Đề tài Các biện pháp tạo động lực cho người lao động thông qua chính sách tiền lương

 

CHƯƠNG I 1

VÀ TẠO ĐỘNG LỰC TRONG LAO ĐỘNG 1

I. Khái niệm, các yếu tố ảnh hưởng tới tạo động lực trong lao động 1

1. Khái niệm 1

1.1. Động lực 1

1.2. Tạo động lực 2

2. Các nhân tố ảnh hưởng tới tạo động lực trong lao động 2

2.1 Các yếu tố thuộc về cá nhân người lao động. 2

2.2. Các nhân tố thuộc về công việc. 3

2.3 Các nhân tố thuộc về tổ chức. 4

II. TẠO ĐỘNG LỰC - VẤN ĐỀ CẦN THIẾT TRONG MỌI TỔ CHỨC. 4

1. Sự cần thiết của việc tạo động lực trong lao động. 4

1.1. Đối với cá nhân người lao động. 4

1.2 Đối với tổ chức. 4

1.3. Đối với xã hội 5

2. Phạm vi nghiên cứu. 5

III. MỘT SỐ HỌC THUYẾT VÀ VIỆC VẬN DỤNG CHÚNG TRONG TẠO ĐỘNG LỰC TRONG LAO ĐỘNG. 5

1. Học thuyết nhu cầu của Maslows: 5

2. Học thuyết công bằng của Stacy - Adam 6

3. Học thuyết kỳ vọng của Vitor - Vroon 7

IV. CÁC BIỆN PHÁP TẠO ĐỘNG LỰC CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG THÔNG QUA CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG. 9

CHƯƠNG II 12

THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TẠO ĐỘNG LỰC THÔNG QUA CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG TẠI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM 12

I. MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 12

II. THỰC TRẠNG TẠO ĐỘNG LỰC CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG THÔNG CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG HIỆN NAY Ở DNVN 13

1. Thu nhập của người lao động 13

2. Sự thay đổi của chính sách tiền lương qua từng giai đoạn 16

3. Thực trạng vấn đề tiền lương hiện nay 16

3.1. Tiền lương tối thiểu - cơ cấu tiền lương tối thiểu và cách tiếp cận xác định. 17

3.2. Quan hệ tiền lương 21

3.3. Thu nhập ngoài lương 22

3.4. Cải cách chính sách tiền lương trong những năm gần đây ở nước ta 25

4. Một số nguyên nhân căn bản dẫn đến thực trạng tiền lương hiện nay 26

Chương III: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện Chính sách tiền lương ở nước ta 29

1. Cần điều chỉnh nâng lương tối thiểu 29

2. Tăng quỹ tiền lương và giảm biên chế 29

II. Định hướng xây dựng quan hệ tiền lương chung và quan hệ tiền lương giữa các khu vực 30

III. GIẢI PHÁP QUẢN LÝ THU NHẬP NGOÀI LƯƠNG 31

IV. Một số đề xuất nhằm tiếp tục cải cách chính sách tiền lương 32

 

 

doc35 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1559 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các biện pháp tạo động lực cho người lao động thông qua chính sách tiền lương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t lượng sản phẩm. Tiền lương phải gắn với số lượng và chất lượng lao động, phản ánh cống hiến của người lao động cho doanh nghiệp phản ánh vai trò mới thực sự kích thích họ hăng hái lao động với tinh thần trách nhiệm cao nhất. + Trong công tác trả công lao động các doanh nghiệp cần chú ý đến cả hai mặt của tiền lương đó là mặt kỹ thuật của tiền lương và mặt cống hiến cho doanh nghiệp. Mặt kỹ thuật của tiền lương thể hiện ở trình độ nghề nghiệp mà người lao động đã đạt được trong quá trình phần đấu của mình. Mặt cống hiến cho doanh nghiệp thể hiện ở thời gian lao động tham gia xây dựng doanh nghiệp. Khi trả công cần quan tâm thích đáng đến cả hai mặt này, đặt biệt là mặt kỹ thuật trả lương phải đúng trình độ và cống hiến để họ yên tâm phấn đấu vươn lên và cũng là cách thăng tiến cho người lao động. + Ngoài ra có rất nhiều biện pháp khác đáng quan tâm về chính sách tiền lương như thu hút người tham gia xây dựng hệ thống chính sách tiền lương và sau đó thông tin chi tiết đến người lao động Đây là một điều tương đối khó vì người lao động nào cũng muốn tiền lương của mình là cao nhất vì thế hệ thống thang bảng lương như thế nào đó để đem lại lợi ích lớn nhất cho mình. Có bao nhiêu người lao động thì có bấy nhiêu ý kiến khác nhau và sẽ gây khó khăn cho các nhà quản lý. Nhà chính sách cần lắng nghe, quan tâm và hết sức vì người lao động thì khi đó tiền lương mới được trả một cách công bằng, đúng và đủ với sức lao động họ đã bỏ ra. Bên cạnh đó việc cập nhật hệ thống tiền lương và thực hiện điều chỉnh khi cần thiết là một vấn đề không kém phần quan trọng. Vì vậy tiền lượng được coi là nguồn thu chính của người lao động, trong điều kiện kinh tế xã hội ngày một biến đổi nhu cầu cuộc sống ngày một cải thiện thì điều tất yếu đòi hỏi tiền lương p hải điều chỉnh sao cho theo kịp với tốc độ phát triển của xã hội sao cho đảm bảo cho người lao động có một cuộc sống ổn định, có cơ hội phát triển để thực hiện đem hết khả năng của mình phục vụ cho doanh nghiệp và cho đất nước. Tóm lại, các biện pháp nhằm tạo động lực thì có nhiều như cải thiện điều kiện lao động, khuyến khích vật chất, phi vật chất, tiền lương, thăng tiến, suy tôn nhân viên nhưng trong phạm vi nghiên cứu có hạn của đề tài chỉ xin nghiên cứu một mảng đó là: "tiền lương với vấn đề tạo động lực lao động". Trong chính sách tiền lương thì bao gồm rất nhiều biện pháp khác nhau đòi hỏi mỗi doanh nghiêp, tổ chức phải áp dụng sáng tạo trên cơ sở lấy tình hình hoạt động của doanh nghiệp và đặc trưng lao động ngành mình làm nền tảng. Không phải lúc nào cũng chỉ biết máy móc một hay hai phương pháp mà phải biết kết hợp để nhằm phát huy ưu điểm hạn chế nhược điểm của từng phương pháp để chính sách tiền lương thực sự là đòn bẩy động lực chính trong lao động. Chương II Thực trạng vấn đề tạo động lực thông qua Chính sách tiền lương tại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam I. Một số nét khái quát chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ 1. Theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP thì: "Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký pháp luật hiện hành, có quy mô vốn đầu tư không quá 10NN đồng hoặc số lao động không quá 300 người". Trong những năm gần đây doanh nghiệp vừa và nhỏ có vị trí ngày càng quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế nói riêng và tạo nên sự tăng trưởng liên lạc nói chung của nền kinh tế nước ta và là nơi tạo việc làm chủ yếu cho gần 90% lực lượng lao động ở nông thôn và thành thị. Ta không thể phủ nhận vài trò quan trọng của DNN vừa và nhỏ tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn nhiều hạn chế, đây là những thách thức cho các DN trong điều kiện phát triển của Việt Nam hiện nay. 2. Những cơ hội và thách thức do các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay ở Việt Nam Với những ưu điểm nổi trội của mình các DN vừa và nhỏ đã dần chiếm lĩnh trên hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề trong nước cũng như xuất khẩu tạo được nhiều việc làm cho người lao động nhờ khẳ năng huy động tốt các nguồn vốn cho đầu tư và phát triển làm choa nền kinh tếa năng động ít gặp rủi ro khi có biến động kinh tế xung quanh, hỗ trợ và làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn trong sản xuất gia công chi tiết, phụ kiện Tạo nguồn thu cho doanh nghiệp, nâng cao mức sống của người lao động và hàng năm đóng góp đáng kể vào nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Và một điều quan trọng đó là các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự mềm mại, linh hoạt, sáng tạo của các DN vừa và nhỏ DN tạo ra một cơ cấu kinh tế có tính đổi mới và thích ứng cao cho nền kinh tế, cơ cấu ngành, thành phần, tạo điều kiện thu hút tận dụng nguồn lợi cho đầu tư phát triển thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Ben cạnh cơ hội cho các DN vừa và nhỏ DN thì còn mở ra nhiều thách thức đây chính là những mặt còn hạn chế của các DN này nếu không khắc phục tốt thì đang chính là lực cản quá trình phát triển và hôi nhập của DN. Đó phải kể đến đó là quy mô của DN nhỏ nên khó thực hiện các dự án có tính chất phức tạp, ít đầu tư vào trang thiết bị máy móc kỹ thuật nên sức cạnh tranh không cao. Thêm vào đó là đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo chưa được đào tạo bài bản thiếu kinh nghiệm kinh doanh, điều hành theo cảm tính.. rồi vấn đề không có đủ nguồn lực để áp dụng nhanh mạnh các thành phần mới về khoa học kỹ thuật, đổi mới thiết bị, xử lý môi trường.. II. Thực trạng tạo động lực cho người lao động thông chính sách tiền lương hiện nay ở DNVN 1. Thu nhập của người lao động Do kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối khá, giá cả ổn định và việc điều chỉnh mức lương tối thiểu từ 180.000đ cuối năm 1000 lên 210.000đ đầu năm 2001 và 290.000đ đầu năm 2003 cùng với việc triển khai nhiều chương trình hỗ trợ cuộc sống của tầng lớp nhân lao động đã được cải thiện. Tính chung trên cả nước thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2001 - 2002 thực tế đạt 375.000đ tăng 21% so với năm 1999. Trong đó khu vực thành thị đạt 626.000đ tăng 21.1%, khu vực nông thôn đạt 275.000đ tăng 22.2%, nhóm giàu nhất (nhóm 20% số hội có thu nhập cao nhất) đạt 877.000đ tăng 18.2%, nhóm nghèo nhất ( nhóm 20% số hội thu nhập thấp nhất) đạt 108.000đ tăng 11.7%. Thu nhập của người lao động cũng rất khác nhau ở những địa bàn ngành và thành phần kinh tế khác. Nếu so sánh thu nhập bình quân của vực Nhà nước do TW và địa phương quản lý ở một số ngành thì ta thấy sự khác nhau rõ rệt. (biểu 1). Ta nhận thấy rằng tính theo ngành kinh tế thì thu nhập của người lao động ở ngành nông, lâm là thấp nhất sau đó đến cán bộ công nhân viên và người lao động hoạt động trong lĩnh vực Đoàn thể. Bằng nhiều chính sách những năm qua chúng ta đã nâng thu nhập của đội ngũ cán bộ, giảng viên trong ngành giáo dục lên một bước đáng kể nhưng vẫn còn thấp so với yêu cầu đặt ra. Biểu 1: Thu nhập bình quân khu vực Nhà nước do TW và địa phương quản lý chia theo ngành kinh tế năm 2002 Đơn vị: (1000đ) Ngành Thu nhập bình quân người/tháng ngành kinh tế do TW quản lý Thu nhập bình quân ngành kinh tế do địa phương quản lý 1. Nông nghiệp - lâm nghiệp 712.0 544.9 2. CN khai thác mỏ 1900.0 925.7 3. Sản xuất phân phối điện 2015.0 1308.5 4. Công nghiệp chế biến 1295.0 982.6 5. Tài chính, tín dụng 1855 1502.6 6. Giáo dục - Đào tạo 1118 713.8 7. Hoạt động Đảng, đoàn 920 620.3 Mức thu nhập của người lao động ở những thành phần kinh tế có sự khác nhau rõ rệt. Biểu 2: Thu nhập bình quân của lao động trong các doanh nghiệp chi thành phần kinh tế năm 2000 và 2001 Đơn vị: (1000đ) Chia theo thành phần kinh tế Năm 2000 Năm 2001 Doanh nghiệp Nhà nước 1050.21 1214 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 743.60 809 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoà 1758.73 1672 Khoảng cách giữa thu nhập của doanh nghiệp Nhà nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tác động tâm lý, xu hướng chuyển động của lực lượng lao động xã hội Việt Nam, dần tới sự rõ rệt chất xám từ khu vực kinh tế Nhà nước, kích thích một số người lao động có văn hoá chuyên môn tay nghề cao chuyển qua làm việc tại khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Mức sống tiếp thu có chuyển biến thể hiện qua mức chi tiêu cho đời sống. Biểu 3: Thu nhập và chi tiêu bình quân nguyên 1 tháng theo đơn giá thực tế năm 2001 - 2002 phân theo 5 nhóm thu nhập Đơn vị: (1000đ) Nhóm Thu nhập Chi tiêu cho đời sống Bình quân chung 356.8 208.4 Nhóm thu nhập thấp 107.7 122.5 Nhóm thu nhập dưới TB 170.0 169.6 Nhóm thu nhập TB 251.7 216.6 Nhóm thu nhập khá 370.7 289.1 Nhóm thu nhập cao 877.1 547.1 Theo điêu tra của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đối với tiền lương, thu nhập và chi tiêu của 2153 hộ công chức tại 9 tỉnh tỉnh Đắc Lắc, Cần Thơ, TPHCM,. Đà Nẵng, Nghệ An, Thái Bình, Hà Nội, Lạng Sơn, Sơn La hiện nay tiền lương chỉ được 35-43% chi tiêu của cán bộ công chức tiền lương của công chức hành chính công chức sự nghiệp chỉ chiếm từ 28.66% đến 46.52% thu nhập, còn thu nhập ngoài lương của công chức hành chính là 71.34% của công chức sự nghiệp là 53.48%. Hiện nay do nhu cầu của cuộc sống và phát triển xã hội, cơ cấu của sự chi dùng đã có sự phát triển theo chiều hướng tỉ lệ chi cho ăn uống giảm xuống nhưng nhu cầu về ăn ở, học tập, giao tiếp xã hội lại tăng. Qua điều tra của Công đoàn Việt Nam cho thấy cơ cấu tiêu dùng cho ăn uống chỉ chiếm 30% nhưng chi cho nhà ở 11.41% (năm 1993 chỉ 8%), chi cho giao tiếp xã hội là 11.23% (năm 1993 chỉ 2.4%), chi học tập cho con cái và bản thân là 11.51% (năm 1993 chi cho học tập bản thân là 2,4%). Toán lại, thu nhập thực tế của người lao động những năm vừa qua có tăng nhưng chưa đảm bảo được những nhu cầu cũng đang ngày một tăng của người lao động. Đây là một vấn đề đặt ra không chỉ các cấp các ngành mà của các cá nhân chủ doanh nghiệp, người có trách nhiệm. 2. Sự thay đổi của chính sách tiền lương qua từng giai đoạn ở nước ta ngày cách mạng tháng tám thành công tiền lương cũng đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Xét trên khía cạnh đặc trưng có thể chia thành 3 giai đoạn chủ yếu sau đây: * Giai đoạn từ 1945 - 1954: Thực chất là áp dụng sinh hoạt phí chưa có chính sách tiền lương hoàn chỉnh, thực hiện cung cấp hiện vật đảm bảo nhu cầu cần thiết cho cán bộ và người lao động. * Giai đoạn từ 1955 -1955 : Chuyển từ chế độ sinh hoạt phí sang chế độ trả lương bằng tiền kết hợp cung cấp hiện vật theo chế độ bù lỗ. * Giai đoạn từ 1985 - nay: Nghị quyết 217/HĐBT có ghi " Xí nghiệp được phép chủ động lựa chọn hình thức và chế độ trả lương thường phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của xí nghiệp và quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động, được xếp lương nâng bậc lương cho công nhân viên chức theo chế độ chính sách tiền lương của Nhà nước. Kể khi thực hiện chế độ trả lượng bằng tiền (1957) đến nay chúng ta đã qua 3 lần cải cách tiền lương (1960, 1985, 1993). Chế độ trả lương năm 1993 và những đổi mới trong công tác quản lý kinh tế Tài chính những năm qua và cơ bản đã chuyển dần sang cơ chế thị trường, từng bước tiền tệ hoá tiền lương. Điều đó góp phần cải thiện đời sống, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 3. Thực trạng vấn đề tiền lương hiện nay Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước là động lực trong việc phát triển kinh tế nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước, khai thác khả năng của người lao động. Chế độ tiền lương hiện hành (kể từ lần cải cách tiền lương 1993) có vị thế cực kỳ quan trọng, đặt cơ sở cho việc đổi mới, hình thành quan hệ lao động mới, giá tiền công mới, tạo điều kiện phát triển các yếu tố để chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Mức tiền lương tối thiểu đã được luật hoá, quan hệ tiền lương (hệ thống trong bảng lương) được mở rộng khắc phục một bước cơ bản về tính bình quân trong lương. Cơ chế quản lý tiền lương thông thoáng hơn, gắn với kinh tế thị trường. Tiền lương thực tế nâng lên, đời sống của người hưởng lương, nghỉ hưu, đối tượng chính sách xã hội được cải thiện rõ rệt. Bước đầu đã sắp xếp đội ngũ công chức, viên chức vào đúng ngạch lương theo trình độ gắn tiền lương với chức danh tiêu chuẫn, thực hiện việc thi tuyển, thi nâng ngạch từng bước đưa việc quản lý biên chế, quỹ lương vào nề nếp tạo điều kiện cho việc cải cách hành chính, nâng cao chất lượng lao động. Để làm sáng tỏ hơn nữa thực trạng của tiền lương hiện nay để tiếp cận và phân tích một số mặt cơ bản của tiền lương. 3.1. Tiền lương tối thiểu - cơ cấu tiền lương tối thiểu và cách tiếp cận xác định. Để phân biệt nhu cầu tối thiểu, mức sống tối thiểu và tiền tối thiểu ta cần làm rõ khái niệm sau đây: + Nhu cầu tối thiểu: Được hiểu như là một sự đòi hỏi của người lao động về điều kiện sinh hoạt tối thiểu về vật chất tinh thần để tồn tại và làm việc, được phân chia thành 2 hệ thống nhu cầu: sinh học và nhu cầu xã hội. Cùng với sự phát triển của xã hội thì nhu cầu con người ngày càng tăng lên. + Mức sống tối thiểu: là mức độ thoả mãn những nhu cầu tối thiểu của người lao động trong một thời kỳ nào đó, được biểu hiện dưới 2 dạng hiện vật và giá trị. Mức sống tối thiểu bao gồm cơ cấu, chủng loại các tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái tạo sản xuất lao động đơn giản. Về mặt giá trị, được biểu hiện là giá trị của các tư liệu sinh hoạt và các công việc dịch vụ, có liên quan chặt chẽ với lương tối thiểu. Mức sống tối thiểu được đảm bảo thông qua tiền lương tối thiểu và các phúc lợi công cộng. + Tiền lương tối thiểu: là tiền lương nhất định trả cho người lao động làm các công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường đảm bảo nhu cầu sống đủ sống cho người lao động. Với quan điểm tiền lương là giá cả mức lao động thì tiền lương tối thiểu là vấn đề then chốt, là cơ sở xây dựng hệ thống thay bảng lương, quan hệ tiền lương, tính mức lương cho các loại lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động thông qua hợp đồng lao động, cơ sở cải cách tiền lương. Theo quy định của Nhà nước mức tiền lương tối thiểu có thể giao động 290.000 -730.000 các doanh nghiệp, xí nghiệp tuỳ vào điều kiện cụ thể mà tự áp dụng tiền lương tối thiểu cho phù hợp. Qua điều tra trực tiếp ta thấy: ( Do chưa có số liệu thực tế năm 2003 - 2004). Tôi xin tính số liệu đã được điều tra 2002 - với mức lương thiều: 200.000đ như sau: Có 265 doanh nghiệp chiếm 52.7% tổng số doanh nghiệp điều tra áp dụng tiền lương thống nhất trong khoảng 210.000 - 300.000đ/lao động/tháng. Có 62 doanh nghiệp chiếm 12.3% tổng số doanh nghiệp điều tra áp dụng mức tiền lương thấp nhất 310 - 400.000đ/người/tháng. Có 77 doanh nghiệp chiếm 13.5% tổng số doanh nghiệp điều tra áp dụng mức 410 - 500.000đ/người/tháng. Có 54 doanh nghiệp chiếm 40.7% tổng số doanh nghiệp điều tra áp dụng mức tiền lương thấp nhất trong khoảng 500.000đ trở lên. + Phương pháp xác định tiền lương tối thiểu: Về nguyên tác có thể xây dựng tiền lương tối thiểu cho vùng mức sống chuẩn (vùng quy ước, giả định ) và vùng có mức sống thấp nhất về cơ bản được xây dựn theo sơ đồ sau: - Xác định tiền lương tối thiểu trên cơ sở nhu cầu tiêu dùng tối thiểu cho bản thân người lao động có phần nuôi con. - Xác định tiền lương tối thiểu trên cơ sở tiền công trung bình trả cho lao động trên thị trường lao động. - Xác định mức tiền lương tối thiểu từ khả năng chi trả của nền kinh tế (GDP) và quỹ tiêu dùng dân cư. - Xác định mức tiền lương tối thiểu theo tốc độ trượt giá so với lúc thiết kế tiền lương trước đây. Qua các căn cứ xác định tiền lương tối thiểu trên về căn bản là khoa học, xét với thực tế đời sống, phù hợp với khả năng của nền kinh tế, bước đầu hình thành theo sự phát triển của thị trường lao động trên địa bàn, giảm dần khoảng cách áp dụng trong các loại hình doanh nghiệp. Việc quy định mức lương tối thiểu đã tạo điều kiện cho phép các doanh nghiệp chủ động sáng tạo, linh hoạt hơn trong việc trả lương cho người lao động, là công cụ giúp các cơ quan quản lý giám sát tiền lương của các doanh nghiêp, để tính thuế thu nhập và giải quyết tranh chấp lao động. Tuy nhiên bên canh đó còn tồn tại nhiều bất hợp lý cần phải khắc phục. Thứ nhất: Trên thực tế tiền lương hiện hành chưa có sự phân biệt giữa tiền lương tối thiểu và các doanh nghiệp với tiền lương tối thiểu áp dụng cho cán bộ công chức. Trong suốt thời gian qua, Nhà nước mới chỉ quy định chung một mức lương tối thiểu đối với tất cả mọi hoạt động, chưa đặt trong mối quan hệ tổng thể vĩ mô khác như: giá cả hàng hoá, sự phát triển của năng xuất lao động, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất việc quy định chung một mức tiền lương tối thiểu chỉ có ý nghĩa với việc trả lương từ ngân sách Nhà nước, việc đóng và hưởng chế độ BHXH chứ chưa phải là công cụ giúp việc cho việc hình thành đúng chi phí tiền lương vì tiền lương khu vực này phụ thuộc vào năng suất lao động và lợi nhuận của doanh nghiệp. Bên cạnh đó việc quy dịnh thống nhất tiền lương tối thiểu trong khu vực hành chính, sự nghiệp chỉ mang tính dịch vụ công là chưa hợp lý và là nguyên nhân làm chậm tiến trình xã hội hoá trong hoạt động sự nghiệp. Chính sự đồng nhất này là nguyên nhân làm giản tính linh hoạt của tiền lương trong cơ chế thị trường. Nhiều doanh nghiệp đang trở nên bị động, phải liên tục chạy theo sự điều chỉnh của Nhà nước về tiền lương tối thiểu. Thứ hai: mức lương tối thiểu được xây dựng gắn với quá nhiều mục tiêu xã hội như: làm căn cứ để quy định chế độ phục cấp sinh hoạt chi tiêu xã hội là công cụ để đảm cuộc sống cho các đối tượng này. Vì vậy mỗi khi Nhà nước điều chỉnh mức lương tối thiểu chung đều phải tăng lương, tăng trợ cấp và sinh hoạt phí đối với tất cả các đối tượng lương và trợ cấp từ ngân sách Nhà nước, trong khi khẳ năng của ngân sách có hạn và đây chính là nguyên nhân chủ yếu gây ra khó khăn trong việc tiếp tục cải cách chính sách tiền lương. Điều đó đã dẫn đến việc đặt tiền lương ra khỏi guồng máy sản xuất xã hội, tiền lương chưa được coi là động lực phát huy hiệu quả sản xuất, hiệu quả công việc và tăng năng xuất lao động. Tiền lương tối thiểu tương đối thấp đã được duy trì quá lâu, làm mất tác dụng tích cực của chế độ tiền lương, không kích thích người lao động gắn bó với nghề nghiệp của mình. Tư tưởng "phân phối tiền lương tối thiểu căn cứ vào ngân sách Nhà nước" đã bao trùm toàn bộ cả khu vực sản xuất kinh doanh. Do vậy đã biến tiền lương thành yếu tố đơn thuần của phạm trù phân phối tách rời căn cứ của nó là trình độ phát triển sản xuất, năng xuất lao động và lợi thế cạnh tranh. Dẫn đến việc không khuyến khích việc sử dụng và phân phối lao động hợp lý, tạo sự chia cắt thị trường lao động giữa các khu vực - thực chất là việc đầu tư cho phát triển nguồn lực chưa được phát triển và quán triệt triệt để. Thứ ba: so với sức phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay thì mục tiêu đề ra của tiền lương tối thiểu để đảm bảo tái sản xuất giản đơn và một phần để tái sản xuất mở rộng là tương đối cao và đó hiệu quả còn thấp. Đợt tăng lương tối thiểu gần đây nhất từ 210.000đ đến 290.000đ đã phần nào phù hợp với những thay đổi của nền kinh tế xã hội tuy nhiên do xuất phát điểm của mức lương tối thiểu năm 1993 tương đối thấp nên mặc dù đã qua nhiều lần điều chỉnh nhưng mức lương đó vẫn chưa đảm bảo nhu cầu tối thiểu. Bên cạnh đó cơ cấu tiền lương tối thiểu trên đã bỏ qua một số khoản phát sinh như phí vệ sinh, xây trường lớp đóng góp xã hội, phụng dưỡng bố mẹ già. Theo tính toán các khoản này chiếm khoảng 12% so với mức lương. Thứ tư: Phương pháp xác định mức lương tối thiểu hiện nay vẫn dựa trên kết quả là mức bình quân của các cách tiếp cận khác nhau: nhu cầu tối thiểu của người nuôi con, khả năng kinh tế..nên đã bình quân hoà cả 3 yếu tố trong lương, đó là: giá cả sinh hoạt, nhu cầu và tập quán tiêu dùng của từng vùng và chênh lệch tiền lượng thiểu đã hình thành trên thị trường lao động giữa các vùng. Thứ năm: Các căn cứ khoa học cho việc xây dựng và áp dụng tiền lương tối thiểu chung, tiền lương tối thiểu theo vùng, theo ngành theo giờ, đối với các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế còn thiếu chưa sát với thực tế. Điều này đã tạo ra mặt bằng tiền công khác nhau trên thị trường lao động dẫn đến việc cạnh tranh không bình đẳng. Vì vậy tác dụng của tiền lương tối thiểu còn rất hạn chế, đặc biệt là đối với khu vực cần bảo vệ và vài trò "lưới an toàn" chung cho cả xã hội của nó chưa đạt yêu cầu do phạm vi áp dụng quá nhỏ chưa thực sự hướng vào khu vực có nhiều đối tượng yếu thế trên thị trường. Cuối cùng, việc quản lý tiền lương tối thiểu đến nay còn mang nặng tính hành chính, chưa tạo điều kiện cho sự tham gia của các bên liên quan như giới chủ, người lao động mà đại diện là công đoàn. Mặt khác công tác thanh tra, giám sát việc thực hiện tiền lương tối thiểu ở nước ta hiện này có thể nói vừa lõng lẽo vừa cứng nhắc. 3.2. Quan hệ tiền lương Quan hệ tiền lương được hiểu là những tương quan giữa mức tiền lương trung bình thấp nhất và mức tiền lương trung bình cao nhất trong doanh nghiệp. Tính chung trong toàn khối điều tra, mức tiền lương bình quân thấp nhất đạt khoảng 347.000đ/tháng/lao động; mức tiền lương tối đa của trung bình là 347.000đ/tháng/lao động (số liệu 2002). Thời gian gần đây tuy có tăng nhưng nhìn chung không đáng kể. Quan hệ tiền lương được mở rộng từ 1 -3.5 lên 1-10 đã khắc phục một bước tính bình quân trong tiền lương, tiền tệ hoá tiền lương phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước trong giai đoạn vừa qua. Về tổng thể, quan hệ tiền lương giữa các khu vực hành chính sự nghiệp lực lượng vũ trang, sản xuất kinh doanh, bầu cử tại thời điểm ban hành tương đối phù hợp. Quan hệ tiền lương của lực lượng và trung bình quân cao gấp 1.7-1.8 lần hành chính sự nghiệp thể hiện rõ quan điểm ưu tiên của Đảng, Nhà nước đối với lao động có tính chất đặc biệt của lực lượng vũ trang. Bên cạnh những mặt chuyển biến tích cực của quan hệ tiền lương còn tồn tại một số vấn đề cơ bản cần thiết được xem xét và khắc phục. - Quan hệ tiền lương trong đề án cải cách tiền lương đã được Quốc hội thông qua là 1-2.2-13 đến khi ban hành Nghị định của chính phủ quy định tạm thời về chế độ tiền lương mới của công chức, viên chức, hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang khu vực sản xuất kinh doanh, bầu cử đã được điều chỉnh, mới chỉ áp dụng quan hệ 1-1.9-10 và cho đến nay vẫn chưa thực hiện. - Với quan hệ tiền lương hiện nay, tiền lương cấp bậc, chức vụ theo tháng, bàng lương chỉ chiếm phần nhỏ trong tổng thể thu nhập của người hưởng lương (khoảng30 - 50%) làm cho tiền lương không phản ánh đúng thang giá trị lao động, đảo lộn quan hệ tiền lương trên thực tế. Bội số tiền lương trong thực tế lớn hơn nhiều làm bội số tiền lương trong thiết kế. - Cải cách tiền lương gân đây đã tách ra thành 4 hệ thống lương là một bước tiến bộ và đúng đắn. Tuy nhiên trong thiết kế thang, bảng lương, việc đồng nhất hệ số lương khu vực hành chính Nhà nước với khu vực sự nghiệp là chưa hợp lý vì khu vực sự nghiệp có nguồn và cơ chế trả lương khác với khu vực hành chính Nhà nước do ngân sách Nhà nước trả lương. 3.3. Thu nhập ngoài lương trong hàng chục năm lại đây, thu nhập ngoài lương đã trở thành một hiện tượng khá phổ biến ở nhiều cơ quan, đơn vị Nhà nước. Tồn tại song song với tiền lương, thu nhập ngoài lương bổ sung cho tiền lương và hình thành thu nhập thực tế của người lao động. Xét ở khía cánh nào đó thu nhập ngoài lương có ý nghĩa không nhỏ, thu nhập ngoài lương góp phần đảm bảo đời sống của công nhân viên chức. ở nhiều nơi, do quản lý tốt nguồn hình thành thu nhập ngoài lương đã có tác dụng khuyến khích người lao động làm việc tích cực, chất lượng hiệu quả. Tuy nhiên khi mà thu nhập ngoài lương phát triển đến mức lớn hơn nhiều lần tiền lương thì ý nghĩa tích của nó đã bị thay đổi. Thu nhập ngoài lương quá mức đã gây ra sự méo mó về quan hệ giữa tiền lương và thu nhập thêm, phát sinh chênh lệch giữa các cơ quan, đơn vị này với cơ quan đơn vị khác. Để có nguồn trả thu nhập ngoài lương, nhiêu cơ quan đơn vị đã phải phát triển hoạt động có thu, bao gồm cả những hoạt động không gắn gì đến chức năng nhiệm vụ. Bảng trên đây cho thấy tình hình trên ở một số cơ quan đơn vị: (Đơn vị: đồng) Tên cơ quan đơn vị Tiền lương bình quân tháng Thu nhập ngoài lương /tháng Thu nhập ngoài lương so với tiền lương 1. Trường CĐ CN IV 872.000 1.296.296 148.6% 2. Trương ĐH Giao thông 467.653 356.359 76.2% 3. Bệnh vện Chợ Rẫy 841.409 2.779.586 330% 4. Bệnh viện Bạch Mai 846.284 860.113 101.6% 5. Viện Paster - TPHCM 463.475 57.702 12.45% 6. Viện nghiên cứu địa chính 686.604 1.240.310 185.5% Tình trạng trên đòi hỏi nhận diện rõ ràng hơn về thu nhập ngoài lương, để từ đó kiểm soát, quản lý nguồn thu nhập này sao cho hợp lý nhất trong lộ trình cải cách chính sách tiền lương. Để tiền lương thực sự là nguồn sống chính của người lao động. Từ đó lại lại trật tự trong phân phối hiện nay. Theo điều tra gần đây thu nhập ngoài lương chiếm 53.48 71.34% trong tổng thu nhập của công chức làm cho công chức không yên tâm công tác thực hiện đúng chức trách của mình vì thế tiền lương không còn tác dụng là công cụ quản lý lao động. Thu nhập ngoài lương quá lớn, Nhà nước không kiểm soát nổi thu nhập của từng cơ sở cũng như của từng người lao động, do vậy không thể điều tiết được thu nhập làm cho sự bất bình đẳng trong thu nhập ngày càng tăng. Tiền lương thấp hơn thu nhập trong khi đó mức lương và hưởng BHXH lại theo tiền lương làm c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQ0082.doc
Tài liệu liên quan