuế 22

3.2.4: Cắt giảm chi tiêu nhằm làm giảm thâm hụt ngân sách Nhà nước 23

KẾT LUẬN 25

 

 

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12639 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bội chi ngân sách Nhà nước ở Việt Nam hiện nay thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i xây dựng tổ quốc…đồng thời một lượng vốn đầu tư nước ngoài đang ngày tăng trong những năm gần đây, bên cạnh đó thì ta cũng đã tranh thủ được những sự trợ giúp quý báu của các tổ chức tài chính quốc tế thông qua viện trợ ODA.chính những yếu tố đó đã góp một phần đáng kể trong việc cân đối cán cân thu chi ngân sách Nhà nước, giảm thiểu tình trạng thâm hụt ngân sách. Hiện nay trên thế giới đang diễn ra quá trình hội nhập kinh tế hết sức nhanh chóng, quá trình toàn cầu hoá đang phát triển mạnh mẽ, khoa học công nghệ, các kỹ thuật hiện đại không ngừng được phát minh sáng chế, sự hợp tác cũng như sự cạnh tranh đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, điều đó đòi hỏi chúng ta cần phải có những chính sách tranh thủ được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, thu hút thêm nữa những nguồn vốn đầu t ư, viện trợ từ nước ngoài để phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước, đồng thời bên cạnh đó thì chúng ta cũng cần phải phát huy nội lực của bản thân mình, không để đối tác họ có cơ hội chèn ép, gây khó khăn cho ta.Có như vậy thì chúng ta mới có thể làm chủ được nguồn tài chính cuả mình, phát huy hiệu quả tối đa của hệ thống tài chính nước nhà. 1.2.5: Những nhân tố kĩ thuật, chuyên môn ảnh hưởng đến cách xác định mức bội chi ngân sách Nhà nước Những tác động của bội chi ngân sách đến nền kinh tế là rất to lớn, nhưng để xác định được một mức bội chi chính xác không phải là một điều dễ dàng.Sau khi tham khảo các tiêu thức quốc tế, căn cứ vào quan hệ biện chứng giữa thâm hụt ngân sách Nhà nước vợi nợ Nhà nước và quan niệm về ổn định tỷ suất nợ đề tài đã đưa ra một số nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến cách xác định bội chi ngân sách Nhà nước. +Ta thấy là khi lãi suất càng cao và tăng trưởng càng thấp thì làm cho mức chênh lệch giữa lãi suất và tăng trưởng càng cao, hoặc khi tổng dư nợ càng nhiều thì giá trị của thâm hụt ngân sách bậc một càng nhỏ dần lại thậm chí phải có thặng dư và số thặng dư này phải cao dần mới đảm bảo duy trì được sự ổn định của tỷ suất nợ trên GDP. +Trong điều kiện có lạm phát thì nhìn chung lạm phát càng cao thì gánh nặng nợ càng nhẹ.Tuy nhiên cái giá của việc sử dụng lạm phát không phải là nhỏ.Bởi vì khi mà nền kinh tế có một mức lạm phát cao trong nhiều năm thì sẽ dẫn đến tăng lãi suất từ đó sẽ gây ra tình trạng suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng.Theo thời gian thì lạm phát sẽ làm tăng những khoản nợ nước ngoài, suy giảm sức cạnh tranh quốc tế của những hàng hoá sản xuất trong nước, gây ra sự dịch chuyển thu nhập từ người cho vay sang người đi vay một cách không bình thường và sẽ làm giảm lòng tin của người dân vào chính phủ. Như vậy dù muốn hay không muốn thì những nhân tố ảnh hưởng đến cách xác định bội chi ngân sách vẫn luôn tồn tại và gây ra những tác hại không nhỏ, chúng ta cần phải có những biện pháp làm hạn chế một cách tối đa những tác hại mà chúng gây ra. 1.3: Ảnh hưởng của bội chi ngân sách Nhà nước Tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước có những ảnh hưởng hết sức rộng lớn trên tất cả các lĩnh vực, các hoạt đông kinh tế xã hội.Thâm hụt ngân sách Nhà nước với một mức cao và triền miên sẽ làm cho Nhà nước phải tìm cách tăng các khoản thu, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân, hơn nữa khi đó các nguồn vốn trong các ngân hàng sẽ trở nên khan hiếm hơn điều đó sẽ dẫn đến tình trạng lãi suất tăng cao, điều này gây ra những trở ngại trong việc vay vốn của các nhà đầu tư.Về lâu về dài thì sẽ dẫn đến tình trạng đầu tư sẽ giảm sút nghiêm trọng, sẽ có nhiều doanh nghiệp bị phá sản do không tìm được những khoản vay thích hợp, sản xuất trong nước bị thu nhỏ lại từ đó sẽ toạ điều kiện thúc đẩy quá trình nhập siêu, cán cân thương mại quốc tế mất cân bằng.Những điều này dẫn đến tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng, thu nhập thực tế của người dân giảm sút và ngày càng gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Mặt khác khi xảy ra tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước cũng là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lạm phát cao.Bởi lẽ khi có thâm hụt ngân sách thì một biện pháp mà chính phủ hay dùng là phát hành tiền để bù đắp ngân sách, mà khi tiền được tạo ra một cách quá mức như thế thì sẽ dẫn đến lạm phát tăng cao, mà nếu như Chính phủ phát hành tráI phiếu ra công chúng để thu hút vốn, bù đắp cho phần thiếu hụt thì trong một thời gian dài sẽ làm cho cầu về vốn tăng, do đó lãi suất tăng và cung tiền tệ sẽ tăng. Hơn nữa khi mà hiện nay nước ta đang trong quá trình xây dựng và phát triển, rất cần sự ủng hộ, giúp đỡ của người dân trong nước cũng như bạn bè thế giới.Nếu như mà chúng ta không biết cách quản lí nguồn vốn, nền tài chính cũng như ngân sách quốc gia cho tốt thì dần dần sẽ gây mất lòng tin của người dân cũng như của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.Họ đầu tư càng ngày càng ít hơn, dẫn đến nước ta đã thiếu vốn để xây dựng đất nước nay lại càng thiếu hơn, những mục tiêu tốt đẹp mà chúng ta đã đề ra sẽ khó mà có thể trở thành hiện thực được. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 2.1: Thực trạng bội chi ngân sách Nhà nước 2.1.1: Tình hình bội chi ngân sách Nhà nước Trong 20 năm đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới cho đến nay thì năm 1993 là năm ngân sách Việt Nam có mức bội chi cao nhất, lên tới 6,5%GDP.Lý do chủ yếu là Nhà nước tập trung xây dựng đường dây tải điện 500KV bắc -nam.Những năm sau đó thì bội chi được kiềm chế ở mức thấp dưới 5%GDP.Bình quân trong giai đoạn này bội chi ngân sách Nhà nước đạt khoảng 4% GDP, đồng thời số thu từ thuế, phí, lệ phí dành cho chi đầu tư phát triển ngày càng tăng, cụ thể năm 1991 là 0,2% đến năm 2000 đã là 1,8% và trong những năm gần đây là xấp xỉ 3& GDP.Tư năm 1993 Nhà nước ta đã chủ trương chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước. Trong những năm qua thì tình hình ngân sách Nhà nước ta đã có những bước cải tiến và đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ.Thu ngân sách đã có sự tăng trưởng nhanh, cơ cấu thu chuyển hướng tích cực, nền tài chính ngày càng đi vào thế tự chủ.Thu ngân sách đã tăng từ13,1&GDP năm 1991 và càng ngày càng tăng trong những năm tiếp theo, đến nay nguồn thu trong nước ngày cang chiếm một tỷ lệ cao trong tổng thu ngân sách cụ thể là chiếm khoảng 97% tổng thu, điều đó không những đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên mà còn giành ra một khoản ngày càng tăng giành cho đầu tư phát triển và chi trả nợ.Thuế đã thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu trong nước chiếm khoảng 90% tổng thu ngân sách Nhà nước.Về chi ngân sách đã từng bước được cơ cấu theo hướng xoá bỏ bao cấp, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tăng chi đầu tư xã hội cơ sở hạ tầng phát triển nguồn nhân lực xoá đói giảm nghèo.Chú trọng chi trả nợ theo đúng cam kết, năng cao năng lực đảm bảo chi ngân sách ngày càng tiết kiệm và có hiệu quả hơn.Điều hành ngân sách Nhà nước từng bước chủ động và linh hoạt hơn, dự trữ dự phòng của ngân sách đã góp phần tích cực vào việc ổn định quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống khi nền kinh tế có những biến động bất thường như khủng hoảng tài chính tiền tệ, thiên tai lũ lụt…Chính vì lẽ đó mà tình hình bội chi ngân sách trong những năm qua đã có những cải thiện đáng kể góp phần quan trọng vào việc ổn định và phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được đó thì chúng ta cũng đã gặp phải không ít những sai lầm, còn có những hạn chế cần phải rút kinh nghiệm và khắc phục.Tiềm lực tài chính tuy đã được tăng lên đáng kể nhưng còn nhỏ bé và vẫn không theo kịp nhu cầu tăng chi để giải quyết những nhu cầu bức xúc của nền kinh tế.Nền tảng của nguồn thu ngân sách chua thực sự vững chắc, cơ cấu thu đã được đổi mới nhưng chưa thực sự toàn diện.Trong khi nhu cầu về xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển giáo dục, khoa học công nghệ, xoá đói giảm nghèo, thực hiện quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước đang là áp lực lớn cho ngân sách Nhà nước. Thêm vào đó thì việc phân bổ sử dụng ngân sách Nhà nước còn nhiều bất cập, hiệu quả đã được nâng lên nhưng chưa cao, vẫn còn tình trạng thất thoát trong sử dụng nguồn ngân sách.Chi cho đầu tư xây dựng cơ bản còn phân tán, công tác quy hoạch, chuẩn bị đâu tư, lập dự án chưa được chú trọng nên chất lượng công trình không cao.Chế độ tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách vừa thiếu vừa lạc hậu so với thực tế gây khó khăn cho việc cấp kinh phí, kiểm tra, kiểm soát trong chi ngân sách.Trong chi thường xuyên của chi ngân sách Nhà nước thì chi cho lương còn chiếm tỷ trọng lớn(chiếm 50% tổng chi thường xuyên) điều đó là do việc tinh giảm biên chế trong khu vựa hành chính sự nghiệp hiệu quả còn thấp. Việc thực hành chống lãng phí, tiết kiệm chưa được các cấp quan tâm đầy đủ, vẫn còn có nhiều hoạt động mang tính phô trương hình thức, hội họp, chiêu đãi không cần thiết vẫn diễn ra ở nhiều nơi.Công tác kiểm tra còn mang tính hình thức, chưa thực sự phát huy hiệu quả.Chính điều này đã góp phần làm cho ngân sách không đủ để chi, tình trạng bội chi ngân sách vẫn còn diễn ra ỏ nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực trong đời sông kinh tế-xã hội. 2.1.2: Nguyên nhân chủ yếu của bội chi ngân sách Nhà nước Trong thời gian qua thì tình hình bội chi ngân sách ở nước ta có nhiều diễn biến phức tạp, điều đó do nhiều nguyên nhân tác động. -Có những thời kì mà nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, do đó mà dẫn đến tình trạng nền kinh tế bị giảm sút trong các năm 1997-2000.Để kích cầu nền kinh tế thì Nhà nước ta đã sử dụng nguồn ngân sách quốc gia chi cho đầu tư phát triển. +Chi ngân sách vẫn đảm bảo chi cho đầu tư phát triển ổn định ở mức 6,4% GDP, đảm bảo các nghĩa vụ trả nợ đến hạn.Sau cuộc khủng hoảng thì nước ta lâm vào tình trạng giảm phát kéo dài có năm xuống 0,1% năm 1999, thậm chí la -0,6% năm 2000, tình hình đầu tư trong nước gặp nhiều khó khăn, sản xuất thì lâm vào khủng hoảng, có rất nhiều doanh nghiệp đã bị phá sản, tổng sản phẩm xã hội bị giảm sút, kinh tế giảm sút…Chính vì lẽ đó mà Chính phủ không thế đứng ngoài cuộc được, để tháo gỡ bế tắc thì Nhà nước ta đã chủ động tăng chi, kích cầu hàng hoá trong nước lên.Việc làm đó là rất cần thiết để đẩy nhanh tốc độ đầu tư, chặn đứng tốc độ giảm phát kéo dài, từ đó thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế. +Hơn nữa Nhà nước cũng đảm bảo những nhiệm vụ quan trọng của chi thường xuyên như: chi cho sự nghiệp giáo dục, y tế, khoa học công nghệ.môi trường…đây là những khoản chi rất quan trong và cần thiết đối với nền kinh tế, nhưng chúng cũng chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng chi của ngân sách Nhà nước, nhất là trong hoàn cảnh khó khăn của nước ta lúc đó thì việc chi tiêu này cũng gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đối với việc thâm hụt ngân sách Nhà nước. -Mặt khác tỷ lệ bội chi trong những năm nay tăng cao còn do tác động của nguyên nhân tỷ lệ động viên ngân sách Nhà nước giảm do tăng trưởng giảm sút.Do những tác động xấu của cuộc khủng hoảng nên làm cho tốc độ phát triển kinh tế nước ta giảm xuống từ mức cao 9,5%năm 1995 xuống còn 4,8% năm 1999.Chính vì vậy mà ngân sách Nhà nước phaỉ được sử dụng nhiều hơn. -Một nguyên nhân cũng rất quan trọng nữa là do đất nước ta đang là một nước đang phát triển, nền kinh té còn gặp nhiều khó khăn, muốn xây dựng và phát triển đất nước theo kịp các nước trên thế giới thì chúng ta phải có một lượng vốn rất lớn để xây dựng cơ sở vật chất, đào tạo nguồn nhân lực cũng như mở rộng các ngành nghề trong nước.Chính vì vậy mà chi của ngân sách luôn ở mức cao, trong khi đó thì nguồn thu có hạn và chưa thực sự đủ mạnh đáp ứng nhu cầu chi tiêu của đất nước cho nên ngân sách Nhà nước luôn ở một mức bội chi nào đó. 2.2: Những ưu điểm và hạn chế trong quản lí bội chi ngân sách Nhà nước 2.2.1: Ưu điểm và kết qu ả Quản lí bội chi ngân sách trong thơi gian qua đã đáp ứng được nhu cầu điều hành vĩ mô, góp phần ổn định và lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia.Mức độ bội chi ngân sách luôn được kiềm chế ở mức độ hợp lí trên tổng GDP đã góp phần quan trọng trong việc giúp Nhà nước kiểm soát tốt hơn công việc thu chi của mình.Như chúng ta đã biết một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước là điều hành nền kinh tế làm sao cho thật sự hiệu qu ả, kiểm soát mức độ lạm phát ở mức độ cho phép, tạo thêm nhiều công ăn việc làm hơn nữa cho người lao động, đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế, cải thiện từng bước đời sống của người dân…và để đạt được những mục tiêu quan trọng ấy thì điều kiện quan trọng đầu tiên là phải có một nền tài chính vững chắc, một nguồn ngân sách ổn định.Muốn vậy thì Nhà nước phải quản lí thu chi làm sao cho cân đối và trong thời gian qua thì Nhà nước ta đã có những chính sách khá hiệu quả trong việc quản lí ngân sách của mình, giảm thiểu một cách đáng kể tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước.Bằng việc tiến hành mở rộng thêm nhiều nguồn thu hơn nữa, thu hút được nhiều hơn những nguồn vốn đầu tư trong nước và cả nước ngoài, kích thích hoạt động sản xuất ngày càng được mở rộng hơn nữa.Trong lĩnh vực chi thi Nhà nước đã đầu tư có trọng điểm hơn, kiểm tra giám sát hoạt động chi thường xuyên của mình, giảm thiểu một cách tối đa sự thất thoát lãng phí trong xây dựng cơ bản, tiến hành đầu tư có trọng điểm, tránh tình trạng dàn trải không có mục đích rõ ràng…tất cả những biện pháp ấy đã góp phần tích cực trong việc giúp Nhà nước quản lí nền kinh tế một cách có hiệu quả hơn nữa, đã đem lại một số những thành tựu đáng ghi nhận Những nguyên tắc cơ bản về cân đối ngân sách Nhà nước kể cả ngân sách địa phương và những quan điểm cụ thể về quản lí bội chi ngân sách Nhà nước được cụ thể hoá trong luật ngân sách đã góp phần quan trọng trong điều hành thực tế, góp phần cơ cấu lại ngân sách Nhà nước.Các khoản chi tiêu thường xuyên đã được điều chỉnh một cách thích hợp, tiết kiệm một cách tối đa nhưng vẫn đảm bảo được hiệu quả tốt nhất để rồi từ đó tạo tích luỹ nội bộ ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển, giảI quyết một cách hài hoà mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng.Ngân sách Nhà nước đã từng bước cơ cấu lại theo hướng giảm thiểu tối đa tình trạng bao cấp tràn lan, Nhà nước chỉ quản lí nền kinh tế ở tầm vĩ mô chứ không can thiệp, trợ cấp cho các doanh nghiệp như trước đây nữa, để cho họ tự chủ hơn trong công việc làm ăn kinh doanh của mình, đồng thời có chính sách ưu tiên phát triển một số lĩnh vực mà Nhà nước cần can thiệp như giáo dục đào tạo, y tế toàn dân, phát triển khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường…. Một điều cũng rất quan trọng nữa là việc quản lí tốt bội chi ngân sách trong những năm qua cũng đã góp phần tích cực đẩy lùi lạm phát.Bởi vì khi tình trạng bội chi được giảm xuống một cách đáng kể thì Nhà nước sẽ không phải bù đắp các khoản thâm hụt bằng cách đi vay trong dân chung, tăng thuế, phát hành tiền, hay dùng các biện pháp tiền tệ khác…mà tất cả những biện pháp này đều là những nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng lạm phát của một quốc gia. 2.2.2: Hạn chế và thách thức Đất nước ta vẫn còn nghèo, nền kinh tế vẫn đang trong quá trình bước đầu phát triển, quy mô nền kinh tế vẫn còn nhỏ, trong khi đó nhu cầu chi tiêu cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật, tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá…rất lớn.Mặt khác do trình độ của chúng ta hiện nay có hạn nên hiệu quả trong sản xuất kinh doanh không cao, hàng hoá của nước ta còn kém chất lượng, chủng loại, mẫu mã còn chưa được phong phú, điều đó khiến cho hàng hoá của nước ta nhiều khi không thế cạnh tranh nổi với hàng hoá nước ngoài, thậm chí là ở ngay trong nước mình, chính vì vậy mà nhiều doanh nghiệp đã không thể trụ vững trên thị trường dẫn đến phá sản, sản xuất gặp nhiều khó khăn, thêm vào đó các doanh nghiệp của nước ta hoạt động còn manh mún, nhỏ lẻ chưa tạo thành một khối liên kết vững chắc do đó mà chưa tạo được sức mạnh to lớn để có thể chiếm lĩnh thị trường nước ngoài.Nguồn thu ngân sách của chúng ta không thưc sự vững chắc, bị động, một số nguồn thu lớn lại phụ thuộc vào giá cả thị trường thế giới (thu từ dầu thô, thuế xuất nhập khẩu …)điều đó đã gây khó khăn không nhỏ, tác động mạnh mẽ đến tình hình bội chi ngân sách ở nước ta trong thơi gian tới. Hiện nay trên thế giới đang diễn ra quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hết sức mạnh mẽ, xu thế toàn cầu hoá đang có những ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh t ê-xã hội của các nước trên thế giới.Việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN, nhất là gần đây đất nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, điều đó sẽ dẫn đến việc chúng ta sẽ phảI tiến hành cắt giảm thuế của rất nhiều mặt hàng mà ta đã cam kết khi tham gia vào những tổ chức, diễn đàn này.Trong đó có những mặt hàng mà đã từ nhiều năm nay đem lại một nguồn thu không nhỏ cho ngân sách Nhà nước.Trong tình hình náy sẽ khiến cho nguồn thu ngân sách Nhà nước bị giảm đáng kể, gây khó khăn cho việc chi tiêu của Nhà nước trong tương lai. Tình trạng thất thu, trốn thuế, kiểm soát nguồn thu thiếu chặt chẽ, buông lỏng trong công tác giám sát kiểm tra, giám sát việc thu chi ngân sách cũng là nguyên nhân tác động xấu đến bội chi ngân sách Nhà nước. Lãi xuất vay trong thời gian qua còn cao, thời gian vay còn ngắn, ít có những khoản vay dài hạn, trong khi đó nhiều khoản vay được dùng để xây dựng đầu tư cơ bản với thời gian thu hồi vốn lâu đã gây khó khăn cho công tác thu ngân sách.Mặt khác thì còn có nhiều dự án đầu tư không mang lại hiệu qu ả, nhiều chủ dự án không có khả năng trả nợ, tình trạng tham ô, tham nhũng ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực còn diễn ra phổ biến cũng là những nguyên nhân gây thất thoát lãng phí trong việc sử dụng nguồn ngân sách Nhà nước. Đối với những khoản vay nước ngoài, mặc dù được ưu đãivới lãi suất thấp, thời gian vay dài hạn với khối lượng tương đối lớn, tuy nhiên đây là những khoản vay theo chương trình, theo những điều khoản đã được định sẵn trong các hợp đồng vay nợ mà bên đối tác đưa ra, vì vậy mà nếu như ta không có sự chuẩn bị kỹ càng, xem xét kĩ tính khả thi của từng dự án, thẩm định, duyệt dự án một cách rõ ràng thì có thể gây ra hiệu quả không được như mong đợi.gây thất thoát cho nguồn ngân sách. Vấn đề phương thức cân đối ngân sách Nhà nước hiện nay, thì tình trạng ngân sách trung ương còn cân đối hộ ngân sách địa phương bằng những chỉ tiêu, những định mức quy định cho từng địa phương.Chính điều này đã làm mất đi tính sáng tạo chủ động trong hoạt động thu, chi của các địa phương.Khiến họ phảiluôn rập khuân máy móc, khó có thể tìm ra lối đi nào là thích hợp với địa phương mình trong việc thu chi ngân sách.Mặt khác hiện vẫn còn để mục chi trả nợ gốc trong cân đối thu, chi ngân sách Nhà nước, phản ánh sai bản chất các nghiệp vụ tài chính ngân sách, khiến cho các công đoạn thủ tục còn rườm rà gây chậm trễ trong việc thu, chi ngân sách. CHƯƠNG 3 CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÍ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 3.1: Định hướng xử lý bội chi ngân sách Nhà nước 3.1.1: Cơ cấu lại phương thức thu ngân sách Nhà nước Thu trong sự phát triển bền vững, bồi dưỡng phát triển, mở rộng các nguồn thu vững chắc lâu bền.Cần phải xác định mức thu hợp lý, vừa đảm bảo ngân sách có nguồn thu cao, vừa đảm bảo các đối tượng thu có đủ điều kiện tài chính để tiếp tục phát triển.Những nguồn thu từ khu vực kinh tế quốc doanh có một ý nghĩa đặc biệt thì cần phải chú ý bồi dưỡng thông qua các biện pháp hỗ trợ đầu t ư, trợ giúp khoa học công nghệ, kỹ thuật và nguồn nhân lực.Trước mặt một số lĩnh vực và một số ngành công nghiệp trọng yếu, giao thông vận tải, thông tin liên lac, kỹ thuật hạ tầng cần được trợ giúp để phát triển nhanh và vững chắc. Tập trung khai thác các nguồn thu ngân sách từ trước đến nay chưa được khai thác và quản lý, nhất là trong khu vực ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các đơn vị sự nghiệp có thu.Các cơ quan tài chính các cấp thực hiện các biện pháp như sau: chấm dứt ngay việc ghi thu,ghi chi, đưa chỉ tiêu giảm thu ngân sách thành một chỉ tiêu khi xem xét hoàn thành kế hoạch, xét thi đua…để hạn chế các đơn vị chiếm dụng nguồn thu của ngân sách.Triển khai đề án đổi mới nghiệp vụ các quy trình quản lí, phân cấp lạ nhiệm vụ thu thuế giữa cục thuế và chi cục thuế nhằm tranh thủ và sự phối hợp chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền để tạo bước chuyển mạnh trong công tac thu thuế, nhất là khu vực ngoài quốc doanh. Cơ quan thuế tăng cường công tác tổ chức hướng dẫn và kiểm tra thu thuế phấn đấu mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh phải được kiểm tra tối thiểu một lần một năm, đồng thời khẩn trương nghiên cứu để phân biệt và xác định rõ các hành vi trốn lậu thuế để có các biện pháp xử lý nghiêm đối với những trường hợp vi phạm. Áp dụng rộng rãi các biện pháp vay dân và vay nước ngoài để đáp ứng những nhiệm vụ quan trọng có tính chất tình thế, thay cho việc phát hành thêm tiền vào lưu thông.Kho bạc Nhà nước sử dụng các hình thức trái phiếu tín phiếu hay công trái trên tinh thần đảm bảo lợi ích cho người có vốn, mức lãi suất thao lãi suất thị trường.Đồng thời để các chứng khoán có điều kiện có thể giao lưu trên thị trường hay sở giao dịch chứng khoán nhăm làm cho quá trình giao lưu và luân chuyển vốn được thuận tiện hơn.Các khoản vay nước ngoài cần được tính toán về mục đích sự dụng, địa chỉ nhận vốn và hiệu quả đầu t ư, không vay cho tiêu dùng mà tập trung vốn để cho đầu tư phát triển và một số lĩnh vực văn hoá hội. 3.1.2: Đổi mới cách thức tiến hành chi tiêu Phân bổ và cấp phát chi ngân sách Nhà nước phải tập trung thực hiện với các mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế với nhịp độ cao và bền vững.Giải quyết tốt các yêu cầu để tạo sự chuyển biến mạnh và phát huy nhân tố nguồn lực con người, ổn định chính trị xã hội. Trong việc chi cho đầu tư xây dựng cơ bản cần phải xem xét lại các chương trình, các dự án đầu tư băng nguồn ngân sách Nhà nước, bố trí đầu tư tập trung, có trọng điểm, theo đúng kế hoạch.Nâng cao vai trò chủ động của cơ quan tài chính trong việc thẩm định các dự án.Các bộ ngành địa phương phải giành tỷ lệ vốn thích đáng trong tổng vốn đầu tư cho các lĩnh vực quan trọng nh ư: giáo dục đào tạo, y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng…chuẩn bị thực hiện, giải phóng và đền bù mặt bằng, bố trí đủ vốn trong nước để đảm bảo giải ngân đối với các dự án sử dụng vốn nước ngoài.Đồng thời cần phảI khắc phục tình trạng vốn chờ công trình gây thất thoát lãng phí cho ngân sách địa phương. Đối với các dự án, chương trình quốc gia thi cần phải bố trí tăng kinh phí cho các chương trình mục tiêu, chuyển một số nội dung thành nhiệm vụ thường xuyên của các bộ, cơ quan TW và các địa phương.Vốn của chương trình mục tiêu quốc gia được thực hiện theo cơ chế ngân sách TW theo mục tiêu cho ngân sách địa phương, bao gồm cả vốn đầu tư phát triển và vốn sự nghiệp kinh tế.Các chương trình mục tiêu trước đây từ năm 2001 không còn là chương trình quốc gia thì sẽ đưa vào hoạt động thường xuyên của các bộ ngành địa phương để thực hiện. Chi cho hành chính sự nghiệp: Các đơn vị sự dụng ngân sách phải có dự toán ngay từ đầu năm.Kho bạc Nhà nước các cấp kiểm tra chặt chẽ và thanh toán đúng theo chế độ quy định.Đối với những đơn vị không có dự toán chi tiết thì kho bạc quyền tạm dừng cấp phát chi thường xuyên và chỉ đạo thực hiện tamh ứng chi trả tiền lương theo chế độ.Bối trí vốn nghiên cứu khoa học, vốn sự nghiệp kinh tế tập trung cho công tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và ứng dụng kỹ thuật mới, nhất là vấn đề giống, quy trình công nghệ nuôi trồng, nhân giống cây con.Các địa phương phảI ưu tiên tăng 50%vốn áp dụng khoa học công nghệ cho lĩnh vực nông nghiệp -nông thôn, tăng 50% vốn cho khuyến ngư đối với các địa phương có điều kiện phát triển ngành thuỷ sản.Nghiên cứu để ban hành các cở chế, chính sách tài chính thực hiện luật giáo dục, luật khoa học công nghệ, Thực hiện cơ chế khoán chi gắn với nhiệm vụ thu đối với các đơn vị có thu.Nghiên cứu ban hành cơ chế trả lương từ nguồn thu gắn với nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp. 3.2: Giải pháp xử lý bội chi ngân sách Nhà nước 3.2.1: Phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách Phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách có nhược điểm lớn là chứa đựng nguy cơ lạm phát, tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế , xã hội.Thực tế đã cho chúng ta những bài quý giá về việc phát hành tiền quá dễ dãi để bù đắp bội chi ngân sách gây ra lạm phát cao trong thập niên 80.Từ 1-4-1990 chúng ta đã thành lập hệ thống kho bac Nhà nước trực thuộc bộ tài chính (người chịu trách nhiệm về bội chi ngân sách Nhà nước) độc lập với ngân hàng Nhà nước (người chịu trách nhiệm về việc phát hành tiền vào trong lưu thông) được xem là một cuộc cách mạng cơ cấu nhằm tách chức năng quản lí quỹ ngân sách Nhà nước ra khỏi chức năng phát hành tiền, tranh được tình trạng” mang tiền túi nọ bỏ vào tui kia”.Cơ chế đò đã góp phần tích cực trong việc kiềm chế bội chi và lạm phát trong những năm qua.Thực tế thì trong những năm qua thì Nhà nước ta đã không phát hành tiền để trang trai thâm hụt ngân sách nữa mà thay vào đó là việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc Nhà nước và vay nợ nước ngoài để bù đắp bội chi, những việc làm này cũng gốp phần tích cực trong việc kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế ở vào trạng thái suy thoái, mức độ lạm phát không cao, vật giá không leo thang, thì khi đó việc phát hành tiền cần phải được chủ động tiến hành nhằm mục tiêu trước mắt là có tiền để trang trải các chương trình đầu tư phát triển, có tiền để tăng lương theo đún

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc111112.doc
Tài liệu liên quan